Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Định hướng XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.59 KB, 18 trang )


Lêi nãi ®Çu

Khi Liên Xô và các nước XHCH Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống
cộng đã hí hửng cho rằng: “CHXH là sai lầm của lịch sử, CNTB là
chế độ xã hội vĩnh hằng ”. Ở nước ta hồi đó đã không ít người có phù
hoạ với những luận điểm trên đây của các thế lực thù địch .Họ kêu gọi
Đảng ta từ bỏ con đường XHCN cho rằng điều đó là trái qui luật phát
triển của xã hội loài người, là ảo tưởng và khẳng định đất nước phải
phát triển theo con đường TBCN .Họ mỉa mai:'' CNTB đâu có chết mà
chỉ thấy CHXH chết mà thôi''
Mỗi lần chuẩn bị Đại hội, thu thập ý kiến đóng góp vào dự thảo
nghị quyết hay trước những khó khăn nào đó của công cuộc xây dựng
đất nước thì những điều phản bác và khẳng định trên lại xuất hiện .Và
có kẻ cho rằng: “Xây dựng XHCN gì mà là lại thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần, cơ chế thị trường, chính sách mở cửa và phải dựa
vào CNTB …’’ Và họ khẳng định “không có con đường phát triển
nào khác ngoài con đường CNTB …” Những điều phản bác và khẳng
định trên đây của họ liệu có đúng không ? Tất nhiên là không!
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân
tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.Đó là đường lối tiến
hành nhất quán suốt hơn 74 năm qua của đảng ta Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của 17 năm thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh , Đảng ta khẳng định : Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế
đọ TBCN, tức là bỏ qua viẹc xác lập vị trí thống trị của QHSX và
KTTT TBCN, nhưng tiếp thu ,kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ ,
để phát triền nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại .
1


I. Lí luận chủ nghĩa Mác- Lê- nin về quá độ đi lên CNXH
1.Thời kì quá độ
Theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lê nin thì từ một phương thức
sản xuất thấp chuyển lên một phương thức sản xuất cao hơn rất khoát
đòi hỏi phải có một bước quá độ trung gian .Mà trong bước quá độ đó
thì nền kinh tế vẫn còn tồn tại những đấu ấn của phương thức sản xuất
cũ đang bộc lộ những hạn chế của nó, nhưng nó chưa bị tiêu diệt hoàn
toàn. Đồng thời trong bước quá độ đó thì những mầm mống, những
biểu hiện tiến bộ của phương thức sản xuất mới đã bắt đầu xuất hiện.
Nhưng vì mới ra đời nên còn non yếu .Vì vậy lí luận của chủ nghĩa
Mác-Lê nin khẳng định Thời kì quá độ là cả một thời kì cải biến cách
mạng không ngừng và triệt để .Từ một phương thức sản xuất này sang
một phương thức sản xuất khác.Trong thời kì quá độ đan xen những
yếu tố kinh tế của cả phương thức sản xuất cũ và mới.Vì vậy nó diễn
ra một cuộc đấu tranh rất quuyết liệt trên cả phương diện kinh tế
,chính trị,xã hội.
Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc và
toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới –Xã hội XHCN.
Về kinh tế: Đây là thời kì liên quan đến nhiều mặt, nhiều bộ phận
của CNTB xen kẽ XHCN,tác động lẫn nhau ,lồng vào nhau .Có nghĩa
là đây là thời kì tồn tại nhiều hình thức sở hữu về TLSXtương ứng với
nó là tồn tại nhiều thành phần kinh tế ,cả kinh tế XHCN ,kinh tế
TBCN ,kinh tế hàng hoá nhỏ cùng tồn tại ,phát triển vừa hợp tác
thống nhất vừa đối lập, cạnh tranh gay gắt với nhau
Thời kì quá độ bắt đầu khi giai cấp vô sản giành được chính quyền
và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất, kinh tế của
CNXH.Thời kì quá độ lại được chia thành nhiều bước nhỏ, bao nhiêu
bước tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước. Song các nước càng lạc
hậu mà tiến lên CNXH thời kì quá độ càng dài, càng chia ra nhiều
bước nhỏ .

Phương thức sản xuất TBCN và hai giai đoạn của nó.

Đặc điểm của sản xuất TBCN là dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm
thuê là sự tách rời đối lập giữa tư liệu sản xuất với sức lao động .Vì
vậy, CNTB chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Có một lớp người được
tự do về thân thể nhưng lại không có TLSX; và tiền của phải tập trung
vào tay một số ít người với một lượng đủ để lập các xí nghiệp
2
CNTB phát triển qua hai giai đoạn cơ bản là CNTB tự do cạnh
tranh và CNTB độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Cạnh tranh TBCN
là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hang hoá để
thu được lợi nhuận tối đa. Dưới CNTB có hai hình thức cạnh tranh
chủ yếu là cạnh tranh trong nôi bộ ngành và cạnh tranh giữa các
ngành.Cạnh tranh trong nội bộ ngành là giữa các xí nghiệp cùng sản
xuất ra một loại hàng hoá nhằm sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá
có lợi nhất để thu lợi nhuận siêu ngạch.Họ tìm mọi cach giảm giá trị
cá biệt của hàng hoá để giành ưu thế cạnh tranh .Cạnh tranh giữa các
ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác
nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi
Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai đoạn tự do cạnh
tranh của cùng một phương thức sản xuất TBCN. CNTB độc quyền
xuất hiện vào cuốI thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nguyên nhân chủ yếu
của sự xuất hiện CNTB độc quyền là sự tác động của cạnh tranh, sự
xuất hiện thành tựu khoa học kĩ thuật và khủng hoảng kinh tế của
CNTB.
Các hình thức tổ chức độc quyền phổ biến: Các ten; Xanh đi ca;
Tờ rớt; Công xoóc xi om; Công gơ rô mê rát.
Trong thời kì CNTB tự do cạnh tranh, các biện pháp cạnh tranh
thường là: Tự do di chuyển tư bản ,cải tiến kĩ thuật,hạ thấp giá trị cá

biệt của hang hoá .Còn ở thời kì CNTB độc quyền các biện pháp
thường dùng là : Độc chiếm các nguồn nhiên liệu ,phương tiện vận
tải,nhân công,tín dụng và đôi khi là các biện pháp bạo lực khác.
CNTB có vai trò lịch sử trong sự phát triển của xã hội đó là:Thực
hiện xã hội hoá sản xuất,có sự phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc ,quá trình hiệp tác hoá ngày càng cao,mối liên hệ xã hội những
người sản xuất ngày càng được củng cố chặt chẽ;Tiếp đó là sự phát
triển LLSX,tăng năng xuất lao động xã hội .Các cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật vĩ đại tạo ra các bước nhảy vọt của LLSX và năng xuất
lao động. Các Mác đã tổng kết: Trong vòng chưa đầy một thế kỷ
thống trị của mình, CNTB đã tạo ra một sức sản xuất khổng lồ, bằng
tất cả các thế hệ loài ngườI trước đó tạo ra; Chuyển sản xuất nhỏ
thành sản xuất lớn hiện đại, làm cho LLSX phát triển nhanh chóng:
Kỹ thuật cơ khí thay thế kỹ thuật thủ công lạc hậu. Bên cạnh những
mặt tích cực nói trên CNTB cũng gây ra những hậu quả nặng nề cho
nhân loại là thủ pham gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc,
chạy đua vũ trang và nạn ô nhiêm môi trường .
3
Quá trình phát triển của CNTB đạt đến giai đoạn CNTB độc
quyền và CNTB độc quyền nhà nước , như Lê nin nói :Nó đã chuẩn bi
tiền đề vật chất đầy đủ và tiền đề xã hội chín muồi cho sự ra đời của
xã hồi mới-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là xã hội
XHCN .Trong mấy chục năm qua sự phát triển vũ bão của cách mạng
KH-KT và công nghệ đã và đang kéo theo sự biến đổi có tính chất
cách mạng của cơ cấu kinh tế và quản lí kinh tế. Đang hình thành một
LLSX xã hội hoàn toàn mới cơ sở kĩ thuật mới đang thay thế dần cơ
sở kĩ thuật cũ.Do vậy ,CNTB sớm hay muộn cũng bi thay thế bằng
chế độ xã hội mới cao hơn phù hợp với cơ sở kĩ thuật mới- xã hội
CSCN mà giai đoạn thấp là CNXH. Tất nhiên sẽ là ấu trĩ nếu cho rằng
chủ nghĩa tư bản sẽ bị tiêu diệt một sớm một chiều.

2.Các hình thức đi lên CNXH.
Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê- nin chỉ rõ thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia không nhất thiết giống nhau. Vì vậy
có hai con đường đi đến mục tiêu CNXH đó là: Quá độ phát triển tuần
tự (quá độ trực tiếp) và quá độ phát triển nhảy vọt (quá độ gián tiếp)
Đi lên CNXH theo con đường phát triển tuần tự có nghĩa là các
quốc gia lần lượt phải trải qua từng phương thức sản xuất từ thấp tới
cao con đương này diễn ra lâu dài nhưng chắc chắn. Còn con đương
quá độ phát triển nhảy vọt có nghĩa là các quốc gia tuỳ thuộc vào điều
kiện cụ thể của mình mà có thể bỏ qua một thậm chí một vài phương
thức trung gian .
Khi tiến hành phân tích hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ
nghĩa,C.Mac khẳng định,sự phát triển của những hình thái kinh tế xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên,xong không phải quốc gia dân tộc
nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái-xã hội đã có trong
lịch sử.Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định,một
quốc gia ,dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế-xã hội
nhất định nào đó ,có thể được rút ngắn và được làm dịu bớt những
''cơn đau đẻ''.Trong tác phẩm Vấn đề xã hội ở nước Nga ,Ph. Ăng –
ghen đã khẳng định ,nước Nga có thể ''rút ngắn một khoảng cách đáng
kể quá trình phát triển lên xã hộI XHCN và có thể tránh được phần
lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà Tây Âu …phải trải
qua''.Hơn nữa,Người còn cho rằng,''con đường phát triển rút ngắn như
vậy …không chỉ đúng với nước Nga,mà còn với tất cả các nước đang
ở trong giai đoạn phát triển tiền TBCN''
Khi đặt vấn đề các đân tộc lạc hậu hiện đang trên con đường giải
phóng và sau chiến tranh đã có bước tiến bộ,liệu có nhất thiết phải trải
qua giai đoạn phát triển TBCN không ?V.I.Lê nin đã khẳng
4
định:''Chúng tôi cho rằng không đúng …Với sự giúp đỡ của giai cấp

vô sản ở các nước tiên tiến,các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-
viết,và qua những giai đoạn phát triển nhát định,tiến tới CNCS,không
phải qua giai đoạn phát triển TBCN''
Theo Lê-nin: Con đường quá độ lên CNXH có thể có những hình
thức khác nhau điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của
LLSX.Hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ
CNTB lên CNXH;còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát
triển rút ngắn,phát triển bỏ qua chế độ TBCN-con đường từ tiền
TBCN lên CNXH.Tuy nhiên,phát triển tuần tự hay rút ngắn đều tuân
theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử- tự
nhiên Và trong sự phát triển tuần tự cũng có thể có khả năng rút ngắn
nào đó,nghĩa là con đường phát triển này không nhất thiết phải trải
qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi mới lên
CNXH.Và nước Nga với Chính sách Kinh tế mới chính là một trường
hợp như vậy.Lê-nin còn nói tới con đường quá độ trực tiếp hay gián
tiếp với tư cách là những phương thức,cách thức phát triển khác nhau.
Ông cho rằng, phát triển tuần tự từ CNTB lên CNXH là con đường
quá độ trực tiếp.Và cho đến nay ,như chúng ta đã biết,con đường này
vẫn chỉ là một khả năng,một xu hướng phát triển mà cả C.Mác ,PH.
Ăng-ghen và V.I.Lê nin đều đã dự báo.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại được qui định bởi sự phát triển
của lực lượng sản xuất.Tương ứng với mỗi loại giai đoạn phát triển
nhất định của LLSX là một QHSX tương ứng ,phù hợp.Sự ra đời của
QHSX mới trên cơ sở phát triển của LLSX là tất yếu,khách quan và
toàn bộ các nội dung của QHSX này hợp thành cơ sở kinh tế của xã
hội mà trên đó,dựng nên một thượng tầng kiến trúc pháp lí và chính trị
với những hình thái ý thức xã hội tương ứng.Sự vận động đi lên của
xã hội loài người được qui định bởi các qui luật khách quan,trong đó
qui luật nền tảng là qui luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình

độ,tính chất phát triển của LLSX.Trên phạm vi toàn thế giới,sư thay
thế lẫn nhau của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự
nhiên.Dù là phát triển tuần tự hay nhảy vọt thì cũng đều là sự phát
triển liên tục của LLSX ,mọi sự rút ngắn đều phải nhằm mục đích
cuối cùng là tạo ra sự vượt bậc ,thậm trí nhảy vọt của LLSX.Do
vậy,thực chất phát triển rút ngắn chí có thể là rút ngắn các giai đoạn
hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của LLSX.
Tính tất yếu quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
5
Theo Lê-nin để thực hiện con đường quá độ nhảy vọt thì các quốc
gia phải thiết lập được những điều kiện cả bên trong và bên ngoài
Đối với điều kiện bên trong thì bắt buộc phải có một Đảng của
giai cấp vô sản lãnh đạo và Đảng đó phải liên minh được với những
người lao động (nông dân)
Còn đối với những điều kiện bên ngoài Lê-nin chỉ rõ phải có
một nước làm cách mạng XHCN thành công giúp đỡ .Từ những điểm
nói trên và thực tiễn sinh động của 17 năm tiến hành đổi mới đất
nước,chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng,con đường phát triển
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam hiện nay là sự
vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.Với Việt Nam,con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu,khách quan và hợp
qui luật.Nước ta đi lên CNXH mặc dù từ một xuất phát điểm rất thấp:
Đó là một nền kinh tế lạc hậu nông nghiệp,kĩ thuật thủ công,năng xuất
thấp, đất nước lại liên tục trải qua những cuộc chiến tranh vệ
quốc.Tuy vậy,trong thời quá độ đi lên CNXH ở nước ta,chúng ta đã
tạo lập được những khả năng hết sức to lớn cả về mặt khách quan và
chủ quan.
Khả năng về mặt khách quan mà chúng ta cần phải kể đến yếu tố
thời đại mà cả nhân loại đều hướng đến mục tiêu xây dựng một mô

hình nhà nước CNXH tiến bộ, yếu tố thời đại đóng vai trò tích cực để
hướng dẫn các cuộc phát triển nền kinh tế theo mô hình CNXH.Nước
ta sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, Miền bắc nước ta
bước vào thời kì quá độ (1955),trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đã
hình thành ra hệ thống kinh tế XHCN,tạo hậu thuẫn cả về tiềm lực
kinh tế lẫn sức mạnh chính trị giúp nhân dân ta xây dựng thành công
CNXH.Sau khi đất nước thống nhất (30-4-1975) cả nước ta bước vào
thời kì quá độ tiến lên CNXH.Trong bối cảnh hết sức thuận lợi đó là
tất cả các nước các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới đều
nhiệt tình ủng hộ nhân dân ta.Vì vậy,nó tạo cả thời cơ và những thuận
lợi hết sức to lớn giúp nhân dân ta xây dựng XHCN
Khả năng về mặt chủ quan đó là: Việt Nam là một nước có nguồn
lực dồi dào, nhân dân ta cần cù lao động, thông minh dễ đào tạo. Nhân
dân ta có sự lãnh đạo của đảng và Đảng ta liên minh được với tầng lớp
lao động tạo ra khối đại đoàn kết toàn dân. Nước ta có sư quản lí và
điều tiết của nhà nước XHCN ngày càng được củng cố và hoàn thiện
to lớn.Kết quả của mấy chục năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam tạo ra
cả thế và lực cho phép nước ta đi lên CNXH không cần phải trải qua
chế độ TBCN.
6
Con đường cách mạng XHCN mà Đảng ta đã lựa chọn phù
hợp với những gì đã có trong lịch sử, phù hợp với thực tiễn của cách
mạng nước ta và không hề trái với qui luật phát triển của xã hội loài
người. Nhìn vào lịch sử phát triển của xã hội loài người, chúng ta thấy
không phải mọi nước đều phải tuần tự trải qua các chế độ cộng sản
nguyên thuỷ, nô lệ phong kiến, tư bản. Trong thời đại phong kiến có
nước còn ở trình độ bộ tộc, nhưng do nhiều nguyên nhân đã phát triển
thành phong kiến. Trong thời đại TBCN có nước ở trình độ thấp cũng
đã đi vào quĩ đạo phát triển TBCN.Cho nên, trong thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới,chúng ta hoàn toàn có

thể đưa đất nước tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đưa đất nước
tiến lên CNXH là con đường phù hợp với thực tiễn cách mạng nước
ta. Lòng yêu nước của nhân dân là lòng yêu nước XHCN, mặt trận
dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân đều dựa trên liên
minh công nông; quân đội nhân dân mang bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc …
Lẽ nào lịch sử lại chấp nhận một sự ngược đời là sau khi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thành công lại xoá bỏ chính quyền
dân chủ nhân dân, thiết lập chính quyền giai cấp tư sản, chuyển toàn
bộ TLSX và tài nguyên của đất nước vào tay các ông chủ tư bản, biến
chế độ ta thành chế độ TBCN và nhân dân ta thành kẻ nô lệ làm thuê.
Trước sau như một, Đảng ta, nhân dân ta quyết tâm phấn đấu tiến lên
phía trước, xây dựng một chế độ xã hội thực sự có ấm no, tự do, hạnh
phúc và hoà bình, nhất quyết không đi vào CNTB, một chế độ xã hội
mà lịch sử đã lên án.
Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự
nhiên, phụ thuộc vào qui luật khách quan độc lập với ý muốn của con
người. Nhưng con người lại hoàn toàn không bất lực trước qui luật.
Con ngườI có thể nhận thức được qui luật khách quan và tạo ra những
điều kiện để qui luật phát huy tác dụng có lợi cho mình. Đó là tính
năng động chủ quan của ý thức xã hội của con người
Thời đại ngày nay cho phép các nước kém phát triển đã hoàn
thành các mạng dân tộc dân chủ nhân dân có thể quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ TBCN, nhưng không cho phép bỏ qua việc xây dựng
những tiền đề kinh tế, kĩ thuật, văn hoá, xã hội cần thiết cho sự quá độ
đó.Chúng ta không tạo ra những tiền đề đó bằng con đường phát triển
TBCN thì phải tạo ra trong thời kì quá độ lên CNXH.Chúng ta hoàn
toàn có khả năng làm việc đó vì chúng ta có những yếu tố cơ bản bên
trong của cách mạng Việt Nam và những yếu tố bên ngoài của thời
đại

7

×