Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

thực hiện điều ước quốc tế lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.6 KB, 44 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, tồn cầu
hố nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như các nước khác đang bước nhanh
vào tiến trình hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết
sức đa dạng, khác biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh
tế, xã hội. Hình thành và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, điều ước
quốc tế có chức năng duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc tế, giữ gìn
quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, bảo đảm hài hòa lợi ích chung của cộng
đồng và lợi ích quốc gia, đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế được thực thi và tuân thủ.
Nhận thức được rõ vai trị của điều ước quốc tế trong thời kì các quốc gia
trên thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, chúng ta cũng nhìn
nhận được tầm quan trọng của vấn đề thực hiện điều ước quốc tế đối với thế giới
nói chung và với Việt Nam nói riêng. Việt Nam – một quốc gia nhỏ, đang phát
triển, tiếng nói chưa có sức nặng trên trường quốc tế thì việc làm sao để khi
thực hiện điều ước quốc tế vừa phù hợp xu hướng quốc tế chung, vừa đảm bảo
lợi ích quốc gia là rất quan trọng. Do đó, vấn đề thực hiện điều ước quốc tế đối
với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra rất cấp thiết. Đây cũng là lí do vì
sao em chọn đề tài: “Thực hiện điều ước quốc tế- lý luận và thực tiễn” làm đề tài
nghiên cứu của em.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc ký kết, gia nhập các điều
ước quốc tế đã trở thành nhu cầu bức xúc của các nước nói chung và của Việt
Nam nói riêng. Các hiệp định, liên minh, liên kết kinh tế khu vực và song
phương đã và đang thu hút sự quan tâm rất lớn của các quốc gia. Để thúc đẩy
quá trình phát triển này, các nước đã xây dựng một hệ thống những văn bản
pháp lý quan trọng làm cơ sở cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế.
Công ước Viên về luật điều ước quốc tế, thực tiễn giải thích và áp dụng các điều
1



ước quốc tế tại các cơ chế giải quyết tranh chấp như Tòa án quốc tế, Liên Hợp
quốc, WTO ngày càng có vai trị quan trọng trong q trình đó. Tuy nhiên, do
pháp luật của các quốc gia đa dạng nên thực tiễn thi hành các điều ước quốc tế
tại các quốc gia có khác nhau. Đối với Việt Nam, công tác ký kết và thực hiện
các đi ều ước quốc tế có một vai trị rất quan trọng, là cơ sở pháp lý trong việc
tăng cường và mở rộng các quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó,
cơng tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế cũng có những đóng góp tích cực
đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước ta làm tốt
công tác này sẽ góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển tồn diện của đất
nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong bối cảnh khu vực
và thế giới hiện nay.
Chính vì vậy việc chọn đề tài về “thực hiện điều ước quốc tế - lý luận và
thực tiễn” mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là cần thiết, góp phần xây dựng cơ
chế thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có mục tiêu tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở khoa học pháp
lý (trong nước và quốc tế) về điều ước quốc tế và thực hiện các điều ước quốc
tế; đánh giá thực trạng khuôn khổ pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện các
điều ước quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tê; xác định
các yêu cầu đạt được trong quá thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam.
Đề tài đặt ra yêu cầu nghiên cứu pháp luật và thực tiễn điều ước quốc tế
và thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam và các nước để từ đó kiến nghị
về cơ chế, mơ hình và cách thức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc gia nhập phục vụ tốt hơn cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đề tài có phạm vi nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực hiện điều ước
quốc tế và thực hiện điều ước quốc tế trong giai đoạn hiện nay nhằm xây dựng
và hoàn thiện các quy định liên quan việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt
2



Nam ký kết, gia nhập. Phân tích những qui định của pháp luật hiện hành và thực
tiễn thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam. Đưa ra những nhận xét, đánh giá
cũng như một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc thực hiện điều ước
quốc tế trong bối cảnh hội nhập trước mắt cũng như trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu những vấn đề lý luận, hệ thống pháp luật về thực hiện
điều ước cũng như thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam. Sau đó
đưa ra những giải pháp nhằm giúp quốc gia thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa
vụ của mình với tư cách là một củ thể của luật quốc tế.
Bài nghiên cứu xây dựng trên nền tảng lý luận triết học Mac-Lênin, kết
hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về thực hiện điều ước của Việt Nam
4. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Ở nước ta, vấn đề thực thi các điều ước quốc tế đang được Đảng và nhà
nước quan tâm, đặc biệt là sau khi chúng ta gia nhập WTO. Căn cứ vào các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, Nhà nước ta đã dành một sự quan tâm đối
với sự ra đời và phát triển của các văn bản pháp luật điều chỉnh về những hoạt
động liên quan đến việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế.
Chúng ta cần phải kể đến: Pháp lệnh về ký kết gia nhập và thực hiện các điều
ước quốc tế năm 1989, Pháp lệnh về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế
năm 1998, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế năm 2005
(cùng các nghị định sửa đổi, bổ sung). Hiện nay, cũng có một số đề tài nghiên
cứu về tình hình thực thi các điều ước quốc tế trong từng lĩnh vực cụ thể, có các
bài viết bàn về đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các điều
ước quốc tế ở Việt Nam (ví dụ: Bài viết Bàn về việc thực thi điều ước quốc tế
ở Việt Nam của Tiến sĩ Hồng Ngọc Giao đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 3 năm 2005, bài viết của tiến sĩ Lê Văn Bính về Ký kết và thực hiện
Điều ước quốc tế theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Quan hệ - Bộ Ngoại giao,
3



1999...). Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơng trình chuyên khảo nào nghiên cứu
một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này dưới khía cạnh là một đề tài khoa
học độc lập.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Bài nghiên cứu giúp cho người đọc có cái nhìn tổng thể về thực hiện điều
ước và thực tiễn thực hiện điều ước ở Việt Nam từ đó có cách hiểu đầy đủ và
cách nhìn nhận đúng đắn hơn, trên cơ sở đó có ý kiến đóng góp, đề xuất mang
tính chất tham khảo giúp quốc gia thực hiện được các quyền, nghĩa vụ chủ thể
của mình phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì phần nội dung gồm
2 chương:
Chương 1: Quy định của luật quốc tế về thực hiện điều ước quốc tế.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện điều ước quốc
tế và thực tiễn áp dụng .

4


B. NỘI DUNG
Chương 1.
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT QUỐC TẾ VỀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Định nghĩa điều ước quốc tế
Xem xét về phương diện lịch sử, điều ước quốc tế ra đời muộn hơn so với
tập quán quốc tế. Tuy nhiên, với những ưu điểm riêng của mình, hiện nay điều
ước quốc tế đã và đang trở thành một trong những loại nguồn cơ bản của luật

quốc tế và được sử dụng như là một công cụ chủ yếu để điều chỉnh hầu hết các
quan hệ hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế. Căn cứ vào các quy định của
luật quốc tế và thực tiễn sinh hoạt quốc tế, điều ước quốc tế được hiểu " là thỏa
thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật
quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận
đó được ghi nhận trang một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có
quan hệ với nhau, cũng như khơng phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn
kiện

đó".
Liên quan đến khái niệm điều ước quốc tế, bên cạnh khái niệm chung được

đưa ra trong các văn bản pháp lý quốc tế, luật quốc tế cũng tạo điều kiện cho các
quốc gia, trong khả năng của mình được phép ban hành các văn bản pháp luật
(nhưng phải đảm bảo tính phù hợp với pháp luật quốc tế) quy định về vấn đề
trên. Cùng với pháp luật của các quốc gia khác, trong Luật ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005 cũng đã đưa ra khái niệm về điều ước
quốc tế, theo đó điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
là một bên ký kết được hiểu "là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc
tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi như
hiệp ước, công ước, định ước, hiệp định, nghị định thư, công hàm trao đổi và
5


danh nghĩa ký kết". Cách xác định trên đây của pháp luật Việt nam là có sự
tương đồng và phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến
khái niệm điều ước quốc tế.
Từ định nghĩa nêu trên về điều ước quốc tế, chúng ta có thể dễ dàng nhận
thấy một số đặc điểm đặc trưng tạo ra sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và văn

kiện quốc tế khác, cũng như thấy được sự khác biệt giữa điều ước quốc tế và các
văn bản pháp lý quốc gia. Theo đó, để được coi là điều ước quốc tế, văn kiện
pháp lý quốc tế phải đảm bảo một điểm sau:
- Về chủ thể: chủ thể của điều ước quốcv tế phải là chủ thể của luật quốc
tế (bao gồm: quốc gia, tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của luật quốc tế).
- Về hình thức: Trước tiên, chúng ta cần khẳng định ngay rằng: điều ước
quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản. Trước đây, trong quan hệ quốc tế
có sự xuất hiện của một số điều ước quân tử (bất thành văn), tuy nhiên các điều
ước loại này hiện nay hầu như khơng cịn tồn tại trong quan hệ giữa các chủ thể
của luật quốc tế. Xem xét đặc trưng về hình thức của điều ước quốc tế, chúng ta
sẽ cùng xem xét một số vấn đề liên quan đến tên gọi của điều ước quốc tế, cơ
cấu của điều ước quốc tế và ngôn ngữ của điều ước quốc tế.
- Về tên gọi của điều ước quốc tế: "Điều ước quốc tế" là tên khoa học
pháp lý chung (gần giống với danh từ "văn bản quy phạm pháp luật" trong hệ
thống pháp luật quốc gia) để chỉ các văn bản pháp luật quốc tế do hai hay nhiều
chủ thể luật quốc tế ký kết.
+ Việc xác định tên gọi cụ thể cho một điều ước quốc tế hoàn toàn phụ
thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc
vào phạm vi và nội dung của điều ước, mà điều ước quốc tế có thể có một số tên
gọi khác nhau như: Hiệp ước, công ước, định ước, nghị định thư, hiệp
định...Việc một văn bản được xác định là điều ước quốc tế hay không không phụ
thuộc vào tên gọi của điều ước đó là gì, và cũng khơng phụ thuộc vào việc điều
ước đó được ghi nhận trong một hay nhiều văn kiện. Luật quốc tế không đưa ra
6


một quy tắc chung nào để bắt buộc các bên liên quan đến việc sử dụng tên gọi
nào đó cho điều ước quốc tế được ký kết. Tuy nhiên, việc đặt tên cho một điều
ước quốc tế cụ thể nào đó khơng thể mang tính tùy tiện mà phải tn theo những
thơng lệ nhất định. Vví dụ: Khi nói đến Cơng ước, chúng ta nhận thấy ngay đó

là điều ước quốc tế có số lượng thành viên đơng và chúng thường là các điều
ước quốc tế mang tính đa phương tồn cầu (Cơng ước Viên 1969 ..) Các điều
ước quốc tế song phương và khu vực thường có tên gọi như Hiệp ước, Hiệp định
(Hiệp ước Bắc đại tây dương...); Nghị định thư khơng bao giờ đứng độc lập, nó
ln gắn với các Hiệp định vì nhiệm vụ của nó là nhằm sửa đổi hoặc bổ sung
cho điều ước quốc tế đã ký trước đó; Hiến chương là văn bản pháp lý mang tính
chính trị cao, nó thường được gắn với 1 tổ chức quốc tế nhất định;.....v..v
- Về cơ cấu của điều ước quốc tế: Hầu hết các điều ước quốc tế song
phương và đa phương thường được kết cấu thành 3 phần chính:
+ Phần lời nói đầu: Phần này không được chia thành từng chương, từng
điều hoặc từng khoản. Trong phần lời nói đầu khơng chứa đựng các quy phạm
cụ thể nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ cho các bên mà chỉ nêu các nội dung
như: lý do ký kết, mục đích ký kết, tên của các bên tham gia ký kết...
+ Phần nội dung chính: Đây là phần quan trọng nhất của điều ước. Nó
chứa đựng các quy phạm pháp lý quốc tế nhằm xác lạp quyền và nghĩa vụ cho
các bên tham gia kết ước. Phần này thường được chia thành từng chương, điều
cụ thể nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác giữa các bên.
+ Phần cuối cùng: Phần này thường bao gồm các điều khoản quy định về
thời hạn, thời điểm có hiệu lực của điều ước, ngôn ngữ soạn thảo điều ước, vấn
đề sửa đổi, bổ sung, bảo lưu điều ước....
Ngoài cơ cấu 3 phần trên đây, trong một số điều ước quốc tế đa phương
phổ cập cịn có một hoặc một số phụ lục đính kèm. Các phụ lục này cũng chính
là phần khơng thể tách rời và ln đi kèm với điều ước quốc tế đó.

7


- Về ngôn ngữ của điều ước quốc tế: Điều ước quốc tế được soạn thảo
bằng ngôn ngữ nào là do sự thỏa thuận, lựa chọn của các bên tham gia kết ước.
Tuy nhiên, yếu tố thỏa thuận này chủ yếu được thể hiện trong việc lụa chọn

ngôn ngữ của các điều ước quốc tế song phưong và thường được ghi nhận trong
phần cuối cùng của điều ước. Các văn bản pháp lý quốc tế được soạn thảo bằng
ngôn ngữ được lựa chọn đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau.
Thông thường, điều ước quốc tế song phương thường được soạn thảo bằng ngôn
ngữ của cả 2 bên (trừ khi có thỏa thuận khác). Riêng đối với các điều ước quốc
tế đa phương phổ cập thường được soạn thảo bằng các ngôn ngữ làm việc chính
thức của Liên hợp quốc đó là: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung
Quốc, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập.
- Về bản chất của điều ước quốc tế: là sự thỏa thuận tự nguyện của các
bên tham gia kết ước. Đặc trưng về luật điều chỉnh quá trình ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế: Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phải được điều
chỉnh bằng các quy định của luật quốc tế và phải tuân thủ các quy phạm Jus
cogens của luật quốc tế. Nhận xét: Từ những đặc điểm ban đầu này của điều
ước quốc tế, chúng ta thấy rằng không phải mọi văn bản pháp lý quốc tế hay
thỏa thuận quốc tế đều là điều ước quốc tế, để có thể trở thành điều ước quốc tế
văn bản pháp lý quốc tế hay thỏa thuận quốc tế đó phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định. VD: thỏa thuận quốc tế giữa quốc gia A và công ty B (thuộc
quốc gia B) liên quan đến vấn đề thương mại...đây không phải là điều ước quốc
tế, và quan hệ này cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế, mà là quan
hệ thuộc sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
- Ngoài những điều kiện nêu trên, giữa điều ước quốc tế và các thỏa thuận
quốc tế khác có sự khác biệt cơ bản nữa là tính ràng buộc về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia kết ước. VD đối với các tuyên bố chung trong quan hệ
quốc tế. Các tuyên bố này không tạo ra sự ràng buộc cho các bên mặc dù nó
cũng là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên, tuy nhiên nội dung của nó khơng
8


nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ cho các bên, mà chủ yếu để thể hiện quan
điểm, lập trường của quốc gia tuyên bố về một vấn đề nào đó.

- Về phân loại điều ước quốc tế: Có thể phân chia điều ước quốc tế thành
nhiều loại trên cơ sở các căn cứ khác nhau, nhìn chung việc phân loại thường
dựa vào các cơ sở sau:
+ Dựa vào số lượng các bên kết ước, điều ước được phân thành: điều ước
quốc tế song phương, điều ước quốc tế đa phương;
+ Dựa vào lĩnh vực điều chỉnh, điều ước được phân thành: điều ước về
chính trị, điều ước về kinh tế...;
+ Dựa vào phạm vi áp dụng, có điều ước song phương, điều ước khu vực,
điều ước phổ cập.
- Đặc trưng về giá trị pháp lý của điều ước quốc tế
+ Là hình thức pháp luật cơ bản chứa đựng các quy phạm luật quốc tế để
xây dựng và ổn định các cơ sở pháp luật cho các quan hệ pháp luật quốc tế hình
thành và phát triển.
+ Là cơng cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan
hệ hợp tác quốc tế giữa các chủ thể.
+ Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
chủ thể luật quốc tế.
+ Là công cụ để xây dựng khung pháp luật quốc tế hiện đại, cũng như để
tiến hành hiệu quả việc pháp điển hóa luật quốc tế.
Theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
của Việt Nam năm 2005, định nghĩa điều ước quốc tế: “… là thỏa thuận bằng
văn bản được ký kết hoặc gia nhập nhân danh nhà nước hoặc nhân danh chính
phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ
chức quốc tế hoặc chủ thế khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên
9


gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước , thỏa thuận, nghị định thư, bản
ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”. Có thể thấy rằng,
mặc dù định nghĩa trên đã tương đối đầy đủ nhưng chưa xác định được nội dung

của điều ước quốc tế là gì.
Trên cơ sở phân tích ở trên, có thể định nghĩa điều ước quốc tế là sự thỏa
thuận bằng văn bản được ký kết giữa các chủ thể của luật quốc tế (trước tiên và
chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm thiết lập, thay
đổi hoắc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau trong bang giao
quốc tế.
1.1.2. Định nghĩa thực hiện điều ước quốc tế
Thực hiện điều ước quốc tế là quá trình hoạt động có mục đích mà các
chủ thể luật quốc tế bằng hành vi của mình thực hiện các qui định luật quốc tế
trong thực tế đời sống.
* Các phương thức thực thi điều ước quốc tế
Khi điều ước quốc tế có hiệu lực, vấn đề đặt ra đối với quốc gia kết ước là
thực thi điều ước quốc tế. Các phương thức mà các quốc gia đang áp dụng để
thực thi điều ước quốc tế, đó là:
- Thứ nhất là việc thực hiện trực tiếp các điều ước quốc tế. Cách thức này
chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành. Khi các cơ quan nhà nước trực tiếp
thực hiện điều ước quốc tế (bao gồm cả việc tuân thủ, tuân theo, vận dụng, áp
dụng) tức là thực hiện chức năng cơng quyền, thì khơng cần đặt ra việc chuyển
hóa.
- Thứ hai là việc gián tiếp các điều ước quốc tế sau khi đã được nội luật
hóa (chuyển hóa). Những quốc gia có thực tiễn chuyển hóa gián tiếp điều ước
quốc tế thường thông qua cơ quan lập pháp để đưa ra các quy định của điều ước
quốc tế vào hệ thống các quy phạm của luật quốc gia.

10


- Thứ ba là vừa trực tiếp, vừa gián tiếp thực hiện các điều ước quốc tế.,
tức là các quốc gia có thể trực tiếp áp dụng các quy định của điều ước quốc tế để
thực hiện của điều ước quốc tế, đồng thời cũng áp dụng quy phạm pháp luật

trong nước liên quan đến vấn đề này và coi là một văn bản nội luật hóa quy
phạm của điều ước quốc tế.
- Theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 của
Việt Nam thì quá trình thực hiện điều ước quốc tế gồm:
+ Cơ quan đề xuất căn cứ vào tính chất, nội dung của điều ước quốc tế,
nhiệm vụ và quyền hạn được giao trình Chính phủ quyết định kế hoạch thực
hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập.
- Kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao gồm những nội dung sau đây:
+ Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế;
+ Dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ
chức thực hiện điều ước quốc tế;
+ Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế;
+Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác
để thực hiện điều ước quốc tế;
+ Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế.
- Trình tự, thủ tục trình phê duyệt kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế
+Cơ quan đề xuất có trách nhiệm lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức hữu
quan về dự thảo kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về hiệu lực của điều ước quốc tế đó.
+Cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến trả lời cơ quan đề xuất bằng văn bản
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản lấy ý kiến.
11


+ Cơ quan đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch thực
hiện điều ước quốc tế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được trả
lời của các cơ quan, tổ chức hữu quan.
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế

trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo kế hoạch do cơ quan
đề xuất trình.
- Triển khai kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế
+ Sau khi Thủ tướng Chính phủ quyết định kế hoạch thực hiện điều ước
quốc tế, cơ quan đề xuất và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đó.
+ Trong quá trình thực hiện kế hoạch, nếu phát sinh vấn đề liên quan đến
việc giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm
đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế thì cơ quan đề xuất tiến hành các thủ tục
theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế .
1.2. Quy định của luật quốc tế về thực hiện điều ước quốc tế
1.2.1.Nguyên tắc thực hiện điều ước quốc tế
Thực hiện điều ước quốc tế là việc các bên thực hiện các quyền và gánh
vác các nghĩa vụ pháp lý đã được ghi nhận trong điều ước. Điều ước quốc tế
phải được các thành viên thực hiện dựa trên nguyên tắc tận tâm, thiện chí (pacta
sunt servada). Nguyên tắc pacta sunt servanda là một trong những nguyên tắc cơ
bản của luật điều ước quốc tế. Điều 26 cơng ước Viên 1969 “tất cả điều ước có
hiệu lực ràng buộc các thành viên và phải được các thành viên tự nguyện thi
hành với thiện chí” sự tận tâm, thiện chí của các chủ thể ký kết vừa là cơ sở, vừa
là đảm bảo quan trọng để chủ thể ký kết tự ràng buộc mình những nghĩa vụ thực
hiện các quy định của luật điều ước nói chung và luật điều ước quốc tế nói riêng
với tính chất là các cam kết quốc tế tồn tại song hành cùng các điều khoản thoả
thuận trong điều ước. Việc không thi hành điều ước quốc tế chỉ có thể được thực
12


hiện trong một số trường hợp và trong những điều kiện chặt chẽ, chẳng hạn như
trường hợp cắt quan hệ ngoại giao hoặc quan hệ lãnh sự đươc quy định tại Điều
63 Công ước Viên 1969 : “việc cắt quan hệ ngoại giao hoặc lảnh sự giửa các
quốc gia thành viên của một số điều ước không làm ảnh hưởng đến những quan

hệ phap lý do điều ước đặt ra giữa các quốc gia này với nhau thì khi trong một
mức độ nhất định, việc tồn tại những quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự không
thể thiếu được để thi hành điều ước”.
Các thành viên của điều ước không thể viện dẫn sự khác biệt giữa điều
ước quốc tế đã ký và luật quốc gia của nước đó để khơng thực hiện điều ước
quốc tế.
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế chỉ được áp dụng
đối với các điều ước quốc tế có hiệu lực, tức là đối với những điều ước được ký
kết một cách tự nguyện trên cơ sở bình đẳng. Bất kỳ một điều ước bất bình đẳng
nào cũng xâm phạm chủ quyền quốc gia và Hiến chương Liên hợp quốc, bởi vì
Liên hợp quốc được thành lập trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền của tất cả các
nước thành viên. Tất cả các nước này đã cam kết ghánh vác nghĩa vụ “phát triển
quan hệ hữu nghị giữa các dân tốc trên cơ sở tơn trọng ngun tắc bình đẳng
và dân tộc tự quyết”.
1.2.2. Giải thích điều ước quốc tế
* Khái niệm giải thích điều ước quốc tế
Giải thích điều ước quốc tế là quá trình làm sáng tỏ nội dung thật của điều
ước. Mục đích của việc giải thích là nhằm giúp cho các bên trong quan hệ điều
ước thực hiện điều ước một cách đầy đủ và chính xác, tránh sự hiểu lầm và mâu
thuẫn phát sinh giữa các bên trong q trình thực hiện điều ước. Nói cách khác,
giải thích điều ước sẽ giúp các bên nhận thức đúng để thực hiện đúng tinh thần
nội dung của điều ước mà các quốc gia đã ký kết. Đối tượng giải thích là điều
ước quốc tế mà các bên tham gia ký kết và các văn bản phụ lục kèm theo nếu có.

13


* Chủ thể giải thích điều ước
Chủ thể giải thích điều ước bao gồm hai loại: chủ thể giải thích chính thức
và chủ thể giải thích khơng chính thức.

Chủ thể giải thích chính thức là các quốc gia và các chủ thể của luật quốc
tế tham gia điều ước giải thích hoặc do tổ chức quốc tế giải thích khi các quốc
gia hay các chủ thể của luật quốc tế ủy quyền. Chủ thể giải thích chính thức sẽ
đưa ra văn bản giải thích có tính chất bắt buộc các bên phải thi hành. Theo Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005, Ủy ban
thường vụ Quốc hội có thẩm quyền tự giải thích hoặc giải thích theo đề nghị của
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận và đại biểu quốc hội (khoản 1,
Điều 76).
Chủ thể giải thích khơng chính thức là các cá nhân, cơ quan, tổ chức (như
các luật quốc gia, cơ quan, viện nghiên cứu pháp luật). Kết quả của giải thích
khơng chính thức chỉ có giá trị tham khảo, khơng có giá trị bắt buộc các bên
tham gia điều ước phải thực hiện.
* Quy tắc chung của giải thích
Theo quy định tại Điều 31 Cơng ước viên 1969, giải thích điều ước phải
được tiến hành theo các quy tắc sau đây:
- Giải thích phải thiện chí, phù hợp với nội dung nguyên bản của điều
ước, đồng thời chú trọng đến đối tượng và mục đích của điều ước;
- Giải thích mọi thỏa thuận liên quan đến điều ước đã được tất cả các bên
thơng qua;
- Trong q trình giải thích phải tính đến mọi thỏa thuận sau này giữa các
bên về giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy định của điều ước; mọi
thực tiễn sau này trong khi thực hiện điều ước được các bên thỏa thuận liên quan
14


đến việc giải thích điều ước; mọi quy tắc thích hợp của pháp luật quốc tế áp
dụng trong các quan hệ giữa các bên.
* Phương pháp giải thích

Giải thích điều ước quốc tế có thể thực hiện theo các phương pháp sau
đây:
- Giải thích theo văn phạm, là giải thích bằng cách phân tích cấu trúc của
văn bản diều ước trên cơ sở cấu tạo của câu văn, nghĩa của từ, nguồn gốc thuật
ngữ dùng trong điều ước.
- Giải thích theo logic, là giải thích bằng cách phân tích văn bản điều ước
trên cơ sở so sánh các điều khoản của điều ước, đối chiếu những điều khoản giải
thích với từng nội dung của điều ước theo một trật tự logic.
- Giải thích theo thực tiễn, là giải thích có xem xét đến các hoạt động tiếp
theo của các bên ký kết, đặc biệt trong việc thực hiện điều ước, phương pháp
này thường được sử dụng trong việc giải thích các điều ước quốc tế đa phương.
- Giải thích theo tài liệu trù bị, là giải thích dựa trên cơ sở sử dụng những
tài liệu có liên quan trực tiếp với việc ký kết điều ước như: Thư, điện trao đổi;
các văn bản dự thảo điều ước… để xác định rõ thêm ý định của các bên ký kết.
1.2.3. Đăng ký và công bố điều ước quốc tế
* Công bố điều ước quốc tế
Về nguyên tắc đăng ký điều ước khơng phải là một giai đoạn của q
trình ký kết điều ước quốc tế, điều ước quốc tế có đăng ký hay khơng thì điều
ước đều có giá trị pháp lý như nhau nếu chúng được ký kết phù hợp với những
nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại. Bởi lẽ, đăng ký điều ước quốc tế chỉ là căn
cứ để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra giữa các chủ thể trong quá trình
thức hiện điều ước quốc tế. Theo Công ước viên 1969: “Các điều ước sau khi có
hiệu lực, sẽ được chuyển đến ban thư ký Liên hợp quốc để đăng ký hoặc lưu trữ
và ghi vào danh bạ, tùy từng trường hợp, cũng như để công bố” (Khoản 1, Điều
15


80). Điều 120 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Bất cứ hiệp ước hay hiệp
định quốc tế nào do một hội viên Liên hợp quốc ký kết sau khi Hiến chương này
có hiều lực đều phải được đăng ký càng sớm càng tốt tại cơ quan Tổng thư ký

và do cơ quan Tổng thư ký công bố. Nếu một nước nào ký kết hiệp ước hay hiệp
định quốc tế mà không đăng ký, tùy theo quy định của đoạn của Điều này thì
khơng có quyền đưa hiệp ước hay hiệp định đó ra trước một cơ quan nào của
Liên hợp quốc”. Như vậy, đăng ký điều ước quốc tế không phải là nghĩa vụ mà
là quyền của các bên ký kết điều ước quốc tế nhưng nếu điều ước khơng được
đăng ký thì các quốc gia khơng được viện dẫn trước bất kỳ một cơ quan nào của
Liên hợp quốc khi có tranh chấp xảy ra. Chính vì vậy, để quyền và lợi ích của
mình được thừa nhận và bảo đảm thực hiện bởi Liên hợp quốc, các quốc gia cần
thiết phải đăng ký mà quốc gia đã ký kết với các quốc gia khác.
Theo Điều 70 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt
Nam năm 2005: “Bộ ngoại giao đăng ký tại Ban thư ký của Liên hợp quốc điều
ước quốc tế hai bên có hiệu lực đối với Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
điều ước quốc tế nhiều bên có hiệu lực trong trường hợp nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên”.
Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được công bố trên Công báo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Niên giám điều ước quốc tế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa bên
Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định khác của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản sao điều ước
quốc tế có hiệu lực do Bộ Ngoại giao gửi, Văn phịng Chính phủ đăng điều ước
quốc tế đó trên Cơng báo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hằng năm, Bộ Ngoại giao tổ chức biên soạn và ấn hành Niên giám điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.

16


Trong trường hợp có u cầu khơng cơng bố điều ước quốc tế, cơ quan đề
xuất trình Chính phủ quyết định sau khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Ngoại

giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan.
1.2.4. Xác định vị trí điều ước quốc tế trong quan hệ với luật quốc gia
Việc xác định vị trí của các điều ước quốc tế trong hệ thống các văn bản
pháp luật quốc gia hiện khơng có sự thống nhất trong cách giải quyết của các
quốc gia. Cụ thể, vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật của quốc
gia thường được xác định theo hai cách:
- Thứ nhất: luật quốc gia quy định điều ước quốc tế là một bộ phận cấu
thành của luật quốc gia, có vị trí dưới Hiến pháp nhưng lại có hiệu lực cao hơn
các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đây là xu hướng khá phổ biến mà điển
hình Cộng hịa Pháp và Liên bang Nga.
- Thứ hai: luật quốc gia không quy định rõ điều ước quốc tế có phải là
một bộ phận cấu thành luật quôc gia hay không nhưng vẫn thừa nhận giá trị ưu
tiên của điều ước so với luật quốc gia, thậm chí điều ước quốc tế có thể được
xếp ngang bằng với Hiến pháp. Điển hình cho trường hợp này là Thụy Sỹ, Hà
Lan …
Liên quan tới việc thực hiện điều ước quốc tế hiện nay tồn tại hai quan
điểm chủ yếu sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp đối
với các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của nó tại các nước thành viên. Quan
điểm này sẽ dẫn đến hệ quả là điều ước quốc tế sau khi phát sinh hiệu lực sẽ
được áp dụng trực tiếp mà quốc gia đó khơng cần phải tiến hành “nội luật hóa”,
trừ khi chính điều ước quốc tế đó có quy định khác.
- Quan điểm thứ hai, cho rằng, điều ước quốc tế không thể được áp dụng
một cách trực tiếp đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của nó tại các
nước thành viên. Quan điểm này thường xuất phápt từ việc nhìn nhận điều ước
17


quốc tế là luật quốc tế cho nên không thể áp dụng như những quy phạm pháp
luật trong nước. Vì vậy, để thực hiện điều ước quốc tế, quốc gia cần phải “nội

luật hóa”.
Mặc dù tồn tại các quan điểm khác nhau của pháp luật quôc gia về giá trị
hiệu lực của điều ước quốc tế nhưng tựu trung lại, việc thực tiễn thực thi, tn
thủ luật qc tế nói chung và điều ước quốc tế nói riêng vẫn phãi đi tới một kết
quả là các quốc gia thành viên phải tôn trong đầy đủ các nghĩa vụ thành viên của
điều ước

18


Chương 2.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện điều ước quốc tế.
* Pháp luật Việt Nam về điều ước quốc tế
Sau khi ký kết điều ước quốc tế, các quốc gia đã chấp thuận sự ràng buộc
của hiệu lực điều ước quốc tế bằng các hành vi ký chính thức (nếu điều ước
không quy định phải phê chuẩn hoặc phê duyệt), phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập
hoặc chấp thuận. Trên tinh thần nguyên tắc Pacta Sunt Servanda các quốc gia sẽ
tuân thủ và thi hành điều ước mà quốc gia là thành viên. Pháp luật của các quốc
gia trên thế giới đều quy định nếu có sự xung đột giữa các quy định của điều ước
với các quy định trong các văn bản luật (trừ Hiếp pháp) các quốc gia sẽ ưu tiên
áp dụng điều ước quốc tế.
Theo Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam
năm 2005, tại khoản 1 và khoản 2, Điều 6 cũng có quy định tương tự:
“1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo không làm
cản trở thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thành viên có quy định về cùng một vấn đề”.
Về phương pháp thực hiện điều ước quốc tế trên lãnh thổ các quốc gia
thành viên, tùy theo nội dung của từng điều ước mà các quốc gia sẽ thực hiện
điều ước bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thực hiện trực tiếp có nghĩa là là áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà
quốc gia là thành viên mà khơng cần phải “nội luật hóa” hay “chuyển hóa” các
19


quy định của điều ước quốc tế thành các quy định của pháp luật quốc gia để thực
hiện. Ví dụ, các điều ước quốc tế về phân định lãnh thổ, biên giới quốc gia là
những điều ước cần thực hiện trực tiếp tồn bộ nội dung của nó.
Thực hiện gián tiếp điều ước có nghĩa là phải tiến hành “nội luật hóa” hay
“chuyển hóa” các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên vào
pháp luật trong nước để thực hiện bằng các hành vi như ban hành văn bản mới,
sửa đổi, bổ sung những văn bản hiện hành hoặc bãi bỏ những văn bản không còn
phù hợp để thực hiện theo tinh thần của điều ước quốc tế.
Tại khoản 3, Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
của Việt Nam năm 2005 cũng quy định rất rõ phương pháp thực hiện điều ước
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên như sau: “Căn cứ
vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng
thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc
tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc
tế đó”. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện
điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy
phạm pháp luật quốc nội.
2.2. Thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam

2.2.1.Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Hoạt động kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam đã
đạt đựơc một số thành tựu nhất định dựa trên môt khung pháp lý ngày càng hoàn
chỉnh đáp ứng nhu cầu kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta. Kể từ khi thành lập
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1945 (năm 1976 đổi tên là Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, công tác thực hiện điều ước quốc tế ngày
càng được chú trọng. Pháp luật về kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
20


dần được hoàn thiện qua các giai đoạn, lịch sử khác nhau của đất nước. Nhìn
chung việc kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam từ năm
1945 đến nay được chia ra làm các thời kỳ khác nhau với điều kiện kinh tế, xã
hội, cơ sở pháp lý khác nhau đã tạo nên sự thay đổi về số lượng cũng như lĩnh
vực kí kết điều ước quốc tế.
* Lịch sử hình thành hệ thống pháp luật về điều ước quốc tế
- Trước năm 1945
Thực dân Pháp tiến hành ký kết một số điều ước quốc tế mà thực dân
Pháp đã ký kết và được thực hiện ở trên lãnh thổ Việt Nam: Hiệp định thương
mại giữa Pháp và Nhật liên quan đến Đông Dương ngày 13/5/1932; Hiệp định
Pháp - Nhật về việc Đông Dương cung cấp thóc gạo cho Nhật tại Tokyo ngày
20/1/1941; các Hiệp ước về cư trú và hàng hải và Hiệp ước về quan thuế và
thương mại k. ngày 6/5/1941 giữaChính phủ Pháp và Nhật.
- Sau năm 1945
Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế: Hiệp định thương mại Việt
Nam - Trung Quốc năm 1952, Nghị định thư về mậu dịch tiểu ngạch Việt Nam Trung Quốc năm 1953. Sau năm 1955 đến năm 1985 đã Có rất nhiều các điều
ước quốc tế được ký kết giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, ví dụ: Hiệp
định viện trợ hàng hóa và kỹ thuật giữa Việt Nam với Trung Quốc (1955); Việt
Nam - Liên Xô (1956); Việt Nam – Ba Lan (1958)...
- Sau năm 1975

Năm 1989: Mặc dù đã có nhiều các điều ước quốc tế được ký kết và thực
hiện trên lãnh thổ Việt Nam nhưng xét dưới góc độ lập pháp, tính đến trước năm
1989 Nhà nước ta mới ban hành Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
được ban hành. Đây là một văn bản pháp luật đầu tiên có tính chất chuyên ngành
của Việt Nam quy định các vấn đề cơ bản trong lĩnh vực này. Sau khi có Pháp

21


lệnh, Hội đồng Bộ trưởng đã Ban hành Nghị định số 182 ngày 28/5/1992 quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế.
Trong những năm gần đây, số lượng các điều ước các điều ước quốc tế mà
Việt nam ký kết và gia nhập ngày càng có xu hướng gia tăng. Theo báo cáo tổng
kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, Việt Nam
đã ký kết, gia nhập hơn 700 điều ước quốc tế (chưa kể các điều ước quốc tế
được ký kết với danh nghĩa bộ, ngành). Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, số lượng
điều ước quốc tế của Việt Nam ký kết đã bằng số lượng của gần 50 năm trước
đó. Trong đó, các điều ước quốc tế liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống.
Một số điều lĩnh vực mà Việt nam tham gia điều ước quốc tế và những
điều ước cụ thể như:
* Trong lĩnh vực nhân quyền
- Việt Nam đã ký kết, gia nhập các công ước trong lĩnh vực nhân quyền
như:
+ Công ước về quyền dân sự, chính trị, Cơng ước về quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982;
+ Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1966 Việt
Nam gia nhập ngày 9/6/1981;
+ Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ
nữ Việt Nam là một trong những nướ đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công
ước vào ngày 27/11/1981 và phê chuẩn tháng 2/1982.

+ Công ước về quyền trẻ em Việt Nam ký tháng 1/1990 và phê chuẩn
ngày 20/2/1991.
+ Việt Nam cũng đã phê chuẩn 2 Nghị định thư bổ sung của Công ước
Quyền Trẻ em (Nghị định thư không bắt buộc về trẻ em trong xung đột vũ trang
và Nghị định thư không bắt buộc về chống sử dụng trẻ em trong mãi dâm, tranh
ảnh khiêu dâm);
22


Ngoài ra, chúng ta cũng đã là thành viên của một số các công ước khác,
như:
+Công ước quốc tế về xố bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc - Công
ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng năm 1948 Việt Nam gia nhập
ngày 9/6/1981.
+ Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội ác A-pác-thai năm 1973 Việt
Nam gia nhập ngày 9/6/1981.
* Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại
Đây là lĩnh vực mà Việt Nam đã tham gia ký kết, gia nhập nhiều công ước
quốc tế. Có thể kể đến các cơng ước như:
+Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, được ký kết ngày 14/7/2000;
+ Hiệp định thành lập khu vực Thương mại tự do ASEAN –Úc – Niu
Dilân
+ Hiệp định về Hợp tác Kinh tế giữa Chính phủ nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Ru-ma-ni”, ký tại Bu-ca-ret ngày 23
tháng 6 năm 2009
+ Hiệp định về hợp tác kinh tế và kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có hiệu lực từ
ngày 28 tháng 7 năm 2005
+ Công ước Paris năm 1883 về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp;
+ Công ước Stockholm năm 1967 thành lập tổ chức SHTT thế giới

(WIPO);
+ Thỏa ước Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế về nhãn hiệu và Nghị
định thư liên quan đến thỏa ước năm 1989;
+ Hiệp ước hợp tác quốc tế về bằng sáng chế (PCT) năm 1970;

23


+ Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà xuất bản, ghi
âm và tổ chức phát sóng;
+ Cơng ước Brussel năm 1974 về bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa;
+ Cơng ước Geneva năm 1971 về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống việc
sao chép không được phép;
+ Hiệp ước Washington năm 1989 về Sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp
+ Cơng ước UPOV năm 1961 về bảo hộ giống cây trồng mới;
+ Hiệp định Việt Nam - Hoa Kì năm 1997 về thiết lập quan hệ quyền tác giả;
+ Hiệp định Việt Nam - Thụy Sĩ năm 1999 về sở hữu trí tuệ và hợp tác
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ;
+ Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) năm 2000;
+ Hiệp định TRIPs về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ năm 1994 trong khn khổ các văn kiện của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO).
+Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật Việt Nam gia
nhập Công ước Berne từ ngày 26-10-2004;
* Trong lĩng vực môi trường
Theo thống kê cho đến năm 2010, Việt Nam đã tham gia một số công ước
quốc tế về môi trường tiêu biểu như:
+ Công ước CBD: Việt Nam phê chuẩn và trở thành thành viên của Công
ước này từ ngày 16/11/1994 Nghị định thư Cartagena về an tồn sinh học của

Cơng uớc CBD đã được hồn thiện và thông qua tại Montreal vào ngày
29/1/2000 trong cuộc họp đặc biệt của các bên tham gia Công ước
+ Công ước Ramsar: Về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc
tế, đặc biệt là nơi cư trú của lồi chim nước Cơng ước này được thơng qua ngày
24


2/2/1971 và được đại biểu của 18 nước ký kết một ngày sau đó tại Hội nghị quốc
tế được tổ chức tại TP.Ramsar (Iran). Tháng 12/1975, Cơng ước có hiệu lực và
UNESCO là tổ chức lưu chiểu Công ước. Nội dung chính của Cơng ước là bảo
tồn và sử dụng khôn ngoan các vùng đất ngập nước chủ yếu làm nơi cư trú của
chim nước.
+ Hiệp định về Trung tâm Đồng Bằng Sơng Hồng ASEAN(ACB): Trung
tâm ACB được chính thức phát động tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN chính thức
vào ngày 27/9/2005. Ngày 13/10/2005, tại Công văn số 5908/VPCP-QHQT, Thủ
tướng Chính phủ đã đồng ý cho phép Bộ trưởng Bộ Bộ Tài ngun và Mơi
trường thay mặt Chính phủ Việt Nam ký kết Hiệp định thành lập Trung tâm đa
dạng sinh học ASEAN. Việc Việt Nam tham gia Hiệp định là một hoạt động
nhằm tăng cường hợp tác khu vực ASEAN về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
đa dạng sinh học.
+ Công ước Basel: Công ước Basel được thông qua tại Hội nghị Đại sứ
Đặc mệnh Toàn quyền ở Basel vào năm 1989 và bắt đầu có hiệu lực vào năm
1992 với mục tiêu cơ bản là kiểm soát và giảm thiểu các hoạt động vận chuyển
chất thải nguy hại, các chất thải khác được quy định bởi Công uớc Basel, phịng
ngừa và giảm thiểu sự hình thành cũng như quản lý hợp lý về môi trường những
chất thải này, tích cực thúc đẩy việc chuyển giao và sử dụng các công nghệ sạch
hơn. Việt Nam phê chuẩn tham gia Công ước Basel ngày 13/3/1995
+ Công ước Stốckhôm: Công ước Stốckhơm về các chất ơ nhiễm hữu cơ
khó phân (POP) được thông qua ngày 22/5/2001 tại Stốckhôm, Thụy Điển và có
hiệu lực từ ngày 17/5/2004. Cơng ước Stốckhơm là một hiệp ước tồn cầu có

mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người và môi trường trước POP. Việt Nam đã
Tham gia ký kết Công ước Stốck-hôm ngay từ năm 2001.
Và một số các công ước như: Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
năm 1982, Công ước quốc tế về ngăn chặn ô nhiễm từ tàu (Công ước Marpol
1973/1978); Cơng ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc
25


×