Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

ÔN KIẾN THỨC văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.23 KB, 39 trang )

THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>HACK NÃO KIẾN THỨC VĂN 11
I – Khái quát chung
1. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài năng, là hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, song
cũng là nhà thơ mà cuộc đời cịn rất nhiều bí ẩn. Có rất nhiều giai thoại về hoàn cảnh
xuất thân, cuộc sống và cá tính của bà. Hiện nay phần đơng các nhà nghiên cứu thống
nhất ý kiến : Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ
Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống
ở Thăng Long và bà từng dựng ngơi Cổ Nguyệt đường để đón tiếp, giao du với khách
văn chương. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.
2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự
của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất
hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng
khơng thiếu sự dịu dàng, yếu đuối của nữ tính.
II – Đọc hiểu
Như đã nói, bài Tự tình này khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và tình
yêu. Bài thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào lúc cũng
thật là tinh tế.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Câu thơ nói đến thời gian nhưng cũng lại gợi được cái không gian rợn ngợp. Thời gian,
không gian đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn.
Đêm khuya, vắng lặng và tĩnh mịch. Đó là thời điểm con người cảm giác rõ nhất sự cơ
đơn. Một mình đối diện với đêm khuya, khi tất cả mọi âm thanh của cuộc sống đã lắng
lại, đã lùi lại cả phía sau, người phụ nữ đa đoan ấy càng thấm thía nỗi buồn. Cái âm
thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh không làm cho đêm bớt tĩnh lặng, mà ngược lại


nó làm cho đêm sâu hơn, vắng hơn và lịng người buồn hơn. Tiếng trống canh dồn là
nhắc nhở thời gian đang bước từng bước lạnh lùng. Nhà thơ đã lấy động để mà tả tĩnh –
một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca trung đại. Văng vẳng vừa gợi âm thanh
của tiếng trống điểm canh, vừa gợi sự quạnh quẽ của đêm khuya. Một mình đối diện với
đêm khuya vắng lặng đến cô tịch vốn đã dễ gợi niềm tâm sự. ở đây, cịn thêm sự cơ đơn
thì nỗi buồn hẳn càng dễ đến hơn. Câu thơ đầu có chỗ hiện cịn nhiều cách hiểu. Đó là
cụm từ trống canh dồn. Thiết nghĩ, trống canh dồn không thể hiểu là sự gấp gáp, dồn
dập, liên hồi của tiếng trống. Hiểu như vậy có phần gượng ép. Đêm khuya không ai đánh
trống dồn dập, liên hồi. Vả lại trống điểm canh lại càng không đánh dồn dập được. Câu
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>thơ chưa nhắc đến chủ thể nhưng thực tế đã là một câu để gợi tình. Một mình đối diện
với đêm khuya, nhân vật trữ tình ngán ngẩm bởi thời gian trơi nhanh mà tình dun thì
vẫn cịn dang dở. Thời gian không chỉ nhanh từng ngày, từng tháng, từng năm mà còn
nhanh ngay cả mỗi canh giờ. Bởi thế mà ngay cả lúc, thời gian tưởng như có bước đi
chậm nhất thì nó vẫn cứ trơi vội vã. Vậy là cụm từ trống canh dồn có thể hiểu : thời gian
trôi nhanh nên cảm giác các canh ngắn lại. Cũng vì thế mà tiếng trống điểm canh cũng
dồn lại gần nhau hơn.
Giữa cái nền không gian rợn ngợp cô đơn ấy hiện lên một hình ảnh thật bẽ bàng :
Trơ cái hồng nhan với nước non
Động từ trơ được đẩy lên đầu câu đứng ngay trước chủ thể “hồng nhan”. Từ hồng nhan
(sắc mặt hồng) chỉ dung nhan người phụ nữ, cũng là khái niệm chỉ phụ nữ nói chung
thiên về ngợi khen vẻ đẹp. Thế mà lại “trơ cái hồng nhan”. Chủ thể đã mất hoàn toàn
cảm giác, trơ ra, chai lì đi trước cuộc đời. Đã vậy từ hồng nhan lại nằm ngay sau từ cái
vốn không đi liền với danh từ chỉ người. Câu thơ mỉa mai, rẻ rúng đến xót xa. Nhịp thơ
chắc khoẻ như gân lên ở đầu câu nhưng lại chùng xuống ở cuối câu như muốn ngân thêm
mãi cảm giác bẽ bàng.
Câu thơ buồn. Tình buồn, cảnh cũng buồn. Vì thế cũng là hợp lơgíc khi ở hai câu thực,

nhân vật trữ tình tìm đến rượu :
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn.
Chủ thể trữ tình mượn rượu để tìm quên nhưng say rồi lại tỉnh. Tỉnh là tỉnh rượu nhưng
cũng lại là tỉnh trước hiện thực bẽ bàng. Cụm từ say lại tỉnh gợi cái vịng lẩn quẩn : buồn
– mượn rượu để tìm qn – nhưng tỉnh rượu, nỗi buồn lại nhân lên gấp bội phần. Hương
tình sao cũng giống như hương rượu, khiến ta say. Và nếu như sau cơn say rượu, ta mệt
mỏi rã rời thì sau một thống hương tình rất có thể ta phải đau đớn, xót xa.
Câu thơ thứ tư mới thực là một câu tả thực. Câu thơ gợi ra nguyên nhân của sự bẽ bàng :
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn
Xưa nay, vầng trăng trịn đầy vốn tượng trưng cho sự viên mãn của hạnh phúc lứa đơi.
Nhưng ở câu thơ này, nó là một sự khao khát. Niềm khát khao của bất kì một người phụ
nữ nào trên thế gian này, khát khao hạnh phúc, khát khao thốt khỏi nỗi cơ độc, lẻ loi.
Nhiều người vẫn dựa vào những câu chuyện về tình duyên của Xuân Hương để lí giải
nghĩa của câu thơ này. Thế nhưng, đó chỉ là sự suy luận với mong mỏi tìm hiểu cặn kẽ
cụ thể một hình ảnh thơ. Khơng thể nói rằng cả hai lần làm lẽ, Hồ Xuân Hương đều
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>khơng hạnh phúc. Mặc dù có thể là gắng gượng nhưng phải làm lẽ ở thời phong kiến
cũng khơng có gì là ghê gớm. Xn Hương có buồn nhưng khơng kêu ca. Nàng chỉ tiếc
hạnh phúc lứa đơi đã có những lúc trịn đầy sao giờ “xế bóng” mà lại không viên mãn.
Hạnh phúc sao không trọn vẹn. Câu thơ không đơn giản thế, không chỉ là nỗi buồn của
riêng Xn Hương vì chuyện hạnh phúc lứa đơi dang dở. Ai dám khẳng định rằng tất cả
mọi người phụ nữ trong mọi thời đại đều chắc chắn hạnh phúc, không cảm thấy cơ đơn
khi có đủ cặp, đủ đơi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn chung. Đó
là nỗi khát khao một hạnh phúc vẹn trịn. Nhất là những người phụ nữ khơng may mắn
trong chuyện tình dun, tuổi xn cứ lạnh lùng trơi đi mà hạnh phúc tìm hồi khơng
thấy.

Sự khác biệt lớn nhất thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hương là ở nữ sĩ, phẫn uất bao giờ
cũng đi liền với phản kháng. Hai câu thơ luận chính là hai câu nói lên cái bản lĩnh ấy của
Hồ Xuân Hương :
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Hai câu thơ đăng đối và chắc khoẻ được tạo nên từ nghệ thuật đảo ngữ và luật đối quy
định trong câu luận. Một nhỏ bé và yếu ớt (đám rêu). Một là vật vô tri (đá). Nhưng thiên
nhiên lại chở cái phẫn uất của lòng người nên dù yếu ớt mà vẫn tràn đầy sức sống (từng
đám rêu xiên ngang mặt đất). Dù vô tri, đá vẫn cựa động, quẫy đạp, phá phách (mấy hòn
đá đâm toạc chân mây). Bản lĩnh của Hồ Xn Hương khơng chỉ tìm thấy trong ý nghĩa
của sự miêu tả. Nó nằm ngay ở cách dùng từ. Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương mạnh mẽ,
bướng bỉnh và phải là độc đáo : xiên ngang, đâm toạc. Chúng ta gặp nhiều cách dùng từ
này trong thơ của Xuân Hương : xoạc cẳng, phường lòi tói, chín mõm mịm… Đó là
phong cách ngơn ngữ riêng của Bà chúa thơ Nôm Xuân Hương.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng cũng là để thể hiện cá tính Hồ Xn Hương – con người
khơng dễ dàng bằng lịng hồn cảnh. Nhưng nếu chỉ có vậy, thơ Xuân Hương sẽ khô
khan và gượng ép. Bởi thế hai câu thơ cuối là hai câu nói thực lịng người phụ nữ :
Ngán nỗi xn đi xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !
Dù gắng gượng, bài thơ vẫn kết thúc trong tâm trạng chán chường. Từ ngán nỗi nói lên
điều đó. Xuân Hương ngán ngẩm nỗi đời éo le, cũng là ngán ngẩm số phận mình bạc
bẽo. Tạo hố cho bốn mùa xoay vần trở lại nhưng tuổi xuân mãi mãi qua đi. Mùa xuân
của đất trời mỗi năm một mới. Nhưng mùa xuân của cuộc đời chỉ có một chiều tàn úa.
Hai từ lại trong câu này có nghĩa khác nhau. Một từ là “thêm lần nữa”, một từ là “trở
lại”. Nhịp câu thơ kéo dài như nỗi chán chường, sự cô đơn bất tận của nhân vật trữ tình.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>Câu thơ cuối là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật tăng tiến :

Mảnh tình san sẻ tí con con
Mảnh tình đã ít đã nhỏ, lại cịn san sẻ nên thành ra chỉ cịn lại tí con con, đã tí lại con
con, hầu như chẳng cịn gì. Câu thơ là tâm sự của người đi làm lẽ :
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
(Ca dao)
Cảnh chồng chung vợ chạ thực sự là một dấu ấn khắc sâu vào cuộc đời bất hạnh, chán
chường của người phụ nữ mà trong hoàn cảnh nào cũng không nguôi khát vọng yêu
thương.
Trong thơ ca trung đại, cái Tơi cá nhân giữ một vị trí rất khiêm tốn, nó nhỏ bé và yếu ớt
nấp sau một cái ta đầy kiêu ngạo. Nhưng những người nghệ sĩ như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đều không chấp nhận thực tế ấy. Với tài năng, tình đời và
bản lĩnh sáng tạo của mình, họ đã dũng cảm đưa cái Tôi cá nhân với những tâm trạng rất
riêng, rất người, rất đời thường vào những trang thơ, trang văn. Và đó đều là cái tình đời,
tình người của những người nghệ sĩ có tấm lịng nhân đạo và tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Chùm 3 bài Tự tình của Hồ Xuân Hương, mỗi bài có một vẻ riêng. Dù sao cũng phải nói
rằng ở bài này thấy ít sự ngao ngán hơn. Thơ vẫn có những lúc phá phách nhưng không
phải theo kiểu bất cần. Bài thơ nghiêng hơn về âm hưởng trữ tình. Nỗi buồn đong đầy
nhưng vẫn lắng sâu, khơng hời hợt. Nhìn thẳng để viết thật về lịng mình, bài thơ khơng
chỉ là tâm sự của Hồ Xuân Hương. Bài thơ còn mang ý nghĩa nhân văn cao cả.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>CÂU CÁ MÙA THU
Nguyễn Khuyến
1. Khái quát
“Thu điếu” nằm trong chùm thơ thu ba bài “nức danh nhất” về thơ nơm của Nguyễn
Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu

đẹp mà cơ đơn, buồn của một nhà nho nặng tình với quê hương đất nước. “Thu
điếu” cũng như “Thu ẩm”, “Thu vịnh” chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời
gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884).
II. Đọc hiểu
1. Đề
Mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng q. Chiếc ao thu “nước
trong veo” có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu “lạnh lẽo” như bao trùm
khơng gian. Khơng cịn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên
mới “lạnh lẽo” như vậy. Trên mặt ao thu đã có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” tự bao
giờ. “Một chiếc” gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. “Bé tẻo teo” nghĩa là rất bé nhỏ; âm
điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo) – Đó là một
nét thu đẹp và êm đềm.
2. Thực
Tả không gian 2 chiều. Màu sắc hịa hợp. có “sóng biếc” với “lá vàng”. Gió thổi nhẹ
cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng “sẽ đưa vèo”, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn
từng làn “hơi gợn tí”. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tơ đậm cái nhìn thấy và
cái nghe thấy. Ngịi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy
cái lăn tăn của sóng “hơi gợn tí” phối cảnh với độ bay xoay xoay “sẽ đưa vèo” của chiếc
lá thu. Chữ “vèo” là một nhãn tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc.
Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: “Vèo trông lá rụng đầy sân” (cảm
thu, tiễn thu).
3. Luận
Bức tranh thu được mở rộng dần ra. Bầu trời thu “xanh ngắt” thăm thẳm, bao la. Áng
mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trơi. Thống đãng, êm đềm, tĩnh lặng
và nhẹ nhàng. Khơng một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. “Vắng teo” nghĩa là vô cùng vắng lặng không một
tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. “Ngõ trúc” trong thơ Tam nguyên
Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA



THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>“Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?”
(Nhớ núi Đọi)
“Ngõ trúc” và “tầng mây” cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như
đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
4. Kết
“Thu điếu” nghĩa là mùa thu, câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc
thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc… mãi đến phần kết mới xuất hiện
người câu cá. Một tư thế nhàn: “tựa gối ôm cần”. Một sự đợi chờ: “lâu chẳng được”. Một
cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “Cá đậu đớp động dưới chân bèo”. Người câu cá như đang
ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời
bên bờ sơng Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá “đớp động” sau tiếng
lá thu “đưa vèo”, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với “Một
tiếng trên không ngỗng nước nào”, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu
cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một
tâm hồn thanh cao đáng trọng.
III. Kết luận
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái điệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh
trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu “đưa vèo”. Cảnh đẹp
êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu
q hương, với tình u tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu tiếng thu gợi tả cái hồn thu
đồng quê thân thiết. Vần thơ: “veo – teo – vèo – teo – bèo”, phép đối tạo nên sự hài hoà
cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng
điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả
cảnh ngụ tình tuyệt bút.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA



THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
Nguyễn Công Trứ
I. Khái quát chung
-Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
học giỏi, giàu chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường
cơng danh, hoan lộ. Giàu lịng u nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập ra
2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh Pháp
(1858).
Thơ văn để lại: Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nơm nổi tiếng “Hàn
nho phong vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. Đi thi tự vinh, Nợ tang bồng, Nợ
cơng danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca ngất ngưởng… là những bài
thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ.
-“Bài ca ngất ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Cơng Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh
quê nhà.
– Như một lời tự thuật cuộc đời, qua đó Nguyễn Cơng Trứ tự hào về tài năng và cơng
danh bày tỏ một quan niệm sống tài tử, phóng khống… ngồi vịng kiềm tỏa.
Bố cục bài hát nói
– Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất ngưởng.
– Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng ngất ngưởng.
– Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử, phóng túng ngất ngưởng.
– Khổ xếp (3 câu cuối): Một danh thần nên ngất ngưởng.
II. Đọc hiểu
* Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ
này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.
1. Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã
vào lồng” rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây – tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự
hào – vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan
võ là tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên

ta (ơng Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất
chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một giọng
nói điệu hào hứng:
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>“Khi thủ khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/
Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”
2. Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn
thì giúp nước “bình Tây cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ dỗn Thừa
Thiên”. Đó là việc đã qua, cịn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi
người:
“Đơ mơn giải tố chi niên
Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng”
Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về q khơng cưỡi ngựa mà là cưỡi bị vàng; con bị
vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người.
3. Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay
kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh
đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đơi dì” (một
hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ
cười, hay ơng Hi Văn tự cười mình? Chuyện “được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã tái
ơng” mà thơi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngồi tai
như ngọn gió đơng (xn) thổi phơi phới qua.
Không quan tâm đến chuyện được, mất, bỏ ngồi tai mọi lời khen, chê thị phi, ơng đã
sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh
cao. Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp đã
tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống,
chẳng vướng chút bụi trần:
“Khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng

Không Phật/ không tiên/ không vướng tục”
4. Khổ xếp, Nguyễn Cơng Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung
trong đạo “vua tơi” chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật –
những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của
minh trong lịch sử:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>Hai so sánh xa gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát
nói bằng một tiếng “ông” vang lên đĩnh đạc hào hùng.
III. Kết luận
Tóm lại, với Nguyễn Cơng Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua
tơi” thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất
ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục” cũng
không thoát li.
Nhan đề, thi đề rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của ông Hi Văn cũng rất độc đáo.
Chất thơ, chất nhạc hài hịa, phối hợp tài tình. Các câu 3, 4, 15, 16 là tuyệt cú. Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là những nhà thơ cự
phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Cơng Trứ đã tạo nên một giọng điệu
mạnh mẽ hào hùng, chất tài tử hòa nhịp với chí anh hùng, đó là cốt cách, là bản sắc
những bài thơ hát nói của Nguyễn Cơng Trứ.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH

/>THƯƠNG VỢ
Trần Tế Xương
I. Khái quát chung
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trong con đường
khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp
thơ ca của ơng thì bất tử. Q ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuối ngự,
đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào q ơng.
Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có
bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô
cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ơng là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học
cận đại của dân tộc.
Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang chịu
thương chịu khó vì chồng con.
II. Đọc hiểu
Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo
– Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”,
buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầu chợ, bến đị, bn thúng bán mẹt. Chẳng
có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một
chồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương
vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một”
(chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anh
dận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh.
– Câu 3-4 mượn hình ảnh con cị trong ca dao, tạo thành “thân cò” – thân phận lam lũ vất
vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà Tú thì lặn lội… khi qng vắng,
nơi mom sơng. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt
nước buổi đị đơng” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cị” rất
sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng,
gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.
– Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và “năm nắng mười
mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản cơng” như một tiếng thở

dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lịng chịu đựng, lo toan vì nghĩa
vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10)
để nói lên đức hy sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>“Một duyên hai nợ/âu đành phận,
Năm nắng mười mưa/dám quản cơng”.
Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt
đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con.
Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.
Nỗi niềm nhà thơ
– Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa phẫn nộ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở Tây dở ta, nửa phong kiến
nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ở
bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp được ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ,
như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú – Con tập tểnh đi bộ – Khách hỏi nhà ông
đến – Nhà ơng đã bán rồi”.
– Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và
xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như khơng”. “Như khơng” gì? Một cách nói bng
thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!
III. Kết luận
Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và
tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài
thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu, niêm đến phép đôi được thể hiện một
cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình vừa biểu lộ tình thương
vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình
đơng con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủ năm
con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.


CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
Nguyễn Đình Chiểu
I. Khái quát chung
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là ngơi sao sáng của nền văn nghệ đất nước ta
trong nửa sau thế kỷ 18. Bị mù, vừa dạy học, làm thuốc và viết văn thơ. Sống vào thời kỳ
đen tối của đất nước: giặc Pháp xâm lăng, đất Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Tinh
thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc Pháp xâm lược là những tư
tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Tác phẩm:
– Truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
– Văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế Nghĩa sĩ trận vong Lục
tỉnh.
– Thơ: Nhiều bài thơ Đường luật – cảm hứng yêu nước.
– Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra
đêm 14/12 âm lịch (1861). Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Tuần phủ Gia Định
là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế này. Ngay sau đó, vua Tự Đức ra lệnh
phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.
– Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự
nghiệp đánh Pháp để cứu dân, cứu nước.
II. Đọc hiểu: Hình ảnh người nghĩa sĩ
1. Nguồn gốc: Nơng dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng
trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:
2. Tâm hồn: u, ghét dứt khốt, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ơng ghét cỏ” “đâu

dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết khơng đội trời chung với giặc Pháp:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm
quân chiêu mộ”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
3. Trang bị
– Khơng phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có
“bao tấu, bầu ngịi”. Họ chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc.
Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí là một ngọn tầm vơng, một lưỡi
gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi” …
Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu đồng
súng nổ”.
4. Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh:
– Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém
ngược”, “bọn hè trước lũ ó sau”.
– Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ
đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
– Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”,
“làm cho mã tà, ma ní hồng kinh”
– Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lịng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm
vội bỏ”.
Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông
đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi
đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.
Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu.
– Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của
các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trị của người nơng dân trong lịch sử chống xâm
lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
– Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)
– Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Khơng thể
“theo qn tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước
cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh dũng,
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn
kiếp nguyện được trả thù kia…”.
– Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh
thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “cây
hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân tộc,
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những anh hùng
thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa.
3. Nghệ thuật
1. Ngơn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền nam. Các
kiểu câu tứ tự, song quang, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, khô ứng, đối chọi
cân xứng đẹp.
2. Chất chữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng.
3. Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân được khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt
hiên ngang.
Có thể nói, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, là kiệt
tác trong kho tàng văn tế cổ kim của dân tộc.


CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam
I. Khái quát chung
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường
Lân). Nhà văn, nổi tiếng về truyện ngắn. Viết xúc động về người nghèo, những em bé
nhà nghèo. Văn nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lịng xót thương, nhân hậu. Chất thơ man mác
trong văn xuôi.
Tác phẩm – Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1977), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc
(1942), Tập tuỳ bút Hà Nội 36 phố phường…
- Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút trong tập “Nắng trong vườn” (1938)
- Tác phẩm nói lên lịng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động
của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.
II. Đọc hiểu
1. Phố huyện nghèo và những người nghèo
– Phố huyện là một thị trấn nhỏ và nghèo. Xung quanh là cánh đồng và xóm làng. Gần
bờ sơng. Có đường sắt chạy qua, có một ga tàu. Chiều hè tiếng ếch nhái râm ran. Đên
xuống, phố vắng, tối im lìm. Rất ít đèn.
– Chợ chiều vãn. Chỉ có vài đứa bé lang thang đi lại nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre…
bóng chập chờn.
– Chị Tí mị cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho
đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí – xách điếu đóm và
khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.
– Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch cút
rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.
– Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…
– Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng địn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,…

Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.
– Phố tối, đường ra sông tối, cái ngõ vào làng lại sẫm đen hơn. Một vài ngọn đèn leo
lét… Ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát, ngọn
đèn của Liên từng hột sáng lọt qua phên nứa…
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>Tóm lại, phố nghèo, yên tĩnh và đầy bóng tối. Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo.
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ
hàng ngày của họ? Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía.
Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.
2. Chị em Liên:
– Gia cảnh sa sút nghèo. Cha mất việc. Cả nhà bỏ Hà Nội về quê. Mẹ làng hàng sáo. Chị
em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, phên nứa dán giấy nhật
trình.
– An ngây thơ. Liên cảm thấy cô đã lớn, đảm đang, kiêu hãnh vì cái dây xà tích bạc ở
thắt lưng “vì nó tỏ ra chỉ là người con gái lớn và đảm đang”.
– Gian hàng tối âm thầm, đầy muỗi. Đêm nào hai chị em Liên và An cũng ngồi dưới gốc
bàng, trên cái chõng tre để đợi chuyến tàu đêm. Để bán hàng theo lời mẹ dặn. Còn là một
niềm vui nhỏ nhoi.
– An trước lúc ngủ còn dặn chị đánh thức khi tàu đến. Đợi tàu là đợi ánh sáng. Con tàu
từ Hà Nội về mang theo. Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ
nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc
nước lạnh xanh đỏ.
– Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà
Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”.
Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn
vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.
– Giấc ngủ của Liên, lúc đầu mờ dần đi “giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết…” về sau

“mặt chị nặng dần”, chìm dần vào “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,… tĩnh mịch và đầy bóng
tối”.
Tóm lại, ngịi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc
trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng
tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới
tương lai.
III. Kết luận
Truyện “Hai đứa trẻ” vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Cảnh đợi tàu thật xúc
động. Một ngồi bút tinh tế tạo ra những trang văn xi nhẹ nhàng đầy chất thơ. Một trái
tim đầy tình người. Văn Thạch Lam cho ta nhiều nhã thú, đúng như nhà văn Nguyễn
Tuân đã nói.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Nguyễn Tuân
I. Khái quát chung
Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài
hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn
đích thực thể hiện tấm lịng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp
sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.
Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi (1972),…
– “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong
“Vang bóng một thời”.
– Tác giả ca ngợi Huấn Cao – một nhà nho chân chính – giàu khí phách chọc trời khuấy
nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp,
đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.
II. Đọc hiểu

1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng
lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc cơng văn và nói về tử
tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn
Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.
2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt.
Mới đọc cơng văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lịng khâm phục:
“thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lịng thương tiếc: “… phải
chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử
thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có
lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ
biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn khơng phải là kẻ xấu hay là vơ tình”, Suốt nửa
tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y
đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin
chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ n tâm, đã có tơi” rồi y chạy
ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được
chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người
biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét
vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>3. Ngục quan
– Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu
dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong
trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
– Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lịng kiêng nể”, lại cịn có
“biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ
lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù – Huấn Cao và các đồng chí của ơng.

– Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước
ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ơng Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng
ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.
– Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một
điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ơng Huấn Cao viết”.
Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy
nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm
nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”.
Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa
y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị
hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách
quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp.
Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao q. Vì thế khi nghe viên thơ lại
nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lịng biệt
nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có
những sở thích cao q như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên
hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ
thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.
– Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch cịn ngun vẹn lần hồ”.
Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay
tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cơ
chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ
miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở
thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm
hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.
– Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo
mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở
thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA



THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội
tâm; cái đêm hơm trước đón nhận tử tù, ơng sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt
ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong
kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là
một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.
4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.
a – Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn
khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó ln…”, “một tên tù có tiếng là…”,
và “thầy có nghe người ta đồn…” – Đó là một con người khơng phải tầm thường!
– Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ:
“Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và
rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…
– Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp
Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì
diệu.
b – Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn khơng thành mà vẫn
hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một
cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta
chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Khơng phải ai cũng có cái
gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?
c – Coi khinh vàng ngọc. Khơng vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết bao giờ?”.
Chữ thì quý thật? Nhất sinh ơng mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba
người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là
một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ
của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và
kính phục.
d – Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia.

Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con
người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên
thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu
chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng
bút pháp lãng mạn gợi lên một khơng khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn
thỉu, hơi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi
xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài,
nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người
dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về
nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành
vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên
lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái
đẹp ở đời.
Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngơng ngữ, từ nét chữ đến phong thái –
đều tốt ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh
cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường
vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên
lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh,
những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một khơng gian nghệ thuật cổ
kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời
tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.
III. Kết luận
Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn
Tn khơng phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu

trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật… hầu như khơng có
một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào,
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên
lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình,
nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện,
v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về
ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.
Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội
này xin bái lĩnh” – đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong
các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
Vũ Trọng Phụng
I. Khái quát chung
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê nội ở Hưng Yên. Ông sống và viết văn tại Hà Nội. Sở
trường về phóng sự, được các báo chí thời bấy giờ gọi là “Ơng vua phóng sự đất Bắc”.
Tác phẩm:
– Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Cơm thầy cơm cơ (1936), Lục xì (1937), v.v…
– Tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938),
v.v…
– Kịch: Không một tiếng vang (1931).
Vũ Trọng Phụng có tài châm biếm đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức
bất cơng, tàn bạo, thối nát… Ơng đã sáng tạo ra những nhân vật điển hình bất hủ như
Xuân Tóc Đỏ để chế giễu cái xã hội mà ông gọi là “khốn nạn”, “chó đẻ”.
“Hạnh phúc của một tang gia”, trích tồn bộ chương 15 tiểu thuyết “Số đỏ”, một kiệt tác
của Vũ Trọng Phụng, xuất bản năm 1936.

II. Đọc hiểu
1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và
thối nát.
– Trong gia đình, ơng chết, cha chết – một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm.
Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen
một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ơng phán mọc sừng sung sướng vì ơng
ta khơng ngờ rằng “đơi sừng hươu vơ hình trên đầu ơng ta mà lại to đến thế” nên đã
được cụ cố Hồng – bố vợ – hứa sẽ chia thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn
đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào thời
kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung
sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem
đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ơng Typn chờ mong các
báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa…
Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ
trinh”, v.v…

CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>– Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc khơng có ai đáng phạt
mà phạt, đương buồn như nhà bn vỡ nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực
điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cơ Hồng Hơn, bà Phó
Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm
nhau, chê bai nhau, ghen tng nhau, hẹn hị nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến
đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc ngắn,
hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài,
khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe
vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ
Mõ vậy”. Cịn Xn tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ,

6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám
ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ơng Đốc Xn đã khơng giận mà lại giúp đáp
phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không
sung sướng, chỉ một câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được
ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư “dúi vào tay”…
Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ơng
phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.
2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:
– Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn
ơng, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm
sâu cay.
– Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:
+ Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60
điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
+ Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!
+ Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử
được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên
sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.
+ Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người
“hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng…” để chụp ảnh. Ơng phán-mọc-sừng
khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp
tư… – Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!
+ Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vơ ln hãnh
diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>III. Kết luận chỉ qua một chương ngắn mà ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy
của Vũ Trọng Phụng. “Số đỏ” quả là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.


CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


THEO DÕI VÀ CẬP NHẬT TẠI FB CỦA THẦY TRỊNH QUỲNH
/>CHÍ PHÈO
Nam Cao
I. Khái quát chung
Lúc đầu, Nam Cao đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mời năm 1941, đổi
thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946 trong tập Luống cày do Hộ Văn hóa cứu quốc xuất
bản, tác giả đổi tên truyện thành Chí Phèo.
Truyện Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã
hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi khơng có lối thốt.
II. Đọc hiểu
1. Làng Vũ Đại là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối nát, cái ác ngự trị.
– Là nơi “quần ngư tranh thực” với các phe nghịch, đu lại với nhau để bóc lột con em.
ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông đội Tảo,
cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng… Đội Tảo ngang ngược, là cựu binh “cũng có thể
đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh”. Cịn Bá Kiến vơ cùng
xảo quyệt, biết “mềm nắn rắn buông”, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại
dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế địi cho được 5 đồng nhưng rồi thì lại vứt
trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Cụ khơng cần than thở: trị khơng lợi thì cụ
dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm
chém… gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.
– Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh chức lần về.
Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo – cùng với Bá Kiến là 2 con quỷ dữ làng Vũ
Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!
– Một thị Nở “dòng giống của một nhà có mả hủi…”, một bà cơ thị suốt đời cô đơn, một
Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn
đi… Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?

Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những
cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và
đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.
2. Nhân vật Chí Phèo:
– Đau khổ từ khi còn nằm trong bụng mẹ: hoang thai. Đẻ ra thì bị mẹ hắn vứt ra lị gạch
cũ. Một vật cho khơng. Một món hàng từ tay người đàn bà gố mù qua tay ơng phó cối.
Bơ vơ, làm thuê, bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng, bị bỏ tù oan uông 7, 8 năm trời.
CÙNG HỌC VĂN VĂN HỌC TỰ TIN CHINH PHỤC KÌ THI THPT QUỐC GIA


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×