Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Lịch sử tư tưởng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.32 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Thuật ngữ Dân chủ (Demos Kratos) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp. Trong đó
Demos (nhân dân), Kratos (chính quyền), có nghĩa là chính quyền của nhân dân.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, từ dân chủ chủ nô đến dân chủ tư sản và
đến dân chủ vô sản là những bước tiến của lịch sử. Các ông đã đánh giá một
cách khách quan nền dân chủ tư sản, mặc dù là bước tiến bộ so với chế độ
chuyên chế phong kiến nhưng dân chủ tư sản còn rất nhiều hạn chế, khiếm
khuyết.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen về dân
chủ, V.I. Lênin đã làm sáng tỏ con đường biện chứng của quá trình phát triển
dân chủ: “Từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vơ
sản; từ dân chủ vơ sản đến khơng cịn dân chủ nữa”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khố vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Dân chủ là động lực cho sự nghiệp đổi
mới vì dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác
của mỗi con người, làm cho tiềm năng sáng tạo được tự do phát triển; mọi người
dân được tham gia vào q trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ hoạch
định đường lối đến triển khai, tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và tổng kết,

Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của dân chủ, Đảng ta khẳng định: dân chủ
là quy luật hình thành, phát triển và tự hồn thiện của hệ thống chính trị XHCN.
“Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống
chính trị. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”. Dân chủ
là bản chất của chế độ ta, đồng thời là nguyện vọng thiết tha của nhân dân ta.
Muốn vậy, phải “phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. “Đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao
đạo đức”. Đó là điều kiện để nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình
bằng nhà nước, thơng qua nhà nước.
1



Trong những năm qua, việc thực hiện dân chủ ở nước ta đã có những
bước tiến quan trọng. Nhờ biết xây dựng và phát huy dân chủ trên mọi mặt của
đời sống xã hội, trong đó lấy việc thực hiện dân chủ về kinh tế và ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất làm nền tảng, dân chủ chính trị làm trung tâm, kết hợp
tốt và đảm bảo hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trên cơ sở giữ vững
kỷ luật, kỷ cương và tôn trọng pháp luật... đã tạo cho đất nước những thay đổi
cơ bản với những thế và lực mới. Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở nước
ta hiện nay cũng đang diễn ra trong những bối cảnh rất phức tạp.
Một mặt, các thế lực thù địch luôn đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hịa
bình”, hịng gây mất ổn định với mưu đồ bạo loạn, lật đổ... Vấn đề dân chủ,
nhân quyền được họ coi là một bộ phận quan trọng của chiến lược đó, nhằm
mục tiêu lật đổ chế độ XHCN và phá hoại độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
của ta. Dưới chiêu bài bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, họ tiến hành hoạt động
phá hoại tư tưởng, tuyên truyền cho nền dân chủ tư sản và giá trị phương Tây.
Họ đang tìm mọi cách khoét sâu những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót của ta
trên con đường xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN, nhằm làm giảm niềm
tin của nhân dân ta vào Đảng, vào chế độ. Họ khuyến khích, tập hợp, hỗ trợ cho
bọn phản động đội lốt tôn giáo, cùng bọn cơ hội, bất mãn, cực đoan, phát triển
lực lượng, hình thành lực lượng đối lập và những tổ chức phản động để chống
phá cách mạng nước ta…
Mặt khác, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện
dân chủ, tình trạng thực hiện dân chủ và kỷ cương ở nước ta vẫn còn nhiều vấn
đề bất cập. Bộ máy nhà nước cồng kềnh; hiệu quả quản lý, điều hành của nhà
nước còn thấp, kỷ cương phép nước còn bị xem thường... Những hạn chế trên đã
dẫn tới tình trạng ở nhiều nơi, quyền dân chủ của nhân dân bị vi phạm. Thực
tiễn nhiều năm qua ở một số địa phương, đơn vị cho thấy, chính tình trạng mất
dân chủ, vi phạm dân chủ mới là nguyên nhân dẫn đến sự khơng ổn định, mâu
thuẫn và thậm chí, cả sự xung đột. Khơng khắc phục có hiệu quả những nhận


2


thức phiến diện về vấn đề này, chúng ta không thể loại trừ tình trạng quan liêu
của nhà nước làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền làm chủ của nhân dân.
Nghiên cứu quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề dân chủ có ý nghĩa
quan trọng về lý luận và thực tiễn. Nó vừa cung cấp cho chúng ta một thế giới
quan, phương pháp luận khoa học, đúng đắn nhằm chống lại các luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề dân chủ, đồng thời cho ta những
nhận thức đúng đắn nội dung của vấn đề dân chủ, trên cơ sở đó vận dụng đúng
đắn và sáng tạo những quan điểm này vào thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, tơi chọn vấn đề: “ Quan điểm của V.I. Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sự bảo vệ, bổ sung, phát triển lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam”, làm tiểu luận nghiên cứu.

3


NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1. Cơ sở hình thành quan điểm dân chủ của V.I. Lênin
a) Quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C. Mác và Ph. Ăngghen
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra và phế bỏ
người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân, nghĩa là dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khi bắt đầu có ngôn
ngữ, chữ viết, con người đã biết cách diễn đạt nội dung dân chủ. Người La
Mã cổ đại cũng biết đến dân chủ, khi các nhà tư tưởng chính trị La Mã cho
rằng quyền lực chính trị xuất phát từ sự đồng thuận của dân chúng, con người
có những quyền tự nhiên mà tất cả chính quyền đều phải tơn trọng. Mãi đến
thời kỳ phục hưng vào thế kỷ thứ XV, Châu Âu xuất hiện những nhà tư tưởng

lớn, việc cải cách thể chế lại được thúc đẩy. Đặc biệt, đến thời kỳ khai sáng ở
Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII - XIX, những tư tưởng thực sự dân chủ mới lại
xuất hiện, nhất là cống hiến của các triết gia người Pháp. Bước sang thời kỳ
chủ nghĩa tư bản, quan niệm về dân chủ với những khái niệm “nhân quyền”
“dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... những nội dung này mới được
thể hiện trong đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản.
b) Quan điểm về dân chủ thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hiểu khái niệm dân chủ trước
hết với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ nhà nước.
Ph. Ăngghen không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ vì đó
chưa phải là một chế độ chính trị. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao
giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của
4


thị tộc”. Ông gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”. Theo C. Mác, Ph.
Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ vô sản, mới làm cho nhân dân
lao động thực sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của mình, kiểu mẫu
của dân chủ vơ sản chính là Cơng xã Pari, một hình thức tổ chức nhà nước
do những người cộng sản lãnh đạo - một nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Tuy khơng phải là những người đầu tiên bàn về dân chủ và nêu lên
ước vọng về một xã hội dân chủ nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen, lần đầu tiên
chỉ ra bản chất giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân
chủ tư sản, từ đó tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới - dân chủ
vô sản.
2. Quan điểm của V.I. Lênin về dân chủ
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa được hiểu là một thể chế chính trị
gắn liền với nhà nước xã hội chủ nghĩa, với chuyên chính vơ sản. Hình thức
tồn tại của nền dân chủ bao giờ cũng dưới một nhà nước nhất định: “chế độ

dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái nhà nước”. Với
nghĩa là một thể chế chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời
thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và dân dân
lao động đập tan bộ máy nhà nước của của giai cấp thống trị cũ xây dựng một
hệ thống chính trị mới của mình. V.I. Lênin đã khẳng định: “Dân chủ là một
trong những phạm trù thuộc riêng lĩnh vực chính trị thơi” và “Dân chủ tức là
chính quyền của nhân dân”. Dân chủ vô sản không chỉ ra đời gắn liền với
cuộc cách mạng vô sản, mà sự tồn tại của nền dân chủ ấy cũng gắn liền với
nền chun chính vơ sản và nó sẽ tiêu vong khi lồi người đạt đến chủ nghĩa
cộng sản.
Dân chủ ra đời, tồn tại và tiêu vong cùng với sự ra đời, tồn tại và tiêu vong
của nhà nước. V.I. Lênin viết: “Đương nhiên, chế độ dân chủ cũng là một hình thức
nhà nước và sẽ mất đi khi nhà nước tiêu vong nhưng điều đó chỉ xảy ra chủ nghĩa
xã hội thắng lợi hồn toàn và được củng cố, quá độ lên chủ nghĩa cộng sản hoàn
toàn”.
5


Thứ hai, về bản chất, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản
chất giai cấp cơng nhân, phục vụ cho lợi ích của đa số nhân dân lao động.
Về bản chất giai cấp của nền dân chủ, V.I. Lênin cũng từng khẳng định: “Nếu
không khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ chừng nào mà cịn những giai
cấp khác nhau, thì khơng thể nói đến “dân chủ thuần túy” được, mà chỉ có thể nói
đến dân chủ có tính giai cấp (xin nói thêm rằng “dân chủ thuần túy” khơng những là
một công thức của kẻ ngu dốt không hiểu một tý gì về đấu tranh giai cấp, về bản chất
của nhà nước, mà cịn là một cơng thức hết sức rỗng tuếch nữa)”.
Về bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đây là nền dân chủ phục vụ
cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mà trước hết là giai cấp công nhân,
nông dân, những người bị áp bức. Người chỉ ra: “Đồng thời với việc mở rộng rất
nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo,

chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chun chính vơ
sản cịn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức,
bọn bóc lột, bọn tư sản”. Sự đối lập giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô
sản được Lênin diễn đạt như sau: “Trong số các nước tư bản dân chủ nhất, thử
hỏi có lấy một nước nào trên thế giới mà trong đó, người công nhân hạng trung,
người công nhân thông thường, người cố nơng hạng trung, người cố nơng thơng
thường hay, nói chung, người nửa vô sản ở nông thôn (tức người đại biểu cho
quần chúng bị áp bức, cho đại đa số dân cư) lại được hưởng gần như là một
quyền tự do rộng rãi như ở nước Nga xô viết để có thể tổ chức các cuộc họp
trong những tịa nhà tốt nhất, một quyền tự do rộng rãi như thế để có thể sử dụng
những nhà in lớn nhất và những kho giấy tốt nhất nhằm mục đích diễn đạt tư
tưởng của mình, bênh vực quyền lợi của mình…”. Với lẽ đó, khi so sánh nền
dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản, trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên
phản bội Cauxky, V.I. Lênin khẳng định “nền dân chủ vô sản hơn gấp triệu lần
nền dân chủ tư sản”.
Thứ ba, sự phát triển của dân chủ trong sự tiến tới chủ nghĩa xã hội,
trong tương quan giữa kinh tế và chính trị. Trong các nước cộng hòa tư sản,
chế độ dân chủ đã được thiết lập, nhưng nền dân chủ ấy bị bó hẹp trong
khn khổ của pháp quyền tư sản. Để tiến tới chủ nghĩa xã hội, cùng với tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chun chính vơ sản, nhiều
6


hình thức dân chủ cũng được tìm tịi và thực hiện trong đời sống xã hội: “phát
triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí
nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v, đó là một trong những nhiệm
vụ cấu thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội”.
Về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa với thể chế kinh
tế, chính trị ơng viết: “Tách riêng ra, thì bất cứ chế độ dân chủ nào cũng không
thể sinh ra chủ nghĩa xã hội được, nhưng trong đời sống, chế độ dân chủ không

bao giờ “tách riêng được” mà nó sẽ “đứng chung trong tồn bộ”, nó cũng sẽ ảnh
hưởng đến kinh tế, sẽ thúc đẩy sự cải tạo kinh tế; nó cũng sẽ chịu ảnh hưởng của
sự phát triển kinh tế… đó là biện chứng của lịch sử sinh động”. Điều đó cho
thấy, trong tư tưởng của V.I.Lênin, nền dân chủ nói chung và dân chủ xã hội chủ
nghĩa nói riêng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với các quan hệ kinh tế.
Một mặt nó là sản phẩm của các quan hệ kinh tế, mặt khác nó có vai trị kích
thích hoặc kìm hãm các quan hệ kinh tế.
Thứ tư, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước và sự tham gia của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước. Kế thừa
tư tưởng của Mác - “Công xã không nên là một cơ quan đại nghị, mà phải là một
cơ thể hành động, vừa hành chính, vừa lập pháp”, V.I. Lênin đã đưa ra tư tưởng
tổ chức hệ thống chính quyền xơ viết trên cơ sở thống nhất quyền lập pháp và
hành pháp: “Công xã Pa-ri đã xóa bỏ, và từ lâu chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính chất
hẹp hịi và hạn chế của nó, nhất là chế độ đại nghị, về việc tách rời quyền hành
pháp ra khỏi quyền lập pháp. Hợp nhất hai quyền ấy lại, các xô viết làm cho bộ
máy nhà nước gần gũi với quần chúng lao động…”.
Về sự tham gia của nhân dân lao động vào bộ máy nhà nước, V.I. Lênin đã
phê phán tính chất giả dối, che đậy bản chất giai cấp của nền dân chủ tư sản dưới
cái vỏ bọc của các quyền tự do, dân chủ, một “nền dân chủ thuần túy”, dân chủ
cho tất cả mọi người: “Các bạn hãy xem những luật lệ cơ bản của các nhà nước
hiện đại, hãy xem chế độ quản lý của các nhà nước đó, hãy xem quyền tự do hội
họp hay tự do báo chí, hãy xem “quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp
luật” thì chỗ nào các bạn cũng sẽ thấy tính giả nhân giả nghĩa của chế độ dân chủ
tư sản mà mọi công nhân trung thực và giác ngộ đều biết rất rõ”. Còn trong nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin viết: “Tổ chức xô viết đã làm cho phát triển
7


sâu rộng hơn rất nhiều cái mặt này của nền dân chủ tư sản - cái mặt đã khiến cho
nền dân chủ đó trở thành một tiến bộ lịch sử rất lớn so với thời trung cổ - tức là sự

tham gia của dân chúng vào việc lựa chọn các cơng chức”.
Về vai trị của nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước
trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư
sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát
triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả để khơng cho quần chúng
tham gia quản lý nhà nước, không cho quần chúng tự do hội họp, tự do xuất bản…
Chính quyền xơ viết là chính quyền đầu tiên (nói cho thật đúng thì đó là chính quyền
thứ hai, vì cơng xã Pa-ri trước kia đã làm như vậy) thu hút quần chúng, nhất là quần
chúng bị bóc lột, vào việc quản lý nhà nước”.
Từ sự phân tích trên cho thấy, trong quan điểm của V.I. Lênin thì bất kỳ một
nền dân chủ nào cũng mang bản chất giai cấp, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân, bảo đảm cho giai cấp công
nhân, nơng dân và nhân dân lao động có thực quyền trong việc quyết định quyền
lực nhà nhà nước; bảo đảm các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.
Trong khi mở rộng tối đa các quyền dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân, dân
chủ xã hội chủ nghĩa cũng kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược với
những chuẩn mực, phạm vi dân chủ theo luật định. Do đó, dân chủ và chun chính
khơng bao giờ tách rời nhau.
Thứ năm, V.I. Lênin nêu lên nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng
một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Bản chất của chế độ tập trung dân chủ là kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa sự
thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo, tính nhất qn về mục tiêu với tính phong phú,
đa dạng mn hình mn vẻ các hình thức, phương thức, bước đi để thực hiện
sự lãnh đạo thống nhất và nhằm thực hiện những mục tiêu chung. Chế độ tập
trung dân chủ là sự kết hợp trong mình nó mối quan hệ biện chứng của hai chế
độ tập trung và dân chủ phản ánh quy luật khách quan của các quá trình thực
hiện những mục tiêu chung trong đời sống xã hội.
Vận dụng kết hợp chế độ tập trung và dân chủ và đề ra thành một nguyên
tắc cơ bản trong xây dựng đảng kiểu mới, nguyên tắc tập trung dân chủ được
V.I.Lênin nêu ra trong Hội nghị của những người Bôn-sê-vich (Hội nghị Tam8



mec-pho, năm 1905), sau đó là tại Đại hội IV (Đại hội thống nhất) của Đảng
Công nhân dân chủ - xã hội Nga, năm 1906. Nguyên tắc này được thừa nhận là
nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô, được ghi trong Điều
lệ của Đảng và Điều lệ của Quốc tế cộng sản.
Những nội dung chủ yếu của nguyên tắc “tập trung dân chủ” được V.I.
Lênin nêu lên trong những luận cương trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản,
khi nói về điều kiện để kết nạp vào Quốc tế Cộng sản: “Các đảng gia nhập Quốc
tế Cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
V.I. Lênin cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hình thức tổ
chức nhà nước là một trong những phương thức cơ bản để thực thi quyền lực
chính trị của giai cấp cơng nhân, V.I. Lênin viết: “Những kẻ phản đối nguyên
tắc tập trung dân chủ đều luôn luôn đưa ra chế độ tự trị và chế độ liên bang,
xem đó là những biện pháp chống lại sự bất trắc của chế độ tập trung. Kỳ
thực chế độ tập trung dân chủ không mảy may loại trừ chế độ tự trị mà trái lại
còn bao hàm sự cần thiết phải có chế độ tự trị”.
Thống nhất giữa hai mặt tập trung và dân chủ là vấn đề có tính ngun
tắc, trong các điều kiện khác nhau sẽ được vận dụng khác nhau, mặc dù vậy
chỉ nên hiểu rằng đây là một nguyên tắc - ngun tắc tập trung có tính dân
chủ. Khơng thể có tập trung mà khơng có dân chủ, khơng qua dân chủ, khơng
bằng các cách thức dân chủ. Nói cách khác, đây là nguyên tắc “dân chủ được
tập trung lại”. Không nên hiểu đây là hai nguyên tắc kết hợp với nhau đi đến
tùy tiện tăng cường tính tập trung hoặc hạn chế dân chủ, làm như vậy sẽ tổn
hại đến chất lượng hoạt động của đảng cộng sản.
Thứ sáu, V.I. Lênin nêu bổ sung, phát triển lý luận về nhà nước - thiết chế
quan trọng thực thi dân chủ
Nhất quán với tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin tiếp tục
khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của
nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống

trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai
cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Đối với V.I. Lênin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước
trong xã hội có giai cấp. Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của
9


một giai cấp đặc biệt, tập trung quyền lực trong tay. Dĩ nhiên, khơng ai có thể
dùng hai tiếng nhà nước để gọi một cộng đồng, trong đó tất cả mọi thành viên
đều thay phiên nhau quản lý “tổ chức của trật tự”. Chính sự tập trung quyền
lực chính trị trong tay một giai cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà
nước với mọi hình thức tổ chức xã hội khác.
Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I. Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ
đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hịa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà
nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được”.
Nếu như xã hội đã từng tồn tại không cần có nhà nước, thì cùng với sự
phát triển của sản xuất, xã hội loài người sớm muộn cũng sẽ đạt tới trình độ loại
bỏ nhà nước. V.I. Lênin viết: “Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ
tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo
lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta khơng mong có một chế độ xã hội
mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo.
Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội
sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ khơng cịn cần thiết
phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục
tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người
ta sẽ quen tn theo những điều kiện thơng thường của đời sống tập thể, mà
khơng cần có bạo lực và khơng cần có phục tùng”. Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ
tự tiêu vong.

Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện, trong
đó, quan trọng nhất là, nhà nước phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của
nó: Nhà nước chun chính vơ sản. Nhưng để có được nhà nước chun chính
vơ sản, tất yếu phải dùng đến bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là phương
thức duy nhất để một giai cấp mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị. Điều
đó đúng đối với giai cấp vơ sản và hơn thế, với giai cấp vô sản, bạo lực cách
mạng còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng nữa, đó là đập tan bộ máy
nhà nước cũ trước khi bắt tay xây dựng nhà nước kiểu mới.
10


Tính chất đặc biệt của nhà nước chun chính vơ sản với tư cách hình
thức chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nước được V.I.
Lênin làm rõ trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính chuyên
chính và tính dân chủ của nhà nước.
Trước hết, V.I. Lênin khẳng định, “trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn cịn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp
của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp
đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà
khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa” và nhà nước vô sản phải là
một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân
chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân
dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước.
V.I. Lênin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì dân
chủ hay chun chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thơi. “Bất cứ một nhà
nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ
dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có
dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và những người bị bóc lột
khơng”.
Chun chính vơ sản không hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ sung, là

hình thức thể hiện của dân chủ. Điều cần quan tâm là, trong xã hội xã hội chủ nghĩa
- lực lượng đóng vai trị thống trị trong xã hội, và vì thế nắm quyền chun chính,
dân chủ và pháp luật là đại đa số nhân dân lao động. “Dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ
dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”.

11


II. SỰ BẢO VỆ, BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Những nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
a) Nhân tố chủ quan
Truyền thống đặt “tình cao hơn lý” là một nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình dân chủ ở nước ta hiện nay. Với tư cách là những người lao động, dân ta
chưa quen sống trong những thiết chế dân chủ, nơi quan hệ họ hàng - làng
xóm, nơi các tập tục cũ vẫn chi phối cuộc sống. Một thời kỳ dài xã hội nước
ta nằm trong trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, điều đó làm cho dân chủ
xã hội chủ nghĩa lại biến dạng, không được quan tâm. Khi chúng ta bước vào
xây dựng, phát triển nền kinh tế thì định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong xã
hội nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn và tội phạm phát triển. Tất cả tình
hình đó trở thành vật cản lớn cho q trình dân chủ hóa đời sống xã hội
nước ta, đòi hỏi chúng ta phải khắc phục, đấu tranh để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
b) Nhân tố khách quan
Sự phân hóa xã hội diễn ra khá nhanh chóng, phổ biến và sâu sắc. Trình
độ dân trí cũng có sự phân hóa, có nhiều người học cao, nhưng lại rất thiếu văn
hóa, có người bằng cấp cao nhưng lại thiếu tri thức. Cơ chế thị trường đề cao giá

trị của đồng tiền. Các tệ nạn xã hội gia tăng. Sự tác động, ảnh hưởng của các
12


trào lưu dân chủ khác nhau. Dân chủ cực đoan đề cao quá mức tự do cá nhân,
dẫn tới tự do vơ chính phủ, vượt ra ngồi khn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

13


2. Sự bảo vệ, bổ sung, phát triển lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Kế thừa tư tưởng về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo, phát triển sáng tạo phù hợp điều kiện Việt Nam. Người đã khẳng định
vị trí, tầm quan trọng của dân chủ và thực hành dân chủ. Theo Người, “thực
hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Chỉ có
thực hành dân chủ mới phát huy được nhiệt tình cách mạng, tài năng, sáng kiến
của nhân dân vì sự nghiệp chung. Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba
điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề
ra sáng kiến”.
Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có quyền
dân chủ được xác nhận trong Hiến pháp và pháp luật, mà điều quan trọng là
cần phải có năng lực làm chủ, gắn liền với việc phải biết hưởng quyền làm
chủ, phải biết dùng quyền làm chủ.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ phải gắn với chuyên chính,
thực hiện dân chủ với nhân dân đồng thời phải chuyên chính với kẻ thù của nhân
dân, với những kẻ phá hoại dân chủ, coi chun chính là cơng cụ cần thiết và
hiệu quả để bảo vệ, giữ gìn dân chủ.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln tìm tịi, bổ sung, phát

triển tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời kỳ trước đổi mới, quá trình Đảng ta lãnh đạo xây dựng và thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có những thành tựu vừa có hạn chế
Thứ nhất, ngay khi vừa mới ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa non trẻ đã phải đối mặt với mn vàn khó khăn, nhưng Đảng và Nhà
nước ta đã kịp thời đưa ra và thực thi nhiều chủ trương chính sách dân chủ
rộng rãi trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Lần đầu tiên, tất cả công dân Việt
Nam được thực hiện quyền ứng cử và bầu cử của mình để bầu ra Quốc hội
thật sự dân chủ và ngay sau đó Quốc hội đã xây dựng nên bản Hiến pháp
năm 1946, trong đó ghi nhận một cách mẫu mực những nguyên tắc dân
chủ... thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết.
14


Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, những chủ trương, chính
sách dân chủ rộng rãi đó tiếp tục được thực hiện trong vùng tự do và vùng mới giải
phóng góp phần bồi dưỡng sức dân, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của nhân dân và
đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Thứ hai, Hội nghị Trung ương 8 khóa II (8/1955), xác định, “chế độ chính
trị và xã hội ở miền Bắc của ta nội dung là dân chủ nhân dân, nhưng hình thức thì
về một mặt nào đó cịn áp dụng chủ nghĩa dân chủ cũ; Theo đó, nhiệm vụ của
miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội...
Thứ ba, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa,
nhất là về kinh tế được thực hiện ở miền Bắc từ năm 1958 và ở miền Nam từ năm
1976 với chủ trương tăng cường chun chính vơ sản, xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa theo phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đã để
lại cho Đảng và Nhà nước ta những kinh nghiệm vô cùng quý giá. Ưu điểm của chủ
trương, chính sách làm chủ tập thể đó đã được phát huy trong điều kiện chiến tranh,
góp phần to lớn có tính quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và

hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và Tây Bắc.
Nhưng hạn chế, bất cập của nó đã bộc lộ ngay từ đầu và càng bộc lộ rõ khi đất
nước ra khỏi chiến tranh. Ai cũng được xem là chủ nhưng đâu đâu cũng hiện hữu
tình trạng vô chủ. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa bị loại bỏ khỏi đời
sống kinh tế của xã hội. Các tiềm năng, nguồn lực kinh tế, xã hội không được phát
huy. Phân phối không công bằng, lợi ích khơng bảo đảm. Bộ máy chính quyền cồng
kềnh, ngày càng quan liêu, xa dân. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Đây là sự trả giá cho những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước ta. Đáng chú ý là việc
xây dựng lý luận về làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ở mức độ hoàn hảo trong khi
đất nước chưa có đầy đủ những tiền đề kinh tế - xã hội cần thiết. Đề cao làm chủ tập
thể, lợi ích tập thể nhưng lại xem nhẹ lợi ích cá nhân. Thực hiện dân chủ nhưng lại
bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp.

15


Thứ tư, từ trong khó khăn, nhiều cơ sở kinh tế, nhiều địa phương đã tìm tịi,
thử nghiệm những cách làm ăn mới theo hướng xóa bỏ tập trung, quan liêu bao
cấp, quan tâm đến lợi ích của người lao động, giải phóng mọi năng lực sản xuất.
Tổng kết những hiện tượng “làm chui”, “phá rào” đó, Hội nghị Trung ương 6 khóa
IV (8-1979) đã quyết định một số chính sách quan trọng nhằm mở rộng quyền chủ
động của các cơ sở sản xuất, phát huy quyền làm chủ của người lao động, kết hợp
giải quyết lợi ích của tồn xã hội, lợi ích của tập thể với lợi ích của người lao động.
Đến tháng 1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100-CT/TW về khốn sản phẩm đến nhóm
và người lao động trong hợp tác xã.
Qua 30 năm tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước (Từ năm
1986 đến nay), nhận thức về dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những sự phát triển vượt bậc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng khởi xướng công

cuộc đổi mới, khi đánh giá thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã
nhận ra rằng: “Thực tiễn cách mạng chứng minh: Ở đâu, nhân dân lao động có ý
thức làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách
mạng”. Từ đó, Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm: “Trong tồn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đây là những bài học kinh nghiệm
rất quý báu, có ý nghĩa chỉ đạo cho nhiều quyết sách của Đảng sau này về phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đến Đại hội VII (1991), nhận thức về dân chủ, nhất là dân chủ trên lĩnh
vực kinh tế đã có bước phát triển mới. Đảng ta coi thực hiện dân chủ trên lĩnh
vực kinh tế là nền tảng để thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội: “Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới là bước đầu thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cơ chế
và chính sách mới đã mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở kinh tế, phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật”. Rõ ràng, đây là một bước tiến quan trọng trong nhân thức
và thực hiện một nền dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Tiến thêm một bước trong nhận thức về dân chủ, tại Đại hội VIII
(1996), lần đầu tiên, Đảng ta đề ra cơ chế cụ thể để thực hiện cơ chế dân chủ
16


theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Vấn đề này
được quán triệt ngay trong quá trình chuẩn bị ra nghị quyết, tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng, tạo thành nền nếp việc Đảng, Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc cùng bàn bạc về những quyết định và chủ trương lớn. Mặt trận
Tổ quốc đã làm tốt vai trò phản biện xã hội.
Đến Đại hội IX (2001), dân chủ đã thực sự định hình trong hệ mục tiêu
đổi mới, nằm trong chuỗi giá trị của phát triển là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội nêu quan điểm lớn về mối quan hệ giữa

dân chủ và đoàn kết, đồng thời xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn
xã hội”.
Đại hội X (2006) xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện
mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân... Xây dựng một xã hội
dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của
nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện
quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội”
Đến Đại hội XI (2011), dân chủ đã được nhận thức thực sự là giá trị hàng
đầu, là cơ sở để thực hiện bình đẳng và cơng bằng, để xây dựng đoàn kết và
đồng thuận xã hội. Con người được xác định là mục tiêu và động lực của phát
triển, là trung tâm và chủ thể của phát triển xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
của Đảng khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.
Đai hội XII (2016), Đảng ta xác định tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo
đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
17


Thể chế hố và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tơn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt

phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách
nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán
những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những
hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và
những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển tư
tưởng nhà nước xã hội chủ nghĩa - thiết chế quan trọng thực thi dân chủ
Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người trực tiếp
chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt
Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những tư tưởng quý về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở những nội dung chính sau:
Một là, Nhà nước pháp quyền là xuất phát từ yêu cầu dân chủ và Nhà nước
Việt Nam phải là nhà nước dân chủ triệt để; Người nhấn mạnh: “mọi quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân” và “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội,
để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”.
Để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã đề cập đến
chuyên chính, coi thực hiện chuyên chính chỉ để giữ vững quyền dân chủ, quyền
làm chủ của nhân dân. Người đã viết: “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân
dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phịng kẻ phá hoại,… thế thì dân
chủ cũng cần phải có cái chun chính để giữ gìn lấy dân chủ”.
Hai là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Ngay ngày 3-9-1945 trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề
ra hai nhiệm vụ trực tiếp có liên quan đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền là
nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp, nhằm xác lập nền
tảng dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp.
Ba là, nhà nước pháp quyền luôn đề cao vai trị của pháp luật, thì ở Hồ Chí
Minh hệ thống pháp luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ.
18



Theo Hồ Chí Minh, bản chất dân chủ của pháp luật kiểu mới là hệ thống
pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân lãnh đạo cách mạng, nó bảo vệ
quyền lợi cho hàng chục triệu người lao động, pháp luật thật sự dân chủ vì nó
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động.
Bốn là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát huy quyền con người.
Theo Người, muốn đem lại hạnh phúc cho con người, chỉ có thể đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình,
hạnh phúc”.
Trước những năm đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm Nhà nước pháp
quyền, mặc dù trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện tư tưởng của
Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước. Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) Đảng ta đã dùng khái niệm
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong nội dung phần 2 về những nhiệm
vụ chủ yếu trong thời gian tới đã nêu nhiệm vụ thứ 7: “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”. Từ thực tiễn đổi mới, đến các
đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng đã tiếp tục làm rõ và khẳng định quan
điểm này.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng và phối hợp qua các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan,
tổ chức, cán bộ, công chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp
luật.
Theo đó, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bao gồm:

Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể
19


hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là
quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện
đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân,
không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng
thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân được thể chế
hố thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và
thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là
đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
Từ những nhận thức và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã chủ
trương tập trung thực hiện một số phương hướng, giải pháp chủ yếu dưới
đây nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy dân chủ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng Nhà nước và quản lý xã hội. Phát huy, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và quản lý xã hội đó là nội dung căn bản, chủ đạo trong
phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
20


Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước. Tiếp
tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân;
đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ; xây dựng các hệ thống các cơ quan
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền
con người; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng
yêu cầu cải cách hành chính, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân.
Thứ tư, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải
tránh khuynh hướng bng lỏng, khốn trắng, hoặc bao biện làm thay. Mặt khác,
phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị
trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của các Đại hội trước đó. Đại hội XII của

Đảng nêu rõ hơn những nhiệm vụ, giải pháp: Tiếp tục hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm
2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế; Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Xác
định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác
định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.

21


22


III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Phương hướng
a) Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân
Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”.
Để phát huy dân chủ trong Đảng, một nhiệm vụ quan trọng là thực hiện
việc giám sát trong Đảng, nhất là giám sát đảng viên giữ các chức trách quan
trọng trong Đảng và Nhà nước.
b) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vận động nhân dân thực
hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Không ngừng mở rộng các hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp; thực
hiện tốt pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng không ngừng đổi mới
nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động. Coi trọng công tác dân vận
gắn chặt với công tác xây dựng Đảng và xây dựng chính quyền nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân.
c) Nâng cao đời sống mọi mặt, đảm bảo ngày một tốt hơn quyền làm chủ
của nhân dân lao động
Khuyến khích quần chúng nhân dân ý thức được trách nhiệm của mình, tự chủ,
tự do sáng tạo tìm kiếm lợi ích, nhằm nâng cao đời sống của nhân dân. Chỉ có thực hành
dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì mới có thể đem lại cho
nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc, công bằng và tiến bộ.
d) Kịp thời đấu tranh ngăn chặn những âm mưu chống phá, thủ tiêu nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch
Tồn Đảng, tồn dân phải có sự hiểu biết đúng đắn, đầy đủ, thống nhất về cuộc
đấu tranh chống tư tưởng, hành động thù địch. Coi trọng công tác phịng ngừa, trong đó,
23


việc khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, khắc
phục tệ quan liêu, tham nhũng, tự chuyển biến, tự chuyển hóa được xem là nội dung chủ
yếu của hoạt động phòng ngừa. phải tổ chức và có biện pháp thực hiện tốt hơn, hiệu quả
hơn trong đấu tranh phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù
địch.
2. Giải pháp
a) Thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Đảng ta đặt vấn đề đổi mới tư duy là nội dung cần phải đổi mới đầu tiên. Đảng ta
là đảng cầm quyền và sự cầm quyền đó ln được đặt trong mối liên hệ mật thiết với
nhân dân; vậy nên, thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng phải luôn đi trước, tạo
khuôn mẫu, mực thước cho nhân dân noi theo. Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, vì

khơng ai có thể làm thay cho Đảng. Việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng phải thường
xuyên lâu dài.
b) Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật để nhân dân hiểu được bản chất
dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp tục đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của Quốc hội. Coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách mạnh mẽ nền hành chính nhà
nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất; đồng thời, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những tiêu cực khác đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
c) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về dân chủ trong cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân
Mục đích, nội dung tuyên truyền giáo dục là làm cho mọi cá nhân, tổ chức
biết tôn trọng quyền, phẩm giá con người, quyền tự do được làm tất cả những gì
pháp luật khơng cấm; để mọi người biết, có ý thức tự giác sống và làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật; để nhân dân có tri thức, kỹ năng biết, bàn, làm, kiểm tra
và thụ hưởng những thành quả dân chủ.
24


Để giáo dục tuyên truyền được thiết thực và có hiệu quả, chủ thể tuyên truyền,
vận động phải nắm vững mục đích, nội dung, phương pháp và đối tượng của mình.
Trong tuyên truyền, giáo dục về dân chủ, V.I. Lênin cho rằng, quan trọng là phải làm
cho đông đảo nhân dân lao động tin tưởng vào sức mạnh của bản thân họ, rằng họ có
thể và phải tự mình quản lý công việc Nhà nước hằng ngày.
d) Nâng cao chất lượng công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội
Một là, tiếp tục quán triệt, phổ biến tới cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và
nhân dân về mục đích, vai trị và ý nghĩa của công tác giám sát và phản biện trong giai

đoạn hiện nay;
Hai là, tập trung giám sát việc việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Ba là, cấp ủy, chính quyền cần tăng cường hơn nữa việc tiếp xúc đối thoại
với nhân dân để kịp thời, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và đáp ứng tốt nhu cầu
chính đáng của nhân dân.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội các cấp chủ động phối
hợp, phát huy lực lượng của các tổ chức, cơ quan hữu quan, thành viên Hội đồng tư vấn,
chuyên gia có kinh nghiệm trên các lĩnh vực tham gia vào quá trình giám sát phản biện.
e) Thực hiện có hiệu quả các Quy chế dân chủ ở cơ sở
Để thực hiện có hiểu quả các Quy chế dân chủ ở cơ sở, chúng ta cần phát triển,
hoàn thiện được các định chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Vì vậy, chúng ta cần
phải đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền
lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.
Cùng với đó, đẩy mạnh thực hành dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn. Bồi dưỡng, nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn. Nâng cao

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×