Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÊ THỊ TỐ NGA

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÊ THỊ TỐ NGA

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THƯƠNG HUYỀN


Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải
nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Lý luận và thực tiễn đã chỉ
ra rằng thuế ra đời và tồn tại mang tính tất yếu khách quan, là điều kiện vật chất
quan trọng để nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo lập cơ sở pháp lí ổn định vững
chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, đòi hỏi nhà nước
cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ. Ở Việt Nam, cùng với quá trình
phát triển của đời sống kinh tế-xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và
ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường
xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của nhà nước và phù hợp
với đời sống kinh tế-xã hội.
Trong hệ thống thuế ở các nước, thuế thu nhập là một loại thuế quan trọng
được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong số các
loại thuế thu nhập, thuế TNCN là một sắc thuế trực thu ra đời tương đối sớm ở các
nước phát triển và đang áp dụng rộng rãi trên các quốc gia trên thế giới. Đến nay,
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được hơn 180 nước trên thế giới áp dụng, không
chỉ xác định nghĩa vụ của mỗi công dân với quốc gia, mà cịn thể hiện định hướng
chính sách, mục tiêu phát triển của quốc gia đó. Tại Việt Nam, pháp luật thuế thu
nhập cá nhân đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu
thực tiễn đặt ra. Từ pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được ban
hành vào tháng 12 năm 1990, được sửa đổi bổ sung 6 lần đến Luật thuế TNCN số
04/2007/QH12 năm 2007, được sửa đổi bổ sung lần lượt vào các vào năm 2012 và
2014 đã cho thấy nhà nước ta luôn chú trọng cơng tác xây dựng và hồn thiện pháp
luật về Thuế thu nhập cá nhân với mục đích đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp

dân coi trong xã hội qua từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy
nhiên trong quá trình đi vào thực thi, pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế
TNCN gặp khơng ít vướng mắc nảy sinh, cần phải có các giải pháp thường xuyên
và kịp thời. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần khơng ngừng xây dựng, hồn thiện một hệ
thống pháp luật thuế TNCN hiệu quả, công bằng, minh bạch và hiệu lực điều chỉnh
cao trên thực tế.

1


Tân Bình là một quận nội thành thuộc thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều thuận
lợi về địa lý kinh tế, giao thông đường bộ đường hàng không, du lịch và các hoạt
động thương mại dịch vụ. Do vậy, đây là một trong những quận có nền kinh
tế mạnh và tích cực, có nhiều xu hướng phát triển cao, đáp ứng nhu cầu phát triển
của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân với nòng cốt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với lực lượng sản xuất đông. Thời gian qua, cơ quan
thuế tại quận Tân Bình đã có nhiều cố gắng trong cơng tác quản lý thuế nói chung
và thuế TNCN nói riêng. Tuy nhiên, quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN, mà
đặc biệt là thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại nhóm các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vẫn cịn nhiều khó khăn, bất cập.
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan về thực trạng pháp luật thuế TNCN
nói chung và tình hình thực thi pháp luật thuế TNCN đặc biệt là thuế TNCN từ tiền
lương tiền công tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình nói
riêng, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật thuế TNCN,
tơi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thuế TNCN của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ
thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” làm nội dung nghiên cứu cho
Luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác
giả nhận thấy rằng trong thời gian qua ở Việt Nam đã có một số cơng trình khoa học, bài

viết tìm hiểu về pháp luật thuế thu nhập cá nhân . Có thể kể đến như sau:
- “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế TNCN ở Việt Nam”, luận án
tiến sĩ kinh tế, đại học kinh tế quốc dân của tác giả Nguyễn Hồng, năm 2013. Luận
án tập trung phân tích hoạt động quản lý thuế TNCN được thực hiện ở tất cả ba cấp
độ: cấp cán bộ thuế, cấp cơ quan thuế và trong cả bộ máy quản lý nhà nước đối với
thuế TNCN.
- “Pháp luật thuế TNCN từ thực tiễn thành phố Cần Thơ”, luận án tiến sĩ của
Huỳnh Văn Diện, năm 2016. Tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề
lý luận về thuế TNCN, pháp luật thuế TNCN hiện hành và thực tiễn thực thi pháp
luật thuế TNCN và quản lý thuế TNCN trên địa bàn TP.Cần Thơ.
- “Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện
nay”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mai Dung, năm 2018. Trong đề tài này, tác giả
nghiên cứu tổng quát các lý thuyết về quản lý thuế TNCN, những quy định của

2


pháp luật về quản lý thuế TNCN của Việt Nam đặt trong mối tương quan so sánh
với qui định pháp luật này của một số quốc gia trên thế giới cùng tình hình thực
hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam. Luận án đồng thời nghiên cứu
một số lĩnh vực pháp luật khác mà ở đó cá nhân có nguồn thu thuộc đối tượng chịu
thuế TNCN như pháp luật về chuyển nhượng bất động sản, pháp luật về chuyển
nhượng chứng khoán… nhưng trọng tâm là đi sâu vào nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật về quản lý thuế TNCN.
- “Hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân của đối tượng không cư trú ở
Việt Nam tại Hà Nội”, luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế của Nguyễn Thị Thu Thủy,
Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Đề tài đã hệ thống hóa các
vấn đề lý thuyết về thuế TNCN và công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với
cá nhân không cư trú trên địa bàn Thành phố Hà Nội; phân tích, đánh giá thực trạng
cơng tác quản lý thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú trên địa bàn Thành phố

Hà Nội; đồng thời đề xuất một số định hướng, giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn
thiện công tác quản lý thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập tại Việt Nam nhưng
khơng cư trú tại Việt Nam.
- Đề tài nghiên cứu của tác giả Trương Thi Như Ngọc tại Đại học Kinh tế
Huế năm 2017 với tiêu đề “Hồn thiện cơng tác quản lý thuế thu nhập cá nhân tại
Cục Thuế tỉnh Quảng Bình”. Đề tài phân tích tình trạng quản lý thuế TNCN tại Cục
Thuế tỉnh Quảng Bình, bên cạnh những kết quả đạt được cịn có những hạn chế tồn
tại. Cơng tác quản lý thu thuế TNCN cịn gặp nhiều khó khăn do sự thay đổi liên tục
của văn bản pháp luật, chưa có phương pháp hữu hiệu để quản lý các khoản thu
nhập, kiểm sốt giảm trừ gia cảnh, cơng tác kiểm tra kiểm soát khấu trừ tại nguồn
chưa chặt chẽ. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm quản lý thuế
thu nhập cá nhân đối với các doanh nghiệp do Cục Thuế tỉnh Quảng Bình quản lý.
- “Cải cách thuế theo hướng nâng cao hiệu lưc, hiệu quả cơng tác quản lý”,
web Tạp chí Thuế online, đăng ngày 28 tháng 1 năm 2013. Tác giả đã tóm tắt lược
các hoạt động xây dựng và hồn thiện hệ thống thể chế, chính sách thuế năm 2012
và 2013: tham mưu cấp thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và các Luật
thuế cùng các văn bản hướng dẫn, ban hành Tuyên ngôn ngành thuế Việt Nam;
- Bài viết “Cải cách hệ thống thuế Việt Nam theo cam kết hội nhập quốc tế
đến năm 2020” của 3 tác giả gồm: PGS.TS Sử Đình Thành, Bùi Thanh Trung, Trần
Trung Kiên (Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh) đăng trên Tạp chí Phát triển

3


kinh tế số 3 năm 2015. Bài viết phân tích về thực trạng quản lý thuế, một số kết quả
đạt được trong quản lý thuế giai đoạn 2010-2015 và nêu ra những giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý thuế đến năm 2020.
- “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở việt nam thực trạng và giải
pháp”, luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Huyền, Đại học kinh tế luât - Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết về

hoạt động quản lý thuế TNCN nói chung và pháp luật về quản lý thuế TNCN nói
riêng. Làm sáng tỏ thực trạng pháp luật quản lý thuế TNCN của nước ta từ khi luật
thuế TNCN có hiệu lực cho đến nay. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý thuế TNCN và góp phần hồn thiện pháp luật về quản lý thuế
TNCN ở nước ta trong thời kỳ hội nhập.
Trên cơ sở kế thừa những đóng góp của các cơng trình nghiên cứu trước về
pháp luật thuế TNCN, luận văn tiếp tục giải quyết những vấn đề về mặt lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN ở thời điểm hiện tại, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và những kiến nghị góp phần đảm
bảo thực hiện pháp luật thuế TNCN tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thuế Thu nhập cá nhân
và pháp luật thuế TNCN. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thuế TNCN tại
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP. HCM và cơng tác quản lý
thuế Thu nhập cá nhân tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Chi cục thuế quận Tân
Bình, TP. HCM. Từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định về pháp
luật thuế TNCN, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế Thu nhập cá nhân trên
địa bàn quận Tân Bình – TP Hồ Chí Minh và cơng tác quản lý thuế Thu nhập cá
nhân tại Chi cục thuế quận Tân Bình, TP. HCM.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt mục đích trên, đề tài sẽ tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, hệ thống hóa và nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp
luật thuế TNCN và hoàn thiện pháp luật về thuế TNCN.
- Thứ hai, nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật thuế TNCN
ở Việt Nam.

4



- Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật thuế
TNCN từ tiền lương, tiền công tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận
Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
- Thứ tư, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá
nhân và quản lý thuế TNCN tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các quan điểm khoa học, các số liệu
thực tiễn có liên quan đến điều chỉnh pháp luật đối với thuế TNCN và quan hệ quản
lý thuế TNCN; các quy định về thuế TNCN và quản lý thuế TNCN; thực tiễn thực
hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại quận Tân Bình,
thành phố Hồ Chí Minh; các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn quận
Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn nghiên cứu pháp luật thuế TNCN từ thực tiễn thực thi
pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình,
TP.HCM, cụ thể:
+ Về nội dung: (i) luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về việc xác
định nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền lương, tiền công và thực trạng thực thi các quy
định này trên thực tế tại các doanh nghiệp; (ii) tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế
TNCN của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp hay nói cách khác việc thực hiện
quản lý thuế TNCN của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp.
+ Về không gian: nội dung nghiên cứu của luận văn gắn với doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.HCM và Chi cục Thuế quận Tân Bình.
+ Về thời gian: các số liệu được sử dụng để phân tích, luận giải cho các nhận
định, đánh giá trong luận văn được lấy từ năm 2017 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: biện chứng duy vật và duy vật lịch sử về nhà nước và
pháp luật.

- Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài cũng như đối tượng phạm vi
nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

5


- Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, luận giải: được sử dụng chủ
yếu ở chương 1 để hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thuế
TNCN và pháp luật thuế TNCN;
- Phương pháp phân tích và xử lý số liệu, thống kê, so sánh, đối chiếu: được
sử dụng chủ yếu ở chương 2, để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các quy
định của pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận
Tân Bình, TP. HCM và công tác quản lý thuế TNCN đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Chi cục Thuế Quận Tân Bình, TP. HCM.
- Phương pháp phân tích, luận giải và tổng hợp: sử dụng ở chương 3 nhằm đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế TNCN với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục Thuế Quận Tân Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn nghiên cứu, phân tích, trình bày một cách có
hệ thống các vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN hiện hành tại Việt Nam. Luận
văn chỉ rõ các nội dung tác động của Thuế TNCN đến người lao động và đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại quận Tân Bình. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ
góp phần bổ sung và phát triển lý luận về hoàn thiện pháp luật thuế nói chung và
pháp luật thuế TNCN nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng các nhân tố ảnh hưởng vấn
đề thực thi pháp luật thuế TNCN tại quận Tân Bình trong giai đoạn 2017-2019 và
chỉ ra nguyên nhân của thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đó. Từ đó, luận văn hệ
thống hố và đưa ra những giải pháp hồn thiện chính sách thuế TNCN trong thời
gian tới. Luận văn cịn góp phần cho việc hoạch định chính sách, phục vụ cho hoạt

động thực tiễn của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN và trong các cơ
quan quản lý thuế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 03 chương
như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thuế TNCN và thực
hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí Minh.

6


Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và tăng cường quản lý
thuế TNCN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.Hồ
Chí Minh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế TNCN
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế TNCN
1.1.1.1. Khái niệm về thuế TNCN
Về bản chất, thuế TNCN là sắc thuế trực thu, điều tiết vào thu nhập của các
cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm TNCN cũng có thể tiếp cận theo nhiều cách khác
nhau. Để hiểu rõ khái niệm thuế TNCN, trước tiên ta tìm hiểu hai khái niệm có tính

chất tiền đề là “thu nhập” và “thuế thu nhập”.
Theo định nghĩa Haig - Simons, thu nhập của một cá nhân được xem là sự
gia tăng về sức mua ròng của cá nhân đó trong một giai đoạn nhất định, ví dụ là một
năm. Nói cách khác, đó là “tổng chi cho tiêu dùng” cộng với “sự gia tăng ròng về
mức độ giàu có” của một cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định. TNCN khi
được định nghĩa theo cách này được gọi là “thu nhập toàn diện” và thường bao quát
tất cả các loại hình thu nhập mà một cá nhân được hưởng dưới các hình thức khác
nhau, bao gồm thu nhập từ tiền lương, tiền công, kinh doanh, tiền cho thuê, tiền bản
quyền, cổ tức, tiền lãi cho vay… Ở một phạm vi hẹp hơn, TNCN có thể được định
nghĩa là tổng số tiền mà cá nhân thu được trong một khoảng thời gian nhất định,
thường được tính theo năm.
Về “thuế”, ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều
chỉnh của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định “thuế là một trật
tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tơn trọng thực
hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế khơng có bất kì sự phân biệt đối xử nào
giữa các bang hay vùng lãnh thổ”. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như
vậy nhưng chúng ta đều có thể nhận thấy nét chung sau: thuế là khoản thu nộp
mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ
những điều kiện nhất định. Với cách nhìn nhận khách quan về thuế, có thể thấy bản
chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, loại quan hệ giữa nhà

8


nước với NNT. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế,
chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau.
“Thuế thu nhập” là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các
cá nhân hoặc các pháp nhân. Tuy nhiên, không phải toàn bộ thu nhập của các thể
nhân và pháp nhân đều là đối tượng đánh thuế thu nhập, mà thuế thu nhập điều
chỉnh hay thu trên phần thu nhập chịu thuế tức là khoản thu nhập sau khi đã được

miễn trừ chi phí hợp lý, hợp lệ.
Từ việc giải thích khái niệm về “thu nhập cá nhân” và “thuế” nói trên, định
nghĩa “thuế TNCN” như sau: “Thuế TNCN là khoản tiền mà cá nhân phải nộp vào
ngân sách nhà nước theo ngun tắc bắt buộc, khơng hồn trả khi phát sinh thu
nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật”.
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN
Thuế TNCN mang những đặc tính nhất định, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của từng cá
nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế
theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế TNCN
khơng có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng
khác tại thời điểm đánh thuế. Không giống các loại thuế gián thu (như thuế tiêu
dùng…), khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh tốn nên nó khơng ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý người mua về khoản thuế mình phải nộp, thuế trực thu trực tiếp
vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân, điều đó
chắc chắn có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của NNT. Chính vì vậy mỗi khi chính phủ
có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất hay
thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng
mạnh mẽ trong dân cư.
Thứ hai, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc
diện đánh thuế khơng phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay
ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người
có thu nhập, bao gồm tất cả cơng dân của nước sở tại và những người nước ngoài

9


cư trú thường xun hay khơng thường xun nhưng có số ngày có mặt, làm việc,
có thu nhập theo quy định của pháp luật thuế TNCN. [29]

Thứ ba, thuế TNCN có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc
gia, là công cụ điều tiết thu nhập dân cư, đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội, tuy
nhiên mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế. Thể hiện, nó ln quy định loại trừ
một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã
hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình NNT, khoản chi mang tính
nhân đạo xã hội…
Thứ tư, thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh
thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp
dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo cơng bằng xã hội, người có
thu nhập cao thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn
so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
1.1.2. Vai trò của thuế TNCN
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế - xã hội
Thứ nhất, nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân càng cao thì
thuế thu nhập cá nhân ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu ngân sách
Nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân có diện đánh thuế rộng, khả năng tạo nguồn thu
cho ngân sách lớn.
Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tăng
tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính cơng bằng và giảm bớt sự
phân hóa giàu nghèo trong xã hội thông qua việc áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần.
Thứ tư, ở các nước phát triển thuế thu nhập cá nhân là loại thuế được Chính
phủ sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khố và các chính sách
kinh tế khác.
Thứ năm, thuế thu nhập cá nhân làm cho mỗi người dân có ý thức hơn về
nghĩa vụ và quyền của mình đối với Nhà nước. Đồng thời đóng vai trị tích cực
trong việc phát hiện các thu nhập bất hợp pháp.

10



1.1.2.2. Đối với hệ thống thuế
- Thuế TNCN góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác.
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược
điểm là có tính lũy thối và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì
khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hố mọi người khơng phân biệt giàu nghèo và đều
phải chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến
từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này.
- Thuế TNCN góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường sẽ có nghĩa vụ kê khai
và nộp cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Giữa hai loại thuế
này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế thu nhập cá nhân góp phần
khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thơng đồng giữa các
doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp
kê khai cao hơn thực tế những khoản chi phí mang tính chất tiền lương, tiền cơng
phải trả cho người lao động để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp nhằm
trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được những khoản trả nói trên
sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập kê khai tăng thêm đó.
Lúc này, sẽ xảy ra tình huống người lao động sẽ khơng chấp nhận nộp số thuế
TNCN tăng thêm do khoản tiền lương, tiền công bị kê khai khống như vậy. Kết quả,
doanh nghiệp nếu muốn đưa các khoản tiền lương, tiền công kê khai khống vào chi
phí được trừ thì đồng thời cũng phải kê khai và nộp luôn số thuế TNCN tương ứng
tăng thêm cho người lao động. Như vậy, dù muốn hay không, cũng phải thực hiện
nghĩa vụ kê khai và nộp đối với một trong hai loại thuế thu nhập này.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế Thu nhập cá nhân
Pháp luật thuế Thu nhập cá nhân là hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu nộp thuế TNCN giữa Nhà
nước với NNT.
Nội dung của pháp luật thuế TNCN bao gồm hai nhóm quy phạm: (i) nhóm

quy phạm pháp luật về xác định nghĩa vụ thuế TNCN và (ii) nhóm quy phạm pháp
luật về tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN (quản lý thuế TNCN).
Pháp luật thuế TNCN có một số đặc trưng cơ bản như sau:

11


- Đối tượng tác động của pháp luật thuế TNCN rất rộng, bao gồm chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế và chủ thể khác (tham gia khấu trừ tại nguồn, các tổ chức tín
dụng, đại lý thuế, đơn vị được ủy nhiệm thu). Nhiều nước trên thế giới trong đó có
Việt Nam đều dùng tiêu chí cư trú và khơng cư trú của cá nhân NNT để xác định
các khoản thu nhập chịu thuế, cách tính thuế và phương thức nộp của họ. Trong
thực tế, đối tượng này rất đông về số lượng, đa dạng về tầng lớp, giai cấp với trình
độ nhận thức và ý thức pháp luật rất khác nhau. Đặc biệt, trong điều kiện các nước
thiết lập mối quan hệ trên nhiều mặt khác nhau của đời sống tạo ra sự luân chuyển
thường xuyên về lao động và di dân giữa các nước làm cho tính phức tạp của đối
tượng nộp thuế TNCN ngày càng tăng.
- Nội dung của pháp luật thuế TNCN có quy định về chế độ giảm trừ gia
cảnh. Đây là nhóm quy phạm đặc thù chỉ áp dụng đối với thuế TNCN mà không áp
dụng với các loại thuế khác. Việc quy định chế độ này đảm bảo công bằng trong
điều tiết thu nhập và động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, phù hợp với khả
năng chịu thuế của người nộp thuế TNCN. Ngoài ra, việc quy định chế độ giảm trừ
gia cảnh này thể hiện rất rõ tính nhân văn của thuế TNCN.
- Pháp luật thuế TNCN thể hiện nguyên tắc đánh thuế lũy tiến theo mức độ
thu nhập. Đây là đặc trưng đặc thù của thuế TNCN so với các loại thuế khác, ngay
cả các loại thuế có cùng bản chất là thuế trực thu như Thuế thu nhập doanh nghiệp
cũng không đánh thuế theo nguyên tắc này. Việc quy định nguyên tắc đánh thuế này
đã đảm bảo nguyên tắc công bằng và đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và
người nộp thuế.
1.2.2. Những quy định chủ yếu của pháp luật thuế TNCN

1.2.2.1. Quy định về xác định nghĩa vụ thuế TNCN
* Đối tượng nộp thuế TNCN
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân của hầu hết các quốc gia trên thế giới
được xác định dựa trên hai nguyên tắc đánh thuế, đó là nguyên tắc đánh thuế theo
cư trú (sau đây gọi tắt là nguyên tắc cư trú) và nguyên tắc đánh thuế theo nguồn
phát sinh thu nhập ( sau đây gọi tắt là nguyên tắc nguồn).
Theo nguyên tắc cư trú, một cá nhân được coi là đối tượng cư trú tại một
nước sẽ phải chịu thuế thu nhập cá nhân đối với toàn bộ thu nhập nhận được, không
12


phân biệt nguồn thu nhập phát sinh là ở trong nước hay nước ngồi. Cịn một cá
nhân được coi là đối tượng khơng cư trú thì chỉ phải chịu nghĩa vụ thuế đối với
phần thu nhập có nguồn gốc tại nước đó. Đa số các quốc gia quy định đối tượng cư
trú là những người có thời gian sinh sống ở nước sở tại trên 182 hoặc trên 183 ngày
trong năm tính thuế (có thể là năm dương lịch hoặc năm tài chính) hoặc trong
khoảng 12 tháng liên tục. Nếu khơng thỏa mãn điều kiện trên thì được coi là đối
tượng không cư trú. Các nước áp dụng nguyên tắc này bao gồm Nhật Bản, Trung
Quốc, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Nga, Mỹ, Thụy Điển,..
Theo tiêu thức nguồn phát sinh thu nhập, một cá nhân phải nộp thuế thu nhập
cá nhân ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát sinh tại nước đó.
Nguyên tắc này hầu hết được áp dụng để đánh thuế đối với các khoản thu nhập phát
sinh tại nước đó của các đối tượng không cư trú. Cách đánh thuế này cũng phù hợp
với những nước có nhiều người nước ngồi đến làm việc, đầu tư và cơng dân nước
đó ít ra nước ngoài làm việc hoặc đầu tư. Chẳng hạn như Hồng Kông quy định mọi
cá nhân, không phân biệt cư trú hay không cư trú chỉ phải nộp thuế thu nhập đối với
các khoản thu nhập phát sinh tại Hồng Kông.
Tùy thuộc vào chính sách và trình độ quản lý mà mỗi quốc gia quy định khác
nhau về đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên quan trọng nhất để xác định đối tượng nộp
thuế là sự phân biệt cá nhân cư trú hay không cư trú.

* Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân
Một cá nhân có thể có nhiều nguồn thu nhập khác nhau tuy nhiên khơng phải
tồn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế, là phần thu nhập quy
định cơ sở đánh thuế thu nhập. Thu nhập chịu thuế có thể hiểu là tồn bộ thu nhập
bằng tiền, bằng hiện vật mà người chịu thuế đã thực hiện được trong một thời gian
xác định và được tùy ý sử dụng. Thu nhập chịu thuế có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tất cả các khoản thu nhập phát sinh dù bằng tiền hay hiện vật
không phân biệt từ nguồn sản xuất kinh doanh hay lao động, đầu tư đều có thể xếp
vào thu nhập chịu thuế sau khi trừ đi các khoản do pháp luật quy định không phải
chịu thuế thu nhập. Những khoản thu nhập được quy định không chịu thuế thu nhập
này thường là các khoản thu nhập sau khi đã nộp thuế thu nhập hoặc một loại thuế
13


tương đương ở một khâu nào đó, hoặc những khoản thu nhập nhỏ khơng thuận tiện
cho cơng tác quản lí. Nói cách khác, thu nhập chịu thuế phải gồm hầu hết các loại
thu nhập chủ yếu phát sinh, không phân biệt hình thái và nguồn gốc hình thành.
Thứ hai, thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng nghĩa là thu nhập sau khi
đã trừ đi các khoảng chi phí để tạo ra nó và các khoản được phép giảm trừ. Đối với
thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập chịu thuế là thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí
cần thiết để tạo ra thu nhập đó.
Thứ ba, việc xác định thu nhập chịu thuế phải khả thi cho cơng tác quản lí.
Một số nhà kinh tế đưa ra quan điểm là nên đánh thuế trên cơ sở thu nhập hoàn
chỉnh tức là thu nhập hiện hữu cộng lãi vốn dù là lãi đó có thực hay mới chỉ là hứa
hẹn. Tuy nhiên, ý tưởng đánh thuế vào thu nhập hồn chỉnh có tính khả thi kém do
sự phức tạp và không chắc chắn của việc xác định thu nhập chịu thuế. Mặt khác, để
có thu nhập hồn chỉnh thì mỗi chủ thể tạo ra thu nhập lại có các chi phí khách quan
khách nhau, chẳng hạn chi phí để khắc phục rủi ro, chi phí chữa bệnh,.. Nếu dựa
vào thu nhập hoàn chỉnh để làm cơ sở đánh thuế thì vi phạm ngun tắc cơng bằng.

Do đó, đa số nhà hoạch định chính sách thuế đều nhất trí cho rằng thu nhập chịu
thuế chỉ nên giới hạn trong phạm vi thu nhập hiện hữu mà thôi.
Xuất phát từ sự khác nhau trong việc xác định nguyên tắc đánh thuế nên các
loại thu nhập chịu thuế giữa các quốc gia cũng có sự khác nhau. Một loại thu nhập
nào đó có thể thuộc diễn thu nhập chịu thuế ở quốc gia này nhưng lại có thể thuộc
thu nhập miễn thuế ở quốc gia khác. Tuy nhiên, các loại thu nhập chịu thuế thu
nhập cá nhân theo thông lệ pháp luật của các nước trên thế giới bao gồm: (i) Thu
nhập kinh doanh; (ii) Thu nhập làm công; (iii) Thu nhập từ đầu tư (kể cả tiền lãi cổ
phần, tiền lãi vay). Ngồi ra cịn có các yếu tố thu nhập khác thường xuất hiện trọng
luật thuế thu nhập cá nhân là tiền lương hưu và các khoản bảo hiểm; các khoản
thanh toán bảo hiểm xã hội; thu nhập từ việc nắm giữ cổ phần; thu nhập chuyển
nhượng tài sản.
* Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân gồm thu nhập tính thuế trong kì tính thuế
và thuế suất.
(i) Về thu nhập tính thuế
14


Trên thực tế, các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lí khơng đưa định nghĩa tổng
qt mà họ thường chỉ liệt kê các khoản được gọi là thu nhập của các tổ chức, cá
nhân [29]. Pháp luật thuế thu nhập ở các nước nói chung đều quy định các khoản
thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế thu nhập. Thông thường thu nhập
chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ
biến và Nhà nước có thể kiểm sốt được. Có như vậy, pháp luật thuế thu nhập mới
bảo đảm tính khả thi, bảo đảm tính cơng bằng cho các đối tượng nộp thuế, bảo đảm
nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước…
Thu nhập tính thuế là một đại lượng dùng để chỉ tổng thu nhập chịu thuế khi
đã trừ đi các khoản giảm trừ và các chi phí hợp lý dùng để tạo lập nên nguồn thu
nhập đó. Tùy theo trình độ quản lý của hệ thống thuế của từng quốc gia, hiện nay

trên thế giới tồn tại hai cách thức xác định thu nhập để tính thuế TNCN.
- Xác định thu nhập tính thuế "từ đồng thu nhập đầu tiên"
Xác định thu nhập tính thuế "từ đồng thu nhập đầu tiên”: là việc thuế thu
nhập cá nhân được tính trên đồng thu nhập đầu tiên của NNT. Hiểu theo một cách
đơn giản là dù NNT có thu nhập một đồng cũng phải đóng thuế trên mức thu nhập
một đồng đó. Việc quy định như vậy dựa trên quan điểm thuế thu nhập cá nhân là
thuế cho tồn dân khơng phải thuế dành cho người có thu nhập cao. Để tạo ra bất kể
nguồn thu nhập nào đòi hỏi NNT phải sử dụng đến sự nguồn lực của xã hội vì vậy
nên khi có thu nhập họ phải đóng thuế với mức tương ứng để bù đắp tái thiết lại
những nguồn lực đó. Dạng xác định này được các quốc gia phát triển (OECD) áp
dụng tương đối phổ biến và bên cạnh đó cũng đưa ra những quy định về các suất
miễn thu (personal relief); nghĩa là cho trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế các khoản thu
nhập được Luật thuế TNCN cho phép như khấu trừ gia cảnh khi nuôi cha mẹ già,
nuôi con cái, người tàn tật; tiền lương đóng góp vào quỹ an sinh xã hội, tiền nộp
cho quỹ hưu trí; chi phí khám chữa bệnh, thù lao bác sĩ; lãi tiền tiết kiệm ở số ngân
hàng do Chính phủ chỉ định. Nguyên tắc hành thu: khấu trừ tại nguồn, sau đó cuối
năm người chịu thuế sẽ tổng hợp thu nhập để quyết toán thuế.
Áp dụng thuế suất quy định từ đồng thu nhập đầu tiên tuy khá phức tạp trong
việc theo dõi và quản lý nhưng chính việc quy định các suất miễn thu lại có ý nghĩa
lớn trong bảo đảm an sinh xã hội cho NNT, việc góp phần giải quyết chính sách xã
15


hội, đảm bảo cơng bằng và bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Hiện nay,
trên thế giới có khá nhiều nước áp dụng căn cứ tính thuế này. Tuy nhiên, việc áp
dụng thuế suất ở các nước là khơng giống nhau.
- Xác định thu nhập tính thuế theo mức khởi điểm (ngưỡng chịu thuế)
Xác định thu nhập tính thuế theo mức khởi điểm là việc tính thuế thu nhập cá
nhân trên cơ sở cho phép khấu trừ khống một khoản thu nhập, phần thu nhập còn lại chịu
thuế suất luỹ tiến từng phần. Để đưa ra mức khấu trừ này các nhà làm luật sẽ phải tính

tốn trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người của quốc gia và các chi phí mà NNT phải
chi trả trong cuộc sống sinh hoạt thông thường. Cách này được các quốc gia đang phát
triển ưa chuộng hơn và do vậy được áp dụng rộng rãi hơn trong khối này.
Ví dụ: Tại Việt Nam theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2020, khi mức giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh và áp dụng từ
kỳ tính thuế năm 2020, người dân có thu nhập từ 0 đến 11 triệu đồng/tháng và
khơng có người phụ thuộc thì chưa đến mức chịu thuế. Tăng ngưỡng thu nhập tính
thuế cũng là xu hướng chung trên thế giới. Cách làm này có ưu điểm là dễ thực hiện,
chi phí hành thu thấp vì cơ quan thuế khơng phải tính tốn và quản lý việc kê khai
các khoản được miễn, giảm trừ như cách xác định thu nhập tính thuế từ đồng thu
nhập đầu tiên. Tuy nhiên, cách xác định này vẫn có nhược điểm là khơng đáp ứng
được u cầu về tính công bằng của thuế TNCN. Không công bằng do không xét
đến gia cảnh của người chịu thuế. Nếu thuế suất được quy định thu theo mức thu
nhập khởi điểm thì những người có gia cảnh khác nhau nhưng cùng một mức thu
nhập lại phải đóng thuế TNCN như nhau.
(ii) Thuế suất thuế thu nhập cá nhân
Thuế suất là mức thuế phải nộp trên một đơn vị khối lượng chịu thuế. Đây
được coi là linh hồn của mỗi sắc thuế. Định mức thu thuế (tỉ lệ %) tính trên khối
lượng thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế. Thuế suất có các loại: Thuế suất lũy
tiến, Thuế suất tỉ lệ thuận, Thuế suất cố định tuyệt đối, Thuế suất luỹ thoái. Thuế
suất luỹ tiến là việc đánh Thuế suất cao hơn khi có thu nhập tăng hoặc giá trị tài sản
chịu thuế tăng. Thuế suất tỉ lệ thuận là việc đánh thuế với thuế suất như nhau trên
tất cả các khối lượng thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế. Thuế suất cố định tuyệt
đối là Thuế suất quy định bằng số tiền tuyệt đối cho một hoạt động có thu nhập
16


hoặc một đối tượng chịu thuế. Thuế suất luỹ thoái là việc đánh thuế với Thuế suất
giảm khi có thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế tăng.
Đối với thuế TNCN thông thường áp dụng biểu thuế suất lũy tiến (bao gồm

thuế suất lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần). Trong đó biểu thuế lũy tiến từng
phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của
thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế.
Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là điều tiết
mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử
dụng thuế lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng
thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế càng cao. Khi xây dựng biểu thuế của thuế
TNCN, các quốc gia thường sử dụng một số nguyên tắc sau: thứ nhất, đánh thuế
cùng một mức vào thu nhập tổng hợp, với số lượng thuế suất vừa phải để có thể
quản lý tốt hơn; thứ hai, mức thuế không nên quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao
động, tiết kiệm và đầu tư; thứ ba, tùy theo đặc điểm tình hình kinh tế xã hội mà có
thể sử dụng thuế suất ưu tiên linh hoạt cho từng loại thu nhập. Thông thường, các
nước áp dụng thuế suất ưu đãi đối với thu nhập từ lao động hơn là thu nhập từ vốn.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc những cá nhân có mức
thu nhập tiền lương, tiền cơng cao hơn thì phải đóng thuế cao hơn, với khung thuế
suất thuế TNCN lũy tiến, như: Tại Myanmar có mức giao động từ 1% đến 25%; tại
Singapore từ 0% đến 22%; tại Philippines từ 5% đến 32%; tại Malaysia từ 1% đến
28%; tại Hàn Quốc từ 6% đến 40% và tại Mỹ từ 10% đến 39,6%… [41]
(iii) Miễn giảm thuế, giảm trừ gia cảnh
- Về miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân: Miễn thuế, giảm thuế TNCN là việc
loại trừ (miễn) hay giảm bớt (giảm) phần nghĩa vụ thuế của NNT TNCN trong
những trường hợp nhất định nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế đối với các đối
tượng gặp khó khăn hoặc thực hiện các mục tiêu nhất định của Nhà nước. các nước
cũng có quy định về vấn đề này, mức miễn giảm tùy theo trình độ phát triển kinh tếxã hội của từng quốc gia.
- Giảm trừ gia cảnh:
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính
thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của người
nộp thuế là cá nhân cư trú. Về mức giảm trừ, hiện nay, nhiều nước đều nâng
17



ngưỡng chịu thuế và mức giảm trừ gia cảnh: Từ năm 2017, Thái Lan nâng ngưỡng
giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc là vợ hoặc chồng, khơng có thu nhập từ
30 nghìn lên 60 nghìn Bạt (nếu vợ hoặc chồng có thu nhập chịu thuế thì khoản giảm
trừ tối đa cho cả hai tăng từ 60 nghìn Bạt lên120 nghìn Bạt); đối với người phụ
thuộc là con nâng từ 15 nghìn Bạt /con (giới hạn số con là 03) lên 30 nghìn Bạt/con
(khơng giới hạn số con), tuy nhiên hủy bỏ trợ cấp 2.000 Bạt cho mỗi con đến trường;
đồng thời, nâng ngưỡng thu nhập chịu mức thuế cao nhất (35%) từ hơn 4 triệu Bạt
lên hơn 5 triệu Bạt. Croatia cũng giảm ngưỡng từng bậc tính thuế TNCN, cụ thể,
mức thuế suất cao nhất 36% sẽ được nâng ngưỡng tính thuế từ 210 nghìn HRK/năm
lên 360 nghìn HRK/năm. Tiền thưởng không chịu thuế được tăng thêm 5.000
HRK/năm. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giảm xuống cịn 3% với kỳ
vọng giảm thiểu việc người dân khơng đăng ký chuyển nhượng tài sản. Luật Thuế
TNCN sửa đổi của Trung Quốc có hiệu lực từ năm 2019 đã hợp nhất bốn loại thu
nhập lao động (bao gồm tiền lương và tiền công, tiền công cho các dịch vụ cá nhân,
thù lao của tác giả và tiền bản quyền), thành một loại thu nhập tính thuế; đồng thời
tăng khấu trừ thuế tiêu chuẩn cho thu nhập hợp nhất từ 42.000 RMB/năm lên
60.000 RMB/năm. Tại Anh, từ năm tài chính 2016 - 2017, chính sách thuế TNCN
thay đổi theo hướng có lợi cho người lao động, theo đó: Tăng mức giảm trừ gia
cảnh cho cá nhân từ khoảng 10.000 bảng lên 10.800 bảng và 11.500 bảng cho năm
2017 - 2018; Mức thu nhập chịu thuế thuế suất cơ bản tăng từ 31.785 bảng (năm
2015 - 2016) lên 31.900 bảng trong năm 2016 - 2017 và 32.300 bảng trong năm
2017 - 2018. [41]
Nhìn chung, xu hướng mục tiêu của các chính sách mới về thuế TNCN là
bên cạnh bảo đảm nguồn thu NSNN, còn thực hiện tái phân phối thu nhập, giảm các
hành vi trốn, tránh thuế, tạo động lực để người dân tăng thu nhập. Từ đó tăng sức
tiêu thụ hàng hóa hoặc nâng cao tiết kiệm, thúc đẩy tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.2. Quy định về tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế Thu nhập cá nhân
* Nhóm quy định về thủ tục thực hiện nghĩa vụ thuế Thu nhập cá nhân
(i) Đăng ký thuế và cấp mã số thuế

Đăng ký thuế là việc NNT kê khai với cơ quan thuế các thơng tin định danh
của mình (đây là các thông tin cơ bản để phân biệt NNT với những NNT khác). Sau
khi NNT thực hiện các thủ tục đăng ký thuế, cơ quan thuế sẽ tiến hành cấp mã số

18


thuế cho NNT. Mỗi NNT chỉ được một mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình
hoạt động.

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng đăng ký thuế điện tử,
cơ chế này đã tạo điều kiện rất lớn cho NNT, giảm thời gian cho thủ tục hành
chính thuế.
(ii) Kê khai thuế Thu nhập cá nhân
Thực hiện khai thuế, tính thuế là một trong những nghĩa vụ cơ bản của cá
nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN và tổ chức, cá nhân trả thu nhập thuộc
diện chịu thuế TNCN. Theo đó, Kê khai thuế TNCN là việc NNT trình bày các số
liệu, hồ sơ liên quan đến nghĩa vụ thuế TNCN của NNT cho cơ quan quản lý thuế.
Về nguyên tắc, tự xác định số thuế TNCN phải nộp trong kỳ kê khai thuế, trừ
trường hợp cơ quan quản lý thuế thực hiện tính thuế theo quy định và tự chịu trách
nhiệm về tính chính xác của số liệu trong hồ sơ khai thuế.
(iii) Nộp thuế Thu nhập cá nhân
Nộp thuế là việc cá nhân, tổ chức nộp tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước
theo thông tin đã kê khai thuế hoặc trong một số trường hợp là theo thông báo từ cơ
quan thuế.
Xuất phát từ tính chất của các quan hệ thuế do luật thuế điều chỉnh, để sự tác
động của pháp luật có hiệu quả, luật thuế sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy.
Để có được nguồn thu, nhà nước yêu cầu người dân phải nộp thuế. Để có thể tăng
thêm khả năng chi tiêu, nhà nước có thể ban hành, thay đổi các loại thuế mới hoặc
bãi bỏ những ưu đãi về thuế đang áp dụng đối với người dân. Để kịp thời trang trải

cho hoạt động của mình, có được số thu ổn định và chủ động, nhà nước yêu cầu
người dân nộp đúng, nộp đủ, theo thời hạn số thuế nhất định…
Việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy trong quan hệ thuế hồn
tồn khơng phải với hình thức biểu hiện giống nhau. Chẳng hạn, cơ quan quản lí
thuế có quyền ra các thơng báo thuế, quyết định truy thu thuế và yêu cầu đối tượng
nộp thuế thực hiện đúng. Nhưng ở trường hợp đối tượng nộp thuế tự kê khai, tính
thuế và tự nộp thuế thì có sự khác nhau về hình thức biểu hiện nhưng điều này hồn
tồn khơng có nghĩa tính chất quyền uy bị mất đi. Trước hết, việc làm này phải
được cơ quan quản lí thuế cho phép hay phê chuẩn; nếu đối tượng nộp thuế khơng
tính đúng, tính đủ, nộp theo thời hạn, việc bị xử lí vi phạm sẽ trở thành hiện thực.
Khi số thuế không được nộp đầy đủ, đúng hạn sẽ dẫn tới hàng loạt các khả năng
19


khác nhau như phong toả tài khoản, yêu cầu thu hộ, phạt nộp chậm được thực hiện
cùng với các biện pháp hành chính khác.
Trong một số trường hợp đặc biệt như NNT gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn
bất ngờ, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo hoặc trường hợp bất khả kháng khác dẫn đến
việc NNT không thể nộp thuế đúng hạn thì NNT được phép gia hạn nộp thuế hoặc
được miễn, giảm thuế tùy chính sách thuế của mỗi quốc gia.
Về hình thức nộp, NNT có thể nộp trực tiếp tại Kho bạc nhà nước, các ngân
hàng được ủy nhiệm thu thuế hoặc nộp qua phương thức điện tử. Hiện nay tại Việt
Nam, cơ quan thuế khuyến khích doanh nghiệp nộp thuế điện tử. Chủ trương này sẽ
tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản hóa q trình thực hiện nghĩa vụ thuế cho NNT;
đồng thời giúp tiết kiệm nhân lực, đơn giản quy trình thu nộp thuế, đảm bảo an tồn
trong cơng tác quản lý cho cơ quan thuế .
(iv) Quyết toán thuế Thu nhập cá nhân
Khai quyết toán thuế TNCN là việc xác định số tiền thuế phải nộp của năm
tính thuế hoặc thời gian từ đầu năm tính thuế đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh
nghĩa vụ thuế hoặc thời gian từ khi phát sinh đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh

nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Một đặc trưng của việc quyết toán thuế TNCN so với các loại thuế khác là cá
nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền cơng ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức, cá
nhân trả thu nhập hoặc trực tiếp quyết toán thuế với cơ quan thuế.
Theo quy định của pháp luật thuế TNCN hiện hành tại Việt Nam, tổ chức, cá
nhân trả thu nhập từ tiền lương, tiền cơng có trách nhiệm khai quyết tốn thuế và
quyết tốn thay cho các cá nhân có ủy quyền do tổ chức, cá nhân trả thu nhập chi trả,
khơng phân biệt có phát sinh khấu trừ thuế hay không phát sinh khấu trừ thuế.
Trường hợp tổ chức, cá nhân khơng phát sinh trả thu nhập thì khơng phải khai quyết
toán thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp cá nhân là người lao động được điều
chuyển từ tổ chức cũ đến tổ chức mới do tổ chức cũ thực hiện sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp hoặc tổ chức cũ và tổ chức mới trong
cùng một hệ thống thì tổ chức mới có trách nhiệm quyết toán thuế theo ủy quyền
của cá nhân đối với cả phần thu nhập do tổ chức cũ chi trả và thu lại chứng từ khấu
trừ thuế thu nhập cá nhân do tổ chức cũ đã cấp cho người lao động (nếu có). Đối với
cá nhân là người nước ngoài kết thúc hợp đồng làm việc tại Việt Nam khai quyết
toán thuế với cơ quan thuế trước khi xuất cảnh. Trường hợp cá nhân chưa làm thủ

20


tục quyết tốn thuế với cơ quan thuế thì thực hiện ủy quyền cho tổ chức trả thu nhập
hoặc tổ chức, cá nhân khác quyết toán thuế theo quy định về quyết toán thuế đối với
cá nhân. Trường hợp tổ chức trả thu nhập hoặc tổ chức, cá nhân khác nhận ủy
quyền quyết tốn thì phải chịu trách nhiệm về số thuế thu nhập cá nhân phải nộp
thêm hoặc được hoàn trả số thuế nộp thừa của cá nhân.
(v) Hoàn thuế Thu nhập cá nhân
Hoàn thuế TNCN là việc cơ quan thuế hoàn trả lại cho NNT một phần hoặc
toàn bộ số thuế mà người nộp thuế đã nộp vào NSNN. Trong pháp luật quản lý thuế
TNCN, để được hoàn thuế thì cá nhân được hồn thuế phải đáp ứng các điều kiện

nhất định:
+ Số tiền thuế đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp;
+ Cá nhân đã nộp thuế nhưng có thu nhập tính thuế chưa đến mức phải nộp thuế.
+ Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về thuế.
Khác với mục đích của chế độ miễn thuế là nhằm giúp Nhà nước thực hiện
các chính sách về kinh tế, xã hội, chính trị, ngoại giao hay an ninh quốc phịng, việc
hồn thuế thường nhằm hướng tới mục tiêu chủ yếu là đảm bảo sự công bằng, minh
bạch, bình đẳng và quyền lợi hợp pháp cho người nộp thuế
* Nhóm quy định về giám sát và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế Thu nhập

cá nhân
(i) Quản lý thông tin NNT
Hệ thống thông tin NNT là tập hợp thông tin, dữ liệu về NNT được thu thập,
sắp xếp, lưu trữ, khai thác và sử dụng theo quy định của pháp luật. Thông tin NNT
là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh giá dự báo tình hình, xây dựng chính sách
về thuế, đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của NNT, ngăn ngừa, phát hiện hành
vi vi phạm pháp luật về thuế.
(ii) Kiểm tra, thanh tra thuế TNCN
Thanh tra, kiểm tra thuế TNCN được đặt trong nội dung thanh tra, kiểm tra
NNT. Theo đó đây là việc thanh tra, kiểm tra q trình chấp hành luật thuế của
NNT. Các cơ quan quản lý thuế có quyền thanh, kiểm tra việc chấp hành các nhiệm
vụ mà Nhà nước giao phó cho họ trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Nội dung thanh, kiểm tra TNCN tập trung vào việc chấp hành những quy định về
đăng ký, kê khai, nộp thuế TNCN.
(iii) Xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN

21


Xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN không chỉ thực hiện đối với NNT mà

còn được áp dụng với cán bộ quản lý thuế. Đối với NNT, các hình thức vi phạm
như nộp chậm hồ sơ kê khai thuế, có thu nhập mà khơng kê khai nộp thuế, giả mạo
hóa đơn, chứng từ biên lai thuế. Đối với bộ quản lý thuế, những vi phạm thường
liên quan đến lợi dụng chức vụ để xâm tiêu tiền thuế đã thu, giúp đỡ người nộp thuế
TNCN trốn lậu thuế...
Tùy vào nội dung, mức độ vi phạm mà hình thức xử phạt vi phạm về thuế
TNCN gồm: cảnh cáo và phạt tiền và thậm chí là phạt tù. Nếu trong quá trình xử
phạt vi phạm hành chính về thuế (cảnh cáo và phạt tiền), xét thấy NNT vi phạm
pháp luật về thuế TNCN có dấu hiệu tội phạm, thì cơ quan quản lý thuế có thẩm
quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
(iv) Khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp phát sinh trong q trình
quản lý thuế TNCN
Dưới góc độ lý luận và thực tiễn, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện nhằm
bảo vệ quyền lợi chính đáng cho NNT đồng thời là một bộ phận quan trọng trong hoạt
động quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng. Giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong quản lý thuế TNCN là giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật thuế TNCN (gồm người nộp thuế và người thu thuế). Đối
tượng của tranh chấp về thuế TNCN chính là những lợi ích liên quan đến số tiền thuế
hoặc tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế. Các tranh chấp về thuế TNCN phát sinh từ
quan hệ pháp luật thuế TNCN có bản chất là tranh chấp hành chính.
Hiện nay, cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế thông qua khiếu
nại (giải quyết tranh chấp về thuế TNCN bằng thủ tục hành chính) hoặc áp dụng
phương thức giải quyết tranh chấp về thuế bằng thủ tục tố tụng tại tịa án, cịn gọi là
tố tụng hành chính.
1.3. Thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân tại các doanh nghiệp
vừa và nhỏ
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
* Khái niệm: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mơ
nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia
thành ba loại cũng căn cứ vào quy mơ đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh

nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước mình. Ở Việt Nam, theo Nghị định số

22


×