Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.31 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ MINH HÒA

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
•••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ MINH HÒA

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ
ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
••

Ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY



TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu thống kê và bản án sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ
thẩm.
TÁC GIẢ

TRẦN THỊ MINH HÒA


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT
1

Chữ được viết tắt
Bộ luật Tố tụng dân sự

Chữ viết tắt
BLTTDS

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
2

án dân sự


3

Tòa án nhân dân tối cao

4

Tòa án nhân dân

PLTTGQCVADS
TANDTC
TAND


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của Đề tài.......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài.................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài ............................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.................................................................. 6
6. Kết cấu của đề tài ...................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG

TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM ........ 7
1.1. Khái quát về tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
7
1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự...........................................7

1.1.2. Tranh tụng theo nghĩa rộng .........................................................................10
1.1.3. Tranh tụng theo nghĩa hẹp............................................................................11
1.1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự................11
1.1.5. Ý nghĩa của bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm..............................................................................................................14

1.2. Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong tố
tụng dân sự ......................................................................................................


15
1.2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham gia tố
tụng

15

1.2.1.1. Quyền tranh tụng khi thực hiện thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự và
đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập .........................................................16
1.2.1.2. Quyền tranh tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết
tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình ............................................................18
1.2.1.3. Quyền tranh tụng khi tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
cơng khai chứng cứ và hịa giải...............................................................................21
1.2.1.4. Quyền tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm........................................22

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................. 27
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA
ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................. 28
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ

án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. .................................................................. 28
2.2. Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện bảo đảm quyền tranh
tụng trong xét xử các vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện...........................30
2.2.1. Bất cập trong quy định về giao nộp và công khai chứng cứ .........................30
2.2.1.1. Về lý do không giao nộp tài liệu chứng cứ ................................................30
2.2.1.2. Về sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác...................................................................................34
2.2.1.3. Về thời điểm giao nộp chứng cứ .............................................................38
2.2.2. Bất cập về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ ...42
2.2.3. Bất cập trong quy định về phiên họp công khai chứng cứ...........................43
2.2.4. Bất cập trong việc công bố lời khai của đương sự, người tham gia tố tụng
khác trong phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.............................48


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................. 54
KẾT LUẬN ................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


2

- Những yếu tố giúp cho việc bảo đảm quyền tranh tụng đạt hiệu quả trong
xét xử vụ án dân sự và những thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân của việc tồn tại
những bất cập trong quyền tranh tụng. Từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp
nâng cao chất lượng tranh tụng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong luận văn tác
giả sử dụng các phương pháp chính như phương pháp phân tích, đánh giá các quy
định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự, qua
đó sử dụng phương thống kê, so sánh và tổng hợp để phân tích thực trạng áp dụng tố
tụng dân sự đối với một số tranh chấp dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và chỉ rõ những
vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật làm hạn chế việc bảo đảm quyền
tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 02
chương như sau:
- Chương 1: Pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự
tại tòa án cấp sơ thẩm.
- Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong
xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị hoàn thiện


CHƯƠNG 1
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG
XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
1.1. Khái quát về tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm
1.1.1.

Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự

•o
o



Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội

loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Ở thời đấy,
nguyên cáo, bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước Tịa án. Sau đó
nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Cùng với thời gian,
tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định và đến nay
nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống
luật án lệ.
Ở Việt Nam hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh tụng trong
xét xử.
Quan điểm thứ nhất, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ được hiểu là việc tranh
luận tại phiên tòa và chỉ thể hiện trong những vụ án có luật sư tham gia hoặc trong
những vụ án mà đương sự có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, hoặc bên bị kiện
cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự việc liên quan đến khiếu kiện tham gia phiên
tòa. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu theo nghĩa này thì phạm vi tranh tụng còn rất hạn hẹp và
chỉ dừng lại ở hoạt động tranh luận sau khi kết thúc phần xét hỏi tại phiên tòa. 1
Quan điểm thứ hai cho rằng “Tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự bao gồm
các hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh luận tại phiên tịa và tranh
tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án dân sự” 2 Nếu tranh tụng được hiểu theo
quan điểm này thì chưa đủ bởi lẽ quan điểm này chỉ mới nêu lên được các giai đoạn
của quá trình tranh tụng mà chưa nêu được nội dung, bản chất, ý nghĩa của việc tranh
1 Nguyễn Mạnh Bách (1996), “Luật Tố tụng dân sự Việt Nam giải lược”, NXB Đồng Nai, tr
63.
2Ngô Cường (Biên soạn, 2017), “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, NXB Thanh Niên, Hà
Nội.


tụng.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi

kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cho đến khi Tịa án ra
quyết định giải quyết vụ án dân sự. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều
khiển của Tòa án được đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để
chứng minh cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tịa án theo những trình tự, thủ
tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tòa án ra phán quyết vụ án dân sự căn cứ
vào kết quả tranh tụng của các chủ thể tranh tụng” 3.
Như vậy thì dù hiểu theo quan điểm nào thì tranh tụng chính là q trình giải
quyết vụ kiện dân sự theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các
chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tất cả các
hoạt động như cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và phản yêu cầu, đối chất giữa
các bên trong giai đoạn trước khi xét xử cũng như tại phiên tịa đều có thể hiểu là q
trình tranh tụng.Tịa án sẽ điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và
căn cứ vào những kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
So với quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai thì quan điểm này tương đối
đầy đủ nội dung, phản ánh được bản chất của tranh tụng và khái quát được giới hạn
của quá trình tranh tụng diễn ra từ giai đoạn nào đến giai đoạn nào. Tuy nhiên quan
điểm này chỉ mới nêu lên một số quyền cơ bản của đương sự mà chưa đưa ra nghĩa
vụ của đương sự trong quá trình thực hiện tranh tụng vì việc bổ sung nghĩa vụ cung
cấp tài liệu chứng cứ để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Đây là một
nghĩa vụ hoàn toàn mới được bổ sung trong BLTTDS năm 2015.
Tại khoản 2 Điều 24 của BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng
cứ kể từ khi Tịa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài
liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về
đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp
3 Phạm Thị Ánh Ngọc (2016), Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.


của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này”.

Lần đầu tiên BLTTDS năm 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ gửi cho
đương sự khác bản sao tài liệu, chứng cứ tại khoản 9 Điều 70, khoản 5 Điều 96
BLTTDS năm 2015 là nhằm đảm bảo việc tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Nếu chỉ hiểu tranh
tụng bao gồm các quyền cơ bản như tại quan điểm thứ ba thì bỏ sót nghĩa vụ thơng
báo cho nhau các tài liệu chứng cứ đã giao nộp để đương sự khác thực hiện quyền
tranh tụng của mình.
Ở đây cũng cần phân biệt tranh tụng và tranh luận.Tranh luận và tranh tụng là
hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng.Tranh tụng
bảo đảm để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của mình.
Bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự là sự thể hiện chính kiến của từng bên
đương sự về việc giải quyết vụ án dân sự dựa trên những chứng cứ thu thập được
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Như vậy tranh tụng là một nguyên tắc của tố
tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng. Cịn tranh luận tại phiên tịa chỉ là hình
thức tố tụng (một giai đoạn tố tụng của phiên tịa) mà trong đó Tịa án thay mặt nhà
nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý
kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật 4. Như vậy, tranh luận được
hiểu là: “bàn cãi tìm ra lẽ phải” là một phần tố tụng của phiên tòa, được tiến hành sau
khi kết thúc phần xét hỏi.
Từ những phân tích trên thì khái niệm tranh tụng trong Tố tụng dân sự cần
được hiểu thống nhất như sau: Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách quan
của vụ án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi kiện yêu
cầu Tịa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cho đến khi Tịa án ra quyết
định giải quyết vụ án dân sự. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển
của Tòa án được quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tịa án thụ lý
vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp;
4Trần Văn Độ, Bản chất tranh tụng tại phiên tòa, www.hcmlaw.edu.vn/hcmlaw/index.
php?=com



trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật
áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu
của người khác theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Tòa án chỉ hỏi thêm những vấn đề chưa rõ và ra phán quyết vụ án dân sự căn cứ vào
kết quả tranh tụng của các chủ thể tranh tụng.
Tương ứng với các loại tố tụng có tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng
trong tố tụng hành chính và tranh tụng trong tố tụng dân sự.Tương ứng với các loại
phiên tịa có tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm và tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm.
Như vậy, tranh tụng trong tố tụng dân sự là một loại tranh tụng trong tố tụng, bao
hàm cả hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh luận tại phiên tịa và tranh
tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án dân sự. Vì tố tụng dân sự là quá trình giải
quyết vụ án dân sự cho nên tranh tụng trong tố tụng dân sự là tranh tụng trong q
trình giải quyết vụ án dân sự có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Theo đó, có
thể hiểu giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự theo nghĩa rộng và theo
nghĩa hẹp.
1.1.2.

Tranh tụng theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự bắt đầu từ

khi có tranh chấp dân sự và đương sự thể hiện nhu cầu giải quyết tranh chấp đó, kết
thúc khi giải quyết xong tranh chấp dân sự bao gồm cả giai đoạn thi hành án dân sự.
Nếu có tranh chấp dân sự nhưng đương sự không muốn giải quyết tranh chấp thì
khơng xuất hiện nhu cầu tranh tụng để giải quyết tranh chấp. Việc đương sự là người
thắng kiện trong vụ việc dân sự từ chối (không làm đơn) yêu cầu thi hành án dân sự
trong thời hạn do pháp luật quy định có thể được hiểu là nội dung quyền tự định đoạt
của đương sự và thể hiện quan điểm tranh tụng của đương sự. Bởi lẽ, trong thực tiễn
có vụ tranh chấp dân sự, đương sự chỉ cần Tòa án ra phán quyết là mình thắng kiện
mà khơng cần buộc bên thua kiện thi hành quyết định của Tòa án. Mặt khác, hiểu

giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự theo nghĩa rộng có ý nghĩa rất lớn
đối với việc Tòa án ghi nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành những tranh chấp
dân sự trong nhân dân do Ban tư pháp và các đồn thể chính trị cấp xã thực hiện.


Việc giải quyết tranh chấp dân sự theo cơ chế pháp lý này sẽ hạn chế được rất nhiều
vụ kiện dân sự mà Tòa án phải giải quyết, xét xử và đương nhiên sẽ giảm chi phí xã
hội rất lớn cho việc giải quyết tranh chấp dân sự.
1.1.3.

Tranh tụng theo nghĩa hẹp
Giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý

đơn khởi kiện vụ án dân sự và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án giải quyết vụ
việc đó. Giải quyết vụ án dân sự là việc Tịa án giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân
sự) theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định với nguyên tắc xét xử hai cấp. Cho
nên, mặc dù tranh tụng trong tố tụng dân sự được bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý đơn
khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ án dân sự nhưng tập trung nhất là ở các giai đoạn: chuẩn bị xét xử; xét xử
sơ thẩm; xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Bởi lẽ, giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm
chỉ là những thủ tục đặc biệt, Tịa án xét xử thơng qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án, hầu như khơng có sự hiện diện của các bên đương sự. Nếu quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm hủy một phần hoặc tồn bộ bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử sơ thẩm lại thì lại bắt đầu một quá trình tranh tụng mới.
1.1.4.

Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự
Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và


lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ khi khởi kiện thụ lý vụ
án cho đến khi giải quyết xong vụ án trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Nội dung của tranh tụng được thể hiện như sau:
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quy định
rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Chủ thể tranh tụng trong tố tụng dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Căn cứ vào lợi ích, có thể chia các đương sự thành
hai bên là bên khởi kiện và bên bị kiện. Bên khởi kiện là nguyên đơn dân sự còn bên


bị kiện là bị đơn dân sự. Tùy từng vụ án dân sự cụ thể mà người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan được coi là đương sự thuộc bên khởi kiện hoặc bên bị kiện. Bên khởi
kiện và bên bị kiện bình đẳng trước Tịa án trong việc đưa ra chứng cứ và thể hiện sự
đánh giá của mình về các chứng cứ trong vụ án cũng như quan điểm giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ
và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Điều 249 BLTTDS năm 2015 quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ là
người điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Viện kiểm sát thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp, không phải là chủ thể tranh tụng trong tố tụng dân
sự mà chỉ là chủ thể thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền
thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày,
đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để
bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người
khác theo quy định của Bộ luật này. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của mình
theo quy định của BLTTDS, nếu khơng thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải chịu hậu
quả pháp lý theo quy định của pháp luật.

BLTTDS quy định về nghĩa vụ chứng minh của các đương sự, theo hướng
đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ cho Tịa án và chứng
minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp trừ trường hợp luật có quy định
khác về nghĩa vụ chứng minh. Tịa án chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ
trong những trường hợp do BLTTDS quy định. Đương sự phản đối yêu cầu của
người khác đối với mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án các tài liệu,
chứng cứ để chứng minh. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo
đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung, nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp khơng đầy đủ chứng cứ thì Tòa án
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ hiện có để giải quyết vụ việc dân sự.
- Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích


hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của BLTTDS.
Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy
định của BLTTDS thì Tịa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ. Tòa án tiếp nhận
chứng cứ của vụ án do các bên đương sự cung cấp và hỗ trợ đương sự thu thập chứng
cứ để giải quyết đúng đắn vụ án dân sự, điều khiển phiên tòa. Trên cơ sở việc xem
xét, đánh giá chứng cứ, Tòa án thể hiện quyết định về từng vấn đề phải giải quyết
trong phần Quyết định của bản án và công bố cơng khai tại phiên tịa.
- Trong q trình tố tụng, các chứng cứ của vụ án phải được công khai, trừ
trường hợp không được công khai định theo quy định tại Khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng
cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ khơng
được cơng khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tịa án
(trừ tài liệu, chứng cứ khơng được công khai).
Để bảo đảm mọi chứng cứ đều được cơng khai Tịa án phải tiến hành phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cùng với việc hịa giải. Đối
với những vụ án khơng được hịa giải hoặc hịa giải khơng được vẫn phải tiến hành

phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trước khi đưa vụ án
ra xét xử.
-

Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy

đủ, khách quan, tồn diện, cơng khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy
định tại Khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Tòa án điều hành việc tranh tụng, Hội đồng
xét xử chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án,
quyết định.
1.1.5.

Ý nghĩa của bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại

Tòa án cấp sơ thẩm
- Bảo đảm quyền tranh tụng là bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực tố tụng dân sự:
Để các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý kiến, quan điểm,


tranh luận về vụ án, khơng những Tịa án phải thực hiện đúng quy định của pháp luật
tố tụng, tạo điều kiện cho các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến, xuất trình tài liệu, chứng cứ, ..., mà
bản thân những người này cũng phải biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là trong giai đoạn tranh luận.
Xuất phát từ lý luận trên cho thấy tranh tụng trong tố tụng dân sự chính là thể
hiện bản chất dân chủ và nhân đạo nhằm bảo vệ các quyền con người. Thơng qua q
trình tranh tụng giúp Tòa án hiểu rõ yêu cầu của các đương sự, có được các chứng
cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách quan của vụ kiện trên cơ sở đó
Tịa án giải quyết các yêu cầu của đương sự, xác lập lại cho đúng các quan hệ pháp

luật dân sự mà các bên tham gia hoặc những quan hệ mà pháp luật điều chỉnh về
quyền và nghĩa vụ của các bên khi có sự kiện pháp lý xảy ra, xác định đúng các
quyền, nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở của tranh tụng
trong tố tụng dân sự, các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng dân sự
đồng thời bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng quyền bình đẳng tức là tạo ra
khả năng để các chủ thể nói chung và các đương sự nói riêng bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tịa án.
- Bảo đảm tranh tụng tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ trước Tịa án.
Chỉ trong q trình tố tụng có sự tranh tụng, người tham gia tố tụng mới có
các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến vụ
án.Trên cơ sở đánh giá chứng cứ và các ý kiến tranh luận của các bên tham gia tố
tụng, Hội đồng xét xử mới có điều kiện cân nhắc, xem xét để ra quyết định đúng đắn,
khách quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng.
Ngồi ra, tranh tụng có vai trị giáo dục quan trọng. Nhiệm vụ của hoạt động
tố tụng không chỉ là giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ lợi ích xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà cịn giáo dục cơng dân tn thủ luật
pháp, ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Tranh tụng tại phiên tịa địi hỏi sự có mặt của


những người tham gia tố tụng. Việc tranh luận trực tiếp, cơng khai tại phiên tịa
khơng hạn chế về thời gian, nơi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng phân tích các quy định pháp luật cần được áp dụng, giúp cho những người tham
gia tố tụng và những người tham dự phiên toà nâng cao nhận thức về pháp luật và
tuân thủ pháp luật. Phiên tịa tranh tụng khơng chỉ giáo dục cơng dân nâng cao nhận
thức pháp luật, mà còn giáo dục lòng tin vào pháp luật và hành vi tuân thủ pháp luật
của cơng dân. Bằng phiên tồ dân chủ, cơng khai, những người tham gia tố tụng
được tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền tố tụng của mình, được xét hỏi, tranh luận
cơng khai, quyết định của Tịa án được đưa ra trên cơ sở các chứng cứ được xem xét

công khai tại phiên tồ, việc xét xử của Tịa án tạo ra trong những người tham dự
phiên tòa và những người tham gia tố tụng lòng tin vào pháp luật, vào hoạt động giải
quyết vụ án của các cơ quan có thẩm quyền. Lịng tin đó là cơ sở quan trọng để cơng
dân tự giác tn thủ pháp luật, tích cực tham gia vào hoạt động phòng ngừa vi phạm
pháp luật khác.
1.2. Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong
tố tụng dân sự
1.2.1.

Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham

gia tố tụng
Việc giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm chính thức phát sinh kể từ thời
điểm đương sự nộp đơn khởi kiện đến Tòa án và kết thúc khi Tòa án ban hành Bản
án hoặc Quyết định giải quyết vụ án như Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyền tranh tụng trong tố tụng dân
sự có thể hiểu bao gồm các nội dung cơ bản

là: Cung cấp chứng cứ và yêu cầu

Tòa án thu thập chứng cứ mà mình khơng thể

tự mình thu thập được; đánh giá

chứng cứ và thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự tại phiên hòa giải do
Tòa án thực hiện trước khi mở phiên tòa xét xử; thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa;
phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ; phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng; đề
nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích liên quan. Như vậy,
quyền tranh tụng được thể hiện xuyên suốt trong q trình Tịa án giải quyết vụ án.



Nhưng ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau thì quyền tố tụng thể hiện ở mỗi hoạt động
tố tụng khác nhau và có thể chia làm hai giai đoạn là giai đoạn trước khi mở phiên
tòa và giai đoạn xét xử.
1.2.1.1. Quyền tranh tụng khi thực hiện thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân

• Cĩ



• ' • *■’ •
sự và đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 và BLTTDS năm 2015 thì
nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” được thực hiện ngay từ khi đương sự
thực hiện thủ tục khởi kiện và Tòa án thụ lý vụ án dân sự.
Trong một vụ án dân sự, nếu ngun đơn có quyền khởi kiện thì bị đơn có
quyền có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền có yêu
cầu độc lập để giải quyết trong cùng vụ án mà nguyên đơn đã khởi kiện. Xét trong
mối quan hệ với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì yêu cầu phản tố của bị đơn và
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì các yêu cầu này có thể
có sự đối kháng với nhau và cần phải thực hiện thủ tục tranh tụng như nhau.
Theo quy định tại Điều 189 của BLTTDS năm 2015, để đảm bảo việc tranh
tụng và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thì khi khởi kiện, người khởi kiện phải
nêu rõ những vấn đề cụ thể yêu cầu Tịa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải xuất trình các
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cùng với việc gửi đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho Tòa án thì
nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đó cho bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sau đó Tịa án thực hiện thủ tục thơng
báo cho cả ngun đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong đó

nêu rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ nguyên đơn gửi kèm
theo đơn khởi kiện. Quy định này đảm bảo cho các đương sự quyền được biết trước
và chủ động chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để thực hiện quyền tranh tụng.
Khi Tòa án nhận đơn và xét thấy đủ điều kiện thụ lý vụ án dân sự thì Thẩm
phán tiến hành thủ tục cần thiết để thụ lý vụ án. Đối với bị đơn có yêu cầu phản tố


hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì thủ tục yêu cầu
cũng giống như thủ tục khởi kiện. Khoản 3 Điều 196 BLTTDS năm 2015 quy định
“Trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu, chứng
cứ thì kèm theo thơng báo về việc thụ lý vụ án, Tịa án gửi cho bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp”.
Như vậy thủ tục thông báo đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đã có sự đề
cao hơn vai trị hợp tác của đương sự trong việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng.
Kể từ khi thụ lý vụ án thì quá trình tố tụng bắt đầu. Thủ tục thông báo thụ lý
vụ án giúp cho đương sự biết mình đã bị khởi kiện và trở thành bị đơn trong vụ án
dân sự với những yêu cầu cụ thể của phía nguyên đơn, kèm theo nguyên đơn đã có
những tài liệu, chứng cứ nào đó. Thơng báo thụ lý vụ án là một thủ tục liên quan đến
nguyên tắc tranh tụng, giúp cho bị đơn biết được mình đã bị ai khởi kiện, khởi kiện
về những nội dung gì và họ đã có những chứng cứ gì để khởi kiện mình. Đồng thời
thơng báo thụ lý vụ án cịn giúp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết mình
có liên quan như thế nào đến nội dung vụ án. Điều này sẽ giúp cho đương sự chuẩn
bị những chứng cứ, quan điểm, lý lẽ của mình đề đối đáp lại yêu cầu của nguyên
đơn.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Thông báo thụ lý vụ án, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tồ án văn bản ghi ý kiến của
mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập. Trường hợp cần gia hạn, thì phải có đơn xin gia hạn gửi cho
Toà án nêu rõ lý do để Tồ án xem xét. Việc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là một trong những quy định nhằm

nâng cao vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự. Đây cũng là quy định thể hiện rõ quyền và nghĩa
vụ tranh tụng của các đương sự trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1.2.1.2.

Quyền tranh tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ;

được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình
Điều 6 của BLTTDS năm 2015 so với Điều 6 của của BLTTDS năm 2004 đã


có một số chỉnh sửa, bổ sung và ít nhiều tạo nên sự khác biệt. Khoản 1 Điều 6
BLTTDS năm 2004 ghi là “ Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
cho Toà án và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Tuy
nhiên khoản 1 Điều 6 của BLTTDS năm 2015 đã được sửa đổi “Đương sự có quyền
và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa án và chứng minh cho
u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Như vậy, quyền nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ đã trở thành quyền chủ động 5. Căn cứ quy định BLTTDS năm 2015, giao
nộp tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự được quy định sau:
Nghĩa vụ chứng minh được quy định cụ thể tại Điều 91 của BLTTDS.Theo
đó, người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu,
chứng cứ, đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh u cầu của mình là có căn cứ. Khi
bên đưa ra yêu cầu chứng minh được tính có căn cứ và tính hợp pháp cho u cầu
của mình thì bên phản đối yêu cầu cũng phải thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu
chứng cứ, đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ. Điều đó
cho thấy, theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh được đặt ra không chỉ
đối với bên khởi kiện mà đặt ra cả với bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
Điều 96 BLTTDS năm 2015 quy định khá cụ thể và chặt chẽ về quyền và
nghĩa vụ giao nộp chứng cứ của đương sự, thủ tục giao nộp và hậu quả của việc

không thực hiện nghĩa vụ này. Cụ thể: trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân
sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường
hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc
thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự
không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà
khơng có lý do chính đáng thì Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã
giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải
quyết vụ việc dân sự.
Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải
5Trần Thanh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, NXB Tư Pháp,
Tr 16.


quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ
tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm,
quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài
liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự khơng giao nộp được
vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp
tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tịa án không yêu cầu
đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự khơng thể biết được trong
q trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp,
trình bày tại phiên tịa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn
tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã khống chế thời gian cung cấp chứng cứ của
đương sự cho Tịa án bằng việc Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án dân sự
ấn định, nhưng không quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Vậy BLTTDS năm 2015 đã hạn
chế được việc đương sự cố tình khơng cung cấp chứng cứ ngay khi thu thập được mà
đến thời điểm nào đó mới cung cấp gây khó khăn cho quyền tiếp cận chứng cứ của
đương sự khác.

Các quyền yêu cầu trên đây liên quan đến nguyên tắc tranh tụng bởi lẽ nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức hay trách nhiệm thu thập tài liệu
của Tòa án xuất phát từ yêu cầu của đương sự và để chứng minh cho yêu cầu của
đương sự, nó thể hiện quan điểm, lý lẽ của đương sự về một nội dung nào đó trong
vụ án dân sự mà Tịa án đang giải quyết. Ngồi ra, trong tranh tụng thì vai trị của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là hết sức quan trọng. Đương
sự có thể nhờ sự hỗ trợ của Luật sư hoặc người khác để tranh tụng trước Tòa án.
Trong hoạt động tranh tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có
quyền thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và
được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, giúp đương sự về mặt pháp lý
liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Tòa án. Quy định này tạo


điều kiện cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có được các
chứng cứ cần thiết để thực hiện tranh tụng, tìm ra những căn cứ cho việc biện hộ từ
đó giúp đương sự tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Tịa án.
Một quy định hồn tồn mới thể hiện rõ quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự
đó là việc sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác. Đây là nghĩa vụ của đương sự được quy định tại khoản 5
Điều 96 BLTTDS năm 2015. Cụ thể: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho
Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại
diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2
Điều 109 hoặc tài liệu, chứng cứ khơng thể sao gửi được thì phải thơng báo bằng
văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác”. Quy
định như trên giúp tăng cường tranh tụng, bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, công
bằng, tạo thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong
quá trình tham gia tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Thủ tục giao nộp chứng cứ là một thủ tục liên quan đến nguyên tắc tranh tụng
bởi lẽ khơng đương sự nào có ý thức gửi cho Tịa án chứng cứ chống lại quan điểm

của chính mình. Chứng cứ mà đương sự giao nộp là chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Khoản 2 Điều 24 BLTTDS năm 2015 có quy định“đương sự có nghĩa vụ
thơng báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp” và nhằm bảo đảm các đương
sự đều được tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền tranh tụng trong q trình Tịa án
giải quyết vụ án.
1.2.1.3.

Quyền tranh tụng khi tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải
Trên cơ sở kế thừa pháp luật tố tụng dân sự trong các giai đoạn trước,
BLTTDS năm 2015 vẫn giữ thủ tục hịa giải trong quy trình tố tụng dân sự nhưng đã
phát triển thành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và
hịa giải. Phiên họp này được quy định cụ thể tại các Điều 208, 209, 210, 211
BLTTDS 2015 với các quy định về thơng báo, thành phần, trình tự và biên bản phiên


họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải.
Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải nhằm xác định yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay
đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan; những vấn đề đã thống nhất, chưa thống nhất yêu cầu
Tòa án giải quyết; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu
chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài
liệu chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người
tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Đây cũng là quy định nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tịa, tạo sự cơng bằng trong tiếp cận chứng cứ đối với đương sự
để họ có sự chuẩn bị cần thiết cho việc tranh tụng với nhau tại phiên tịa. Về phía Tịa
án, thơng qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm

phán cũng chốt được yêu cầu của đương sự, có hay khơng có u cầu phản tố, yêu
cầu độc lập, đánh giá việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ hay chưa. Thực tiễn áp dụng
cho thấy, quy định này đã góp phần tăng cường tính cơng khai, minh bạch trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, đảm bảo mọi chứng cứ đều được công khai trong quá
trình tố tụng, nâng cao trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân
sự, tạo sự công bằng trong tiếp cận chứng cứ đối với đương sự để họ có sự chuẩn bị
cần thiết cho việc tranh tụng với nhau tại phiên tịa. Qua đó nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa cũng như chất lượng giải quyết các vụ án dân sự, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp 6.
Sau khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ thì Tòa án sẽ tiến
hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Mặc dù
về bản chất, hòa giải là các bên trong vụ án sẽ tự thỏa thuận, điều chỉnh với nhau
nhưng qua hoạt động này, sự tranh tụng của các đương sự cũng tương đối rõ bởi để
thỏa thuận, điều chỉnh, các bên cũng phải dùng đến lý lẽ, quan điểm, bằng chứng,
6Đồn Thị SớmMíột số vướng mắc, bất cập trong quy định về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015,
http://vksndthaibinh.

gov.

vn/Article/2203/Mot-so-vuong-mac-bat-cap-trong-quy-dinh-ve-phien-

hop-kiem-tra-viec-giao-nop-tiep-can-cong-khai-. html, truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015.


chứng cứ để thuyết phục lẫn nhau. Và cũng có thể trong q trình hịa giải đương sự
thay đổi, bổ sung hoặc đưa ra yêu cầu mới cùng với những chứng cứ, lý lẽ, lập luận
chứng minh cho yêu cầu đó.
1.2.1.4.


Quyền tranh tụng tại phiên tịa dân sự sơ thẩm
Có thể nói tranh tụng trong tố tụng dân sự được thể hiện tập trung và rõ nét

nhất tại phiên tòa sơ thẩm.Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét
tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tịa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy
đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật để chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án.
Tranh tụng tại phiên tòa được quy định tại Mục 3 Chương XIV BLTTDS năm
2015 gồm 17 điều (từ Điều 247 đến Điều 263). Cụ thể, Điều 247 quy định tranh tụng
tại phiên tịa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan
điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật
tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án.
Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tịa.
Chủ tọa phiên tịa khơng được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những
người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền u cầu họ dừng trình
bày những ý kiến khơng có liên quan đến vụ án dân sự.
Điểm mới của BLTTDS năm 2015 là thủ tục hỏi và tranh luận được thực hiện
đan xen thành thủ tục tranh tụng (hỏi và tranh luận) chứ không tách biệt thành thủ tục
hỏi và thủ tục tranh luận như BLTTDS năm 2004. Như đã phân tích, tranh luận và
tranh tụng là hai khái niệm khơng đồng nhất trong đó tranh tụng bao gồm cả tranh
luận. Chính việc quy định hỏi và tranh luận đan xen như BLTTDS năm 2015 đã giúp
cho hoạt động tranh tụng được diễn ra liên tục, đầy đủ, tồn diện. Tuy nhiên, về cơ
bản, phiên tịa dân sự sơ thẩm sẽ được tiến hành theo một số nội dung gồm: bắt đầu
phiên tòa, hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Trong đó tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm được thể hiện rõ ở những nội dung
sau.



×