Lời mở đầu
Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong hoạt
động của mình để đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế.
Từ những yêu cầu của hệ thống ngân hàng, nước ta đã có những đổi
mới căn bản về cơ cấu tổ chức cũng như công nghệ của ngân hàng. Nét nổi
bật của những đổi mới đó là sự phân chia thành hai cấp của hệ thống ngân
hàng, trong đó Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền
tệ và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, còn Ngân hàng Nhà nước với
vai trò quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại đã góp phần quan
trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế càng phát triển mạnh
thì những đòi hỏi yêu cầu đặt ra với hệ thống ngân hàng ngày càng lớn, buộc
các ngân hàng phải không ngừng đổi mới và phát triển hơn nữa để đáp ứng và
thoả mãn những yêu cầu của nền kinh tế.Với nhận thức: để tồn tại và phát
triển vững mạnh trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì các
Ngân hàng Thương mại không còn cách nào khác là phải mở rộng hoạt động
kinh doanh cũng như không ngừng nâng cao chất lượng của những hoạt động
đó. Đối với ngành ngân hàng hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong đó, tín dụng trung và dài
hạn là nghiệp vụ quan trọng mang lại hiệu quả cao trong hoạt động tín dụng
của các ngân hàng. Vì vậy, việc không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng
nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển vững chắc của các ngân hàng.
Từ nhận thức trên, Em mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công thương Từ
Sơn” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình nhằm đóng góp những ý kiến trong
phạm vi kiến thức của em về vấn đề nghiên cứu trên.
1.Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín
dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị
trường. Ngoài ra, chuyên đề còn xem xét thực trạng chất lượng tín dụng trung
và dài hạn tại Ngân hàng Công thương Từ Sơn dựa trên các chỉ tiêu cơ bản.
Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn và lý luận, chuyên đề đặc biệt quan tâm tới
việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
hạn tại Ngân hàng Công thương Từ Sơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề chủ yếu tập trung nghiên
cứu tình hình tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công thương Từ Sơn.
Phạm vi nghiên cứu : Tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý
luận liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Ngân
hàng Công thương Từ Sơn từ năm 2006 đến năm 2007, từ đó đề xuất một số
định hướng, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung của
Ngân hàng.
3.Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận chuyên đề được trình bày ở 3 Chương:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân
hàng Công thương Từ Sơn.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Ngân hàng Công thương Từ Sơn.
Do kiến thức,thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết
chuyên đề này chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những sai lầm thiếu sót.Em mong
rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp bổ ích từ các thầy giáo,cô giáo ,các
bạn và những người quan tâm để chuyên đề này được bổ sung và hoàn chỉnh
hơn.
Chương 1:Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và
dài hạn của ngân hàng thương mại
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm,đặc điểm của ngân hàng thương mại
Khái niệm: Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể
tham gia nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế
nào về một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng
không phải là điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua
chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ
không chỉ chức năng của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào
chức năng hoạt động Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo
đIều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có
những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng được định nghĩa:”Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng
cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.”
Còn luật pháp ấn độ lại có cái nhìn về Ngân hàng như sau, họ định
nghĩa:” Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay
hay tài trợ và đầu tư.”
Đó là các quan niệm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn
đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về Ngân
hàng được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: ”Ngân hàng là loại hình tổ
chức tàt chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế.”
Ở Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng
được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền
tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.”
Như vậy thông quâ một số khái niệm về Ngân hàng thương mại, ta có
thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh trên lĩnh tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, và nó có những đặc
trưng như sau:
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của
công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác
của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tàI chính
khác.
Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước ta các loại hình
Ngân hàng thương mại được hoạt phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng
bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của Ngân hàng
thương mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là
hai mặt hoạt động tín dụng. Trong xu thế hiện nay, các Ngân hàng thương mại
hoạt động theo loại hình đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt
động chính: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, hoạt động trung
gian.
Hoạt động huy động vốn đối với Ngân hàng đây là hoạt động “đầu
vào” của Ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của một Ngân hàng được
hình thành từ những nguồn chính sau đây: vốn tự có của doanh nghiệp, vốn
vay (vay của các tổ chức tài chính, vay của dân cư, vay của Ngân hàng trung
ương), lợi nhuận để lại, ngoài ra đối với một số Ngân hàng nguồn vốn hoạt
động có thể hình thành từ vốn đIều lệ hay vốn uỷ thác...Trong quá trình hoạt
động của mình, Ngân hàng thương mại phần lớn dựa vào việc huy động các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Hoạt động nguyên thuỷ của Ngân hàng là nhận tiền gửi của khách
hàng và đây vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu của Ngân hàng. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng tới quy mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như: lãi suất,
phương thức huy động của Ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội từng thời kỳ,
phong tục tập quán của từng vùng, uy tín của từng Ngân hàng, các dịch vụ do
Ngân hàng cung cấp...vv. Nắm được yếu tố đó, Ngân hàng có thể đIều chỉnh
lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình.
Các loại tiền gửi mà Ngân hàng cung cấp để huy động vốn là: tiền gửi
thanh toán không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu tín dụng và đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh, Ngân hàng có thể vay vốn từ dân cư , các đơn vị kinh tế, các tổ chức
tín dụng khác thông qua một số hình thức như: phát hành trái phiếu, kỳ phiếu
hoặc vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
Để được hoạt động và thực hiện huy động vốn, Ngân hàng phải có
một lượng nhất định gọi là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng vốn sử dụng song nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động
của Ngân hàng. Vốn tự có là đIều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy
phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản
tiền gửi đầu tiên. Vốn tự có còn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại
rủi ro phá sản, những thua lỗ về tàI chính trong hoạt động tạm thời. Nó tạo
niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài
chính của Ngân hàng. Và nó còn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng
trưởng và sự phát triển dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị
mới.
Đối với hoạt động sử dụng vốn, đây là hoạt động cho vay và đầu tư
bao gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư chứng
khoán.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường
xuyên của Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh
lời thấp nhưng tính lỏng cao được coi như tiền mặt. Do đó Ngân hàng phải
duy trì lượng tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh
khoản vừa đảm bảo tính sinh lời.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành
bại của Ngân hàng vì đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng. Cũng
vì vậy mà đây là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh đIều đó, việc
quản lý tiền cho vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là món vay lớn, với
thời hạn dài. Ngân hàng thương mại có thể cho vay theo nhiều hình thức khác
nhau.
Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng
khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh
toán của Ngân hàng.
Hoạt động trung gian là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng
một loạt các dịch vụ có liên quan. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản thu
dưới hình thức hoa hồng. Công nghệ Ngân hàng càng phát triển thì hoạt động
này càng phong phú và doanh thu càng lớn. Các hoạt động tiêu biểu là:
chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên
tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản
cho khách hàng, tư vấn cho doanh nghiệp...vv.
Ngày nay, xu hướng của Ngân hàng là hoạt động đa năng trên nhiều
lĩnh vực với nhiều nghiệp vụ khác nhau. Các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận cao nhất.
Đồng thời ngân hàng còn là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho
công chúng và doanh nghiệp, thành công của ngân hàng sẽ phụ thuộc vào
năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,thực hiện các
dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
*Mua bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao
đổi (mua bán) ngoại tệ-một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.Trong thị trường tài chính ngày nay,mua
bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những
giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ
chuyên môn cao.
*Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao,do đó các ngân hàng đã
tìm mọi cách để huy động đựoc tiền.Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi(thanh toán và tiết kiệm của khách hàng).Ngân hàng mở dịch
vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng
hạn.Trong cuộc cạnh tranh để ìm và giành được các khoản tiền gửi,các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hy sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh.
*Cho vay:
Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu,các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán(Người bán
chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước).Sau đó là bước
chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng(là người mua),giúp họ có vốn để mua hang dự trữ nhằm mở rộng
sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hang không
tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản
cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người
tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng
tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.Sau chiến tranh thế
giới2, tín dụng tiêu dung đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng
trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn
hạn,các ngân hàng ngày càng trở lên năng động trong việc tài trợ cho xây
dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.do rủi ro trong
loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lớn.Một số ngân hàng còn
cho vay để đầu tư vào đất.
*Bảo quản vật có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và
các vật có giá trị khác cho khách hàng trong kho bảo quản.Khi nhận ngân
hàng sẽ giao cho khách tò biên nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho
giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền-dùng để
thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
*Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi
các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ
bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh
toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dung tiền mặt,tức là
người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi
trả cho khách( séc),khách hang mang đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.Các
tiện ích của thanh toán không dung tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập của các doanh nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán
hộ. Như vậy,một dịch vụ mới,quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản
tiền gửi giao dịch (demand deposit)cho phép người gửi tiền viết sé thanh toán
cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này
được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiêph
ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thong tin,nhiều thể thức
thanh toán được phát triển như: Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng
điện, thẻ…
*Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần
lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối
lien hệ chặt chẽ với nhiều khách hang.Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân
quỹ và có khả năng trong việc thu ngân,nhiều ngân hàng đã cung cấp cho
khách dịch vụ quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu
và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt
tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hang cần tiền mặt để thanh toán.
*Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Khả năng huy động và cho
vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các
chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường cấp bách trong khi thu không
đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân
hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ thì Chính
phủ sẽ dùng một số đặc quyển trao đổi lấy các khoản vay.
*Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng
rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có
uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây,nghiệp vụ
bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh
cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành
chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
*Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Nhằm để bán được các thiết bị,
đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho
thuê các thiết bị.Cuối hợp đồng thuê,khách hàng có thể mua. Rất nhiều ngân
hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị,
máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua
thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu
cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vây, cho
thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào
tín dụng trung và dài hạn.
*Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực
tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lí tài chính.Vì vậy
nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý
hoạt dộng tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ
thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư…
*Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều ngân hàng
đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả
mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến ngân hàng bắt
đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán,cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến
người kinh doanh chứng khoán.Trong một vài trường hợp các ngân hàng tổ
chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
*Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: các ngân hàng bán bảo hiểm cho
khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị
chết, bị tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
*Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều
ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ,…
1.2 Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1 Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ tín dụng đang được sử dụng phổ biến hiện nay có xuất xứ
từ chữ La-tinh “creditum”, nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế, thuật
ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngay cả trong quan hệ
tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Dưới góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương
pháp chuyển dịch quỹ từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết
kiệm.
Theo chức năng hoạt động của ngân hàng: Tín dụng là một giao dịch
về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế
tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác).
Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng một thời
gian nhất định theo thoả thuận.
Vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế thể hiện sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu lại một lượng giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu
Từ những cách quan niệm trên, có thể thấy bản chất của tín dụng là
giao dịch về tài sản trên cơ sở có thời hạn và hoàn trả.
Tài sản trong quan hệ tín dụng có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình
thức là cho vay và cho thuê. Trong những năm trước đây, hoạt động tín dụng
chỉ có hình thức chủ yếu là cho vay. Xuất phát từ đó mà nhiều lúc thuật ngữ
tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở
lại đây, cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng. Đây là một hình thức tín dụng bằng tài sản thực
(nhà ở, văn phòng, máy móc thiết bị...)
Thứ hai, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay
sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong
thực tế, các nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở
đánh giá mức độ tín nhiệm mà lại chú trọng đến các bảo đảm về tài sản.
Chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Chính
những nhà kinh tế học cổ điển đã đưa khái niệm tín dụng với chữ “tín” lên
hàng đầu không phải là vấn đề ngẫu nhiên.
Thứ ba, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay.
Nói cách khác, người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
Thứ tư, trong quan hệ tín dụng ngân hàng,rủi ro là tất yếu do thông tin
không cân xứng,sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức nên tiền vay được
cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
Thời hạn cho vay dài: Vì hoạt động tín dụng trung và dài hạn nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cố định của khách hàng để mua sắm máy móc, trang
thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Vốn đầu tư lớn : Việc đầu tư được thực hiện bởi các dự án lớn và
những hoạt động mang tầm chiến lược của các doanh nghiệp nên tỷ trọng vốn
vay lớn gấp nhiều lần so với những khoản vay ngắn hạn.
Mức độ rủi ro cao: Vì thời gian thu nợ kéo dài nên trong khoảng thời
gian đó có thể xảy ra nhiều biến động về lạm phát, về quy chế, chính sách
pháp luật… Những biến động này sẽ làm ảnh hưởng xấu đến quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho họ chưa trả được nợ hoặc không
trả được nợ cho ngân hàng dẫn tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng bị giảm sút.
Lãi suất cao: Lãi suất cho vay, ngoài lãi suất cơ bản còn phụ thuộc
vào cấu trúc rủi ro và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Mức độ rủi ro cao, thời hạn
vay dài thì lãi suất sẽ cao. Như chúng ta thấy, chi phí huy động vốn trung và
dài hạn - nguồn vốn chủ yếu dùng để cho vay trung và dài hạn là rất lớn.
Trong tín dụng trung và dài hạn, rủi ro cao hơn bởi đây là hình thức
tài trợ dự án:
1.2.1.3.Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
a) Đối với nền kinh tế.
Cung cấp vốn phục vụ sự phát triển kinh tế -xã hội Tín dụng trung và
dài hạn góp phần giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế về nhu cầu
vốn tiền tệ, nó thực hiện việc điều hoà vốn nhằm phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Bên cạnh đó, tín dụng trung và dài hạn còn là đòn bẩy thúc
đẩy sản xuất và cơ cấu lại sản xuất trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng lành
mạnh, chính sách tín dụng đúng đắn sẽ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định
tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và tăng uy tín quốc gia.
So với hình thức cấp vốn từ ngân sách, hình thức cấp tín dụng trung và
dài hạn hiệu quả hơn nhiều, đồng vốn lúc này gắn liền với quyền lợi của ngân
hàng cũng như của doanh nghiệp.
Với ngân hàng, để đảm bảo đồng vốn sinh lời họ phải theo dõi sát sao
đồng vốn của mình và trong những trường hợp cần thiết phải tư vấn hoặc đưa
ra những lời khuyên bổ ích cho doanh nghiệp. Còn đối với doanh nghiệp, lãi
suất tín dụng trung và dài hạn với chi phí rất cao nên nếu không sử dụng có
hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ mất đi một khoản chi phí đáng kể thậm chí phải
chịu lãi suất phạt hoặc bị tịch thu tài sản thế chấp.
Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát
triển: Tín dụng trung và dài hạn đã trở thành một trong những phương tiện để
liên kết nền kinh tế giữa các nước với nhau. Bởi ngân hàng thông qua hoạt
động cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài
hoặc cho các đối tác nước ngoài vay để đầu tư vào trong nước hoặc cho vay
xuất nhập khẩu đã tạo ra mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, dần dần thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nền kinh
tế của nước đó và nền kinh tế các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Tạo công ăn việc làm cho người lao động: Ngoài những tác động trực
tiếp kể trên thì tín dụng trung và dài hạn còn có những tác động gián tiếp tới
nền kinh tế. Những dự án mở rộng, đầu tư mới của doanh nghiệp đã tạo ra
công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nỗi bức xúc của xã hội. Việc
đầu tư mới, mua sắm dây chuyền công nghệ, máy móc hiện đại của doanh
nghiệp từng bước làm thay đổi lực lượng sản xuất cho phù hợp với quan hệ
sản xuất mới, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
b) Đối với ngân hàng.
Mục tiêu lợi nhuận:
Trong hoạt động của mình các Ngân hàng Thương mại là các doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ. Do vậy, trong cơ chế thị trường, ngân hàng phải
tính toán sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, hạn chế rủi ro ở mức thấp
nhất. Mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu quan trọng nếu không nói là hàng đầu
mà bất cứ một NHTM nào cũng muốn đạt được, đó là tối đa hoá lợi nhuận
trong phạm vi cho phép. Nếu phủ nhận lợi nhuận sẽ dẫn đến một hoạt động
không có hiệu quả. Với tư cách là hoạt động sinh lời chủ yếu thì việc nâng
cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói
riêng sẽ tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro xảy ra, kinh doanh càng lớn thì khả
năng thu lợi nhuận càng cao nhưng đồng thời với nó là khả năng gặp rủi ro
càng lớn.Trong hoạt động cho vay thì hình thức cho vay trung và dài hạn đặc
biệt được quan tâm, bởi nó đem lại lợi nhuận cao nhưng đi kèm lại là rủi ro
rất lớn. Khi đã có rủi ro xảy ra thì hậu quả rất nặng nề do những khoản vay
trung và dài hạn thường có giá trị lớn.
Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát
triển:
Như chúng ta thấy, các dự án đầu tư của doanh nghiệp sẽ không thực
hiện được và trở nên vô nghĩa khi thiết bị, công nghệ lạc hậu, không được cải
tiến, đổi mới cho phù hợp. Vì vậy, nhờ có các khoản đầu tư trung và dài hạn –
nền tảng cho sự phát triển thì các doanh nghiệp mới yên tâm sử dụng các
khoản vay ngắn hạn của ngân hàng để sản xuất và kinh doanh. Do đó, tín
dụng trung và dài hạn chính là động lực từng bước thúc đẩy tín dụng ngắn hạn
phát triển.
c)Đối với khách hàng
Bên cạnh vai trò đối với ngân hàng và nền kinh tế thì tín dụng trung
và dài hạn còn có vai trò hết sức quan trọng đối với khách hàng.
Tạo điều kiện mở rộng quy mô, phát triển sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Sở dĩ như vậy, là do tín dụng trung và dài hạn rất phù hợp với điều
kiện thực tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này do
không có được những ưu thế về quy mô và vốn tự có như các doanh nghiệp
lớn nên họ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn. Vì vậy, họ
khó có thể đầu tư cho những dự án lớn mà không dựa vào sự tài trợ thông qua
tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
Tín dụng trung và dài hạn cung ứng vốn giúp phát triển tiềm năng,
tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp hiện nay đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của nền
kinh tế thị trường đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một
ngành với nhau, giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
nước ngoài… Vì vậy, nhờ có nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn được sử
dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất…
Mà chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp được tăng lên, đẩy nhanh quá
trình tiêu thụ từ đó giúp doanh nghiệp từng bước chiếm lĩnh thị trường mới.
Đồng thời, cũng nhờ nguồn vốn này mà các doanh nghiệp có thể định hướng
phát triển cho phù hợp với nhu cầu của thị trường nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Tín dụng trung và dài hạn là một trong những yếu tố nâng cao năng
lực sản xuất - kinh doanh góp phần khẳng định tính khả thi của dự án:
Như chúng ta đã biết, khi tham gia đầu tư vốn vào doanh nghiệp có
nghĩa là ngân hàng đã tìm hiểu nghiên cứu kỹ những dự án của doanh nghiệp.
Điều này buộc các nhà đầu tư khi lập dự án phải hết sức thận trọng cân nhắc
khi đưa ra các dữ kiện, số liệu, luận cứ… để thuyết phục ngân hàng cho vay.
Vì vậy, ngay từ khi lập dự án tiền khả thi cho đến khi lập được dự án khả thi
ngân hàng đã đóng vai trò là một là nhà tư vấn quan trọng giúp doanh nghiệp
phát triển tiềm năng. Đây cũng chính là một ưu thế của vốn trung và dài hạn,
nó sẽ góp phần làm tăng năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Đồng thời, do ngân hàng không cho vay đối với các doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả nên bắt buộc người vay phải năng động sáng tạo, nâng
cao chất lượng đi đôi với hạ giá thành sản phẩm để đứng vững trong cạnh
tranh. Từ đó, người vay vốn sẽ phải sử dụng vốn vay một cách tiết kiệm nhất,
hiệu quả nhất để có thể trả được nợ vay ngân hàng và tái sản xuất mở rộng.
1.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được, các doanh
nghiệp phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: sản xuất cái gi? Sản xuất cho ai? Và
sản xuất bằng cách nào? đây là ba vấn đề cơ bản mà các doanh nghiệp gặp
phải trong nền kinh tế thị trường. Để làm được đIều này các doanh nghiệp
phải quan tâm đến một yếu tố rất quan trọng đó là chất lượng của sản phẩm.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trên thị
trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá cả và
chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là : "Mức độ đáp ứng yêu cầu
của khách hàng (cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều
kiện kinh tế - xã hội và điều kiện đặc thù của bản thân ngân hàng, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng “
Chất lượng cho vay được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Đó là vay được tiền phù hợp với mục đích sử
dụng với các điều khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện
đảm bảo thanh toán phù hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện
hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu
quả sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Đối với Ngân hàng thương mại: cho vay cung cấp phù hợp với thực
lực tài chính và quản lý của Ngân hàng, phù hợp với chiến lược khách hàng,
phù hợp với nguyên tắc cho vay, chiến lược cạnh tranh và phát triển, đảm bảo
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi với giá thành hợp lý, đảm bảo việc
tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vai trò của Ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường.
- Đối với nền kinh tế: Cho vay cung cấp đáp ứng được nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và
có hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh doanh, tăng cường hiệu
quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng các vùng kinh tế
mới, tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia...
Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái
niệm chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng:
-Đây là một khái niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể
hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...).
-Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua
nhiều yếu tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng....
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
của ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một chỉ tiêu tổng hợp, nó
phản ánh độ thích nghi của Ngân hàng Thương mại (NHTM) với sự thay đổi
của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của mỗi ngân hàng trong quá
trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Do đó, để có thể đánh giá được một
ngân hàng là mạnh hay yếu thì phải đánh giá được chất lượng tín dụng trung
và dài hạn vì đây là thước đo chủ yếu.
a. Các chỉ tiêu định tính.
Chúng ta sẽ cùng nhau xem xét các chỉ tiêu định tính trên cả ba giác
độ: nền kinh tế, ngân hàng và khách hàng.
Đối với nền kinh tế:
Chỉ tiêu định tính được thể hiện ở khả năng đáp ứng vốn phù hợp với
nhu cầu phát triển của nền kinh tế, một khoản vay trung và dài hạn muốn có
chất lượng tốt thì phải đảm bảo được đầu tư đúng theo đường lối phát triển
kinh tế-xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Hơn nữa môi trường kinh tế phát triển, môi trường chính trị, pháp luật
ổn định… cũng chính là điều kiện tốt để nâng cao chất lượng tín dụng trung
và dài hạn bởi thời hạn cho vay trung và dài hạn thường rất dài và tiềm ẩn
nhiều rủi ro.
Đối với ngân hàng:
Tính định tính đối với ngân hàng thể hiện trước hết ở khả năng thu
hút khách hàng của ngân hàng. Một ngân hàng muốn thu hút được nhiều
khách hàng về phía mình thì phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
ngân hàng mà đặc biệt là phải nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung
và dài hạn. Bởi đây là hoạt động có nhiều khách hàng tiềm năng trong tương
lai. Vì vậy, khi lượng khách hàng ngày một tăng sẽ cho thấy chất lượng tín
dụng trung và dài hạn của ngân hàng ngày càng tốt.
Đối với khách hàng:
Chỉ tiêu định tính được thể hiện trước tiên ở khả năng đáp ứng nhu
cầu của khách hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
được coi là tốt khi nó đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đúng
đắn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi, từ đó tạo ra lợi nhuận
cho ngân hàng.
Đồng thời việc tôn trọng hợp đồng tín dụng của khách hàng vay vốn –
cơ sở pháp lý của ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao
chất lượng các khoản vay trung và dài hạn. Bởi điều này cho thấy các quy
chế, thể lệ của ngân hàng đã được chấp hành nghiêm túc, từ đó tạo ra tính an
toàn và hiệu quả của vốn vay.
Tóm lại, những chỉ tiêu định tính thể hiện ở ba khía cạnh: ngân hàng,
khách hàng, nền kinh tế sẽ phần nào phản ánh được chất lượng tín dụng trung
và dài hạn của các NHTM.
b.Các chỉ tiêu định lượng
Chất lượng hoạt động tín dụng được đánh giá chủ yếu thông qua các
chỉ tiêu sau:
- Tổng dự nợ: Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền
ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm, nó bao gồm dư nợ ngắn hạn,
dư nợ trung và dài hạn. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ tín dụng ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn của Ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Tổng dư nợ thể hiện
qui mô tín dụng của Ngân hàng nhưng chưa hoàn toàn phản ánh được chất
lượng tín dụng. Vì vậy, người ta sủ dụng chỉ tiêu thứ hai là chỉ tiêu nợ quá
hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn: Đây là một chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá
chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại và được tính theo
công thức sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
* 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng tốt, độ an toàn của ngân hàng cao (hay mức độ rủi ro trong ngân
hàng thấp). Tỷ lệ nợ quá cao biểu hiện chất lượng tín dụng thấp, rủi ro trong
hoạt động tín dụng cao. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ “có
vấn đề” có thể bị mất một phần vốn cho vay. Vì vậy khi đánh giá một phần
chất lượng tín dụng, người ta thường dùng chỉ tiêu này. Một ngân hàng
thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn có nguy cơ mất vốn là ngân hàng có
chất lượng tín dụng kém. Ngoài ra, khi xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng
ngân hàng người ta còn phân loại, đánh giá nợ quá hạn theo các tiêu thức sau:
Nợ quá hạn theo loại hình kinh tế và thời gian quá hạn: Nợ quá hạn
dựa theo loại hình kinh tế quốc doanh là các doanh nghiệp có 100% vốn nhà
nước, kinh tế ngoài quốc doanh. Trong từng loại hình kinh tế, nợ quá hạn lại
được phân theo thời gian quá hạn gồm: Nợ quá hạn dưới 180 ngày, từ 180
ngày đến 360 ngày và trên 360 ngày. Thời gian quá hạn càng lâu thì mức độ
rủi ro càng lớn, các món nợ trên 360 ngày đều được coi là các khoản nợ khó
đòi.
Nợ quá hạn theo loại hình kinh tế và thời gian cho vay: Trong từng
loại hình kinh tế, nợ quá hạn được chia thành: Nợ quá hạn ngắn hạn (nợ quá
hạn đối với loại hình cho vay ngắn hạn), nợ quá hạn trung và dài hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng, cần sử dụng thêm chỉ
tiêu nợ quá hạn có khả năng thu hồi.
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi (%)
=
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Nợ quá hạn
*
100%
Khi đánh giá về nợ quá hạn phải phân tích theo tỷ lệ nợ quá hạn có
khả năng thu hồi chiếm tỷ lệ là bao nhiêu? Nợ quá hạn không có khả năng thu
hồi là bao nhiêu trong tổng nợ quá hạn. Vì vậy, việc sử dụng thêm chỉ tiêu
này cho phép đánh giá chính xác hơn về chất lượng hoạt động tín dụng của
các ngân hàng thương mại.
- Thời hạn hoàn vốn và vòng quay vốn Tín dụng
Để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng được đúng đắn thì ngoài
các chỉ tiêu cần phải xem xét đến vòng quay vốn tín dụng và thời hạn hoàn
trả.
- Thời hạn hoàn trả là một quá trình từ lúc cho vay đến khi thu hồi hết
nợ. Do đó, việc xác định thời hạn hoàn trả là rất quan trọng. Nếu xác định thời
hạn hoàn trả đúng và hợp lý, doanh nghiệp sẽ tiến hành sản xuất kinh doanh
một cách thuận lợi và đảm bảo hoàn trả được ngân hàng đúng kỳ hạn. Nếu
thời hạn hoàn trả xác định lớn hơn tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp
sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn sang mục đích khác, gây khó khăn
cho việc ngân hàng thu nợ đến hạn, thậm trí có thể gây tổn thất (mất vốn) vì
doanh nghiệp sử dụng vốn ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Ngược lại,
thời hạn cho vay ngắn hơn tốc độ luân chuyển vốn sẽ gây căng thẳng cho
doanh nghiệp không thể trả được nợ ngân hàng đúng kỳ hạn cả gốc và lãi.
Vì vậy, việc xác định thời hạn cho vay phải có sự tính toán dựa trên
cơ sở khoa học, đảm bảo số tiền cho vay được sử dụng đúng mục đích, phát
huy có hiệu quả tốt để ngân hàng thu được gốc và lãi đẩy đủ đúng hạn. Việc
xác định thời hạn cho vay căn cứ vào 3 yếu tố: Đặc điểm kinh doanh của ngân
hàng, tốc độ luân chuyển vốn của khách hàng và khả năng thu nhập của khách
hàng.
- Vòng quay vốn tín dụng được xác định theo công thức sau đây:
Vòng quay vốn tín dụng (vòng)
=
Doanh số thu nợ trong kỳ
Dư nợ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm. Số
vòng quay càng lớn thì độ luân chuyển được đánh giá là tốt. Song nếu vòng
quay vốn tín dụng quá nhanh thể hiện cơ cấu tín dụng chưa hợp lý. Vì vậy,
người ta thương phải xem xét một nhân tố nữa là thu nhập từ hoạt động cho
vay.
- Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay
Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay được xác định như sau:
Thu nhập từ hoạt động cho vay
=
Lãi từ hoạt động cho vay
Tổng thu nhập
Chất lượng hoạt động tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Thu nhập từ hoạt
động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của ngân
hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Tuy nhiên, khi đánh giá không nên chỉ
phân tích trên số tương đối (tỷ lệ %) mà nên phân tích số tuyệt đối để thấy rõ
mức độ thiệt hại của ngân hàng, kết hợp so sánh chỉ tiêu nợ quá hạn bình quân
trong hệ thống và theo dõi tình hình biến động của chỉ tiêu phân tích qua các
năm sẽ thấy được chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tiếp tục phân
tích các nhân tố ảnh hưởng, từ đó có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng.
-Thời gian xét duyệt vay vốn: đây là khoảng thời gian mà doanh
nghiệp phải chờ ngân hàng kiểm tra,xét duyệt các giấy tờ, thẩm định tài sản,
thời gian trình lên giám đốc... để từ đó quyết định có cho vay hay không.
-Khối lượng hồ sơ giấy tờ phải hoàn thành: Khi một doanh nghiệp
muốn vay vốn từ ngân hàng thì doanh nghiệp đó phải nộp các hồ sơ giấy tờ có
liên quan cho cán bộ tín dụng của ngân hàng. Số lượng giấy tờ hồ sơ càng ít
thì chứng tỏ các thủ tục ở ngân hàng đó càng đơn giản.
-Quy mô tín dụng: Bao gồm doanh số cho vay và dư nợ. Trong điều
kiện đáp ứng yêu cầu về giới hạn an toàn do Ngân hàng Trung ương qui định
trong từng thời kỳ thì mức tăng doanh số cho vay càng lớn càng tốt. Chỉ tiêu
mức tăng doanh số cho vay trên thị trường trên tổng tài sản thể hiện khả năng
sinh lời của các sản phẩm cho vay của các Ngân hàng thương mại và được
dùng để đánh giá chất lượng cho vay trong từng thời kỳ.
-Cơ cấu tín dụng: Là tỷ lệ tín dụng phân chia theo các đối tượng cho
vay (cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn...); phân chia theo
ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng...), thành phần kinh tế
(Quốc doanh, tư nhân).
-Thu lãi tín dụng: Là khoản lãi Ngân hàng thu được từ việc Ngân
hàng đầu tư các khoản tín dụng cho khách hàng. Nếu Ngân hàng thu được lãi
đầy đủ và đúng hạn nó thể hiện chất lượng tín dụng của Ngân hàng tốt.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
Có nhiều nhân tố từ phía Ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng. Chúng ta có thể xem xét một số nhân tố sau:
Một là, chính sách tín dụng của Ngân hàng. Mỗi Ngân hàng đều xây
dựng một chính sách tín dụng riêng. Đây được coi là kim chỉ nam cho hoạt
động tín dụng. Nó có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của một
ngân hàng thương mại. Chính sách tín dụng của Ngân hàng qui định đối
tượng tín dụng, giới hạn cũng như thời hạn tín dụng đối với từng dự án. Chính
sách tín dụng của Ngân hàng còn là mức độ chuyển hoán kì hạn của nguồn.
Ví dụ như chính sách tín dụng của ngân hàng tập trung vào đối tượng cho vay
là các DNNN, đối tượng có mức độ rủi ro thấp, các khoản tín dụng sẽ mang
lại hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng
Hai là, quy trình tín dụng. Mỗi ngân hàng đều có một qui trình tín
dụng riêng phù hợp với đặc điểm của ngân hàng. Qui trình tín dụng bao gồm
một số bước mà mỗi cán bộ tín dụng cần phải thực hiện nghiêm túc. Quan
trọng nhất trong qui trình tín dụng là phân tích tín dụng, thẩm định hiệu quả
kinh tế của dự án. Nếu như cán bộ tín dụng thực hiện đúng qui trình tín dụng,
phân tích các dự án một cách hợp lý chính xác thì Ngân hàng sẽ phân loại
được các dự án, các khoản tín dụng có hiệu quả, có chất lượng và từ đó họ sẽ
có thể nâng cao chất lượng tín dụng cho các khoản tín dụng. Còn ngược lại,
cán bộ tín dụng không thục hiện đúng qui trình tín dụng, thẩm định dự án
không chính xác thì Ngân hàng không loại được các dự án, các khoản tín
dụng không có hiệu quả kinh tế. Và nếu Ngân hàng đầu tư các dự án, các
khoản tín dụng đó thì có nhiều khả năng Ngân hàng sẽ mất vốn, chất lượng tín
dụng chung của Ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
Ba là, công tác kiểm tra giám sát tín dụng. Sau khi giải ngân cho
khách hàng các Ngân hàng cần kiểm tra, giám sát tín dụng một cách chặt chẽ
để đảm bảo rằng khách hàng sử dụng đúng mục đích vốn vay, không vi phạm
pháp luật. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, hay vi
phạm pháp luật thì khả năng mất vốn là rất lớn, Ngân hàng sẽ không thu hồi
được vốn và lãi đúng hạn và ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay.
Bốn là là, hệ thống thông tin tín dụng. Số lượng, chất lượng của thông
tin quyết định đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định thị
trường, đánh giá khách hàng... giúp cán bộ tín dụng đánh giá, quyết định cho
vay đúng đắn sáng suốt hơn. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ có
tác dụng tăng khả năng phòng ngừa rủi tín dụng, nâng cao chất lượng tín
dụng.
Năm là, phẩm chất và trình độ cán bộ. Con người là yếu tố quyết định
đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như việc
đảm bảo chất lượng tín dụng. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi cao
để có thể đáp ứng kìp thời có hiệu quả thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng
của môi trường kinh doanh, từ đó tác động đến sự thay đổi của hoạt động tín
dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi chuyên môn