Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.43 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
•••

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
•••

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan luận văn thạc sỹ luật học đề tài: “Đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực giáo dục theo pháp luật Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi.
Các phân tích, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Trang


DANH MỤC CÁC NG I U H NH V ĐỒ THỊ

iểu đồ 1
B iểu đồ 2

iểu đồ 3

iểu đồ 4

iểu đồ 5
B iểu đồ 6

Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế
đã qua đào tạo phân theo trình độ chun mơn kỹ thuật
Tỷ lệ thất nghiệp đã qua đào tạo nghề/chuyên nghiệp
Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân
theo nghề nghiệp
Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế, giai đoạn 2010 đến
2016
Dự báo cơ cấu nhu cầu nhân lực phân theo khu vực kinh tế giai

đoạn 2017 - 2020 đến năm 2025
Top 10 ngành có nhu cầu tuyển dụng cao nhất
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo ngành

iểu đồ 7

iểu đồ 8

iểu đồ 9

(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/4/2018)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo giai đoạn từ 2014 đến 20/04/2018
Đầu tư nước ngoài trong lĩnh giáo dục đào tạo phân theo loại hình
cơ sở giáo dục tính đến hết tháng 2/2013


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC
1.2.................................................................................................................
1.3................................................................................................................Kết
luận Chương 3 ..................................................................................... 78
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KH O
PHỤ LỤC


6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục và đào tạo
được coi là lợi thế, là sự kiến lập nền tảng tốt nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Có thể nói, thực chất cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia hiện nay là cạnh
tranh trong giáo dục và đào tạo.
Giáo dục luôn là sự quan tâm đầu tư của mọi người, mọi gia đình và xã hội.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng giáo dục và đã có
nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho mơi
trường giáo dục phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) ngày 04/11/2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
đã xác định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, phải được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, vai trị của giáo dục ngày
càng tăng thì đầu tư vào giáo dục khơng cịn là cơng việc riêng của Nhà nước mà đã
trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Với
sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và toàn dân, giáo dục ngày càng trở thành mảnh
đất màu mỡ, một lĩnh vực đầu tư tiềm năng cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (“WTO”), với lộ trình cam kết mở cửa và hội nhập của mình,
Việt Nam sẽ phải có các chính sách phù hợp về cả luật pháp và kinh tế, xã hội để mở
cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào sân chơi giáo dục, một lĩnh vực đầy
tiềm năng và cũng khơng kém phần đặc biệt.
Tuy nhiên, có thể thấy chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với
giáo dục là rất nhiều nhưng quy định pháp luật để làm căn cứ triển khai và thực thi
lại chưa được quan tâm đúng mức và còn bất cập. Các văn bản pháp luật điều chỉnh
trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục còn



7

khá hạn chế, nhiều thiếu sót và chồng chéo lẫn nhau. Từ khi gia nhập WTO đến nay,
Việt Nam mới chỉ ban hành Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26/09/2012 quy định
về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục (“NĐ 73/2012”); Thông tư
số 34/2014/TT-BGDĐT ngày 15/10/2014 để hướng dẫn thi hành một số điều của NĐ
73/2012 (“TT 34/2014”), bên cạnh một luật chuyên ngành là Luật Giáo dục của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 38/2005/QH11 ngày
14/06/2005 (“Luật Giáo dục 2005”) và một luật chung là Luật Đầu tư số
59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (“Luật Đầu tư 2005”).
Năm 2014 đã đánh dấu một bước cải cách mới đối với môi trường kinh doanh
và doanh nghiệp bởi sự ra đời của Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày
26/11/2014 (“Luật Doanh nghiệp 2014”), Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày
26/11/2014 (“Luật Đầu tư 2014”) được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 với
nhiều cải cách đáng kể, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho doanh nghiệp, sửa đổi bổ
sung những quy định mới nhằm tháo gỡ những bất cập, hạn chế của luật cũ, phù hợp
với xu hướng chung của thế giới.
Tuy nhiên, giữa những thay đổi tích cực của Luật Đầu tư nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho nhà đầu tư thì Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành
vẫn “dậm chân tại chỗ”, khó tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau
trong việc hướng dẫn thi hành. Khơng những thế, ngay cả trong chính các quy định
của Luật Giáo dục 2005 và nhất là NĐ 73/2012 cũng cịn tồn tại nhiều bất cập, gây
khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt Nam. Điều này
dẫn đến một thực tế là mặc dù chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút đầu tư nước
ngoài của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục rất nhiều nhưng kết quả thực thi trên
thực tế lại hạn chế. Môi trường pháp lý trong lĩnh vực giáo dục vẫn là rào cản lớn
nhất khiến nhà đầu tư trăn trở và e ngại.
Chính vì vậy, Luận văn lựa chọn đề tài: “Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
giáo dục theo pháp luật Việt Nam” nhằm phân tích sự cần thiết của việc thu hút đầu

tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, phân tích những điểm cịn hạn chế của các
quy định pháp luật đang trực tiếp là rào cản ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài


8

trong lĩnh vực giáo dục để từ đó đưa ra những kiến nghị, hướng giải quyết góp phần
hồn thiện chính sách pháp luật để đưa các chính sách ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực
giáo dục được thực thi hiệu quả trên thực tiễn, tạo một môi trường cạnh tranh và cởi
mở cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm tham gia đầu tư lâu dài
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nước và hội nhập, tương thích với nền giáo
dục quốc tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trước sự quan tâm đặc biệt của tồn xã hội, Đảng và Nhà nước đã có rất
nhiều chính sách, chủ trương để kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong nước, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục. Tuy nhiên, như đã
nói, mặc dù chủ trương chính sách rất nhiều, nhưng quy định pháp luật trên thực tế
cịn lỏng lẻo, thiếu sót và chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, chưa thực sự được chú
trọng và quan tâm. Điển hình là số lượng văn bản quy định chi tiết về đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực giáo dục cịn nhiều thiếu sót, những cơng trình nghiên cứu khoa
học về pháp luật trong lĩnh vực đầu tư giáo dục cịn rất hạn chế. Một số ít các nghiên
cứu liên quan đến đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục có thể kể đến như: Hồ
Tú Bảo, Trần Văn Thọ, Vũ Quang Việt, Trần Nam Bình, Hà Dương Tường, Trần
Hữu Dũng (2006), “Sử dụng trí thức Việt kiều để xây dựng giáo dục đại học chất
lượng cao tại Việt Nam: Một đề án”, Tạp chí Thời đại mới số 9; PGS.TS Nguyễn
Phú Tụ (giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM) (tháng 12/2012), “Hội nhập
WTO và giáo dục đại học của Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 2 (12);
ThS. Nguyễn Thanh Sơn (giảng viên Trường Đại học Yersin, Đà Lạt) (2015), “Phát
triển chương trình đào tạo đại học theo định hướng đáp ứng chuẩn đầu ra”, Tạp chí
khoa học Trường Đại học An Giang số 5 (1), 50-54.

Tuy nhiên, những nghiên cứu kể trên chỉ mới nói đến những vấn đề liên quan
đến việc thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, ở một vài khía cạnh, như
là giáo dục đại học. Cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về đầu tư nước ngoài, thu hút
đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác nhau nhưng khó có thể tìm thấy đề tài
trong lĩnh vực giáo dục. Và mặc dù rất nhiều bài báo, diễn đàn và hội nghị được tổ


9

chức để phản ánh các bất cập của pháp luật đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo
dục, kêu gọi sự thay đổi, điều chỉnh của Nhà nước nhưng cho đến nay, chưa thể tìm
thấy một nghiên cứu khoa học nào đi sâu vào phân tích các quy định pháp luật về đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, chỉ ra những điểm hạn chế, thiếu sót trong các
quy định pháp luật để làm cơ sở điều chỉnh các quy định pháp luật hiện hành, cải
cách thủ tục hành chính góp phần tạo điều kiện thuận lợi và n tâm hơn cho nhà đầu
tư nước ngoài trong việc đầu tư phát triển mơi trường giáo dục trong nước, góp phần
hội nhập với nền giáo dục quốc tế. Nhất là từ khi Luật Đầu tư 2014 ra đời trong khi
Luật giáo dục 2005 và NĐ 73/2012, TT 34/2014 hướng dẫn về hợp tác, đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực giáo dục lại chưa được sửa đổi cho phù hợp. Vừa qua, ngày 06
tháng 06 năm 2018 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2018/NĐ-CP quy định
về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục (“NĐ 86/2018”) thay thế
NĐ 73/2012, có hiệu lực vào ngày 01/08/2018. Với một quy định vừa mới được ban
hành, chưa có thời gian áp dụng trên thực tế cùng với những quy định cũ nhiều bất
cập, chúng ta cần có những cơng trình nghiên cứu chun sâu để phân tích, nhận
định, đánh giá, so sánh góp phần chỉ ra những điểm cịn hạn chế, bất cập, thiếu sót
của pháp luật hiện hành nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước nói chung
cũng như phát triển nền giáo dục trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Do vậy, luận văn có thể nói là một trong những cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu đầu tiên đi sâu vào phân tích, bình luận những quy định pháp luật, đánh giá mặt
tích cực và hạn chế của các chính sách pháp luật hiện hành trong việc thu hút đầu tư

nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Qua đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, tinh giản
gọn nhẹ các thủ tục hành chính, để các chính sách và chủ trương của Đảng, Nhà nước
được đưa vào triển khai trên thực tế một cách dễ dàng, mở ra một môi trường kinh
doanh mới sôi động, đầy tiềm năng, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư nước
ngồi. Có chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát
triển dịch vụ giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, cung cấp cho đất nước nguồn nhân
lực có trình độ cao, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, nâng vị


10

thế nước ta lên một tầm cao mới.
3. Mục tiêu của đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các quy định pháp luật hiện hành về đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam hiện nay. Thơng qua các phương
pháp so sánh, phân tích luật để chỉ ra được ưu điểm và hạn chế của các quy định
pháp luật hiện hành, những điểm bất cập cịn tồn tại trong các chính sách pháp luật
của nhà nước đã và đang thiếu sự tương thích, thiếu tính khả thi gây khó khăn trở
ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào phát triển lĩnh vực giáo dục
tại Việt Nam. Qua đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị, góp phần bổ sung ý kiến đóng
góp đối với NĐ 86/2018 vừa mới được ban hành. Điều này khơng chỉ góp phần phát
triển kinh tế đất nước nói chung mà cịn là tiền đề để nâng cao chất lượng giáo dục,
đưa giáo dục Việt Nam vươn xa ra quốc tế, đáp ứng được các tiêu chuẩn của nền giáo
dục thế giới nói riêng. Đồng thời, hy vọng rằng sau đề tài này, các nhà làm luật cũng
sẽ có các chính sách pháp luật phù hợp trong thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực giáo dục, nhằm làm cho môi trường pháp lý đầu tư giáo dục được phù hợp, chặt
chẽ hơn, tương thích hơn với các quy định liên quan trong nước cũng như các Điều
ước quốc tế, các Hiệp định, Công ước mà Việt Nam là thành viên.
4. Câu hỏi nghiên cứu

Đề tài đặt ra câu hỏi nghiên cứu: Một trong những giải pháp để cải thiện
chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém và chưa hội nhập được với nền giáo dục


»z

•1

thế giới của Việt Nam hiện nay là phải tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Như vậy thì, các quy định pháp luật hiện hành hiện nay đã đáp ứng và
giúp đạt được yêu cầu này hay chưa? Để làm rõ và trả lời được câu hỏi nghiên cứu
này, luận văn sẽ đi sâu giải quyết từng câu hỏi: sự cần thiết của việc thu hút đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục? Những hạn chế còn tồn tại trong các quy định
pháp luật tạo ra sự e ngại, là rào cản làm cản trở các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu
tư tại Việt Nam là gì? Với những hạn chế như vậy, cần có phương hướng khắc phục
và hoàn thiện như thế nào?


11

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
thủ tục đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục theo pháp luật Việt Nam hiện nay
trong phạm vi các quy định cụ thể của Luật đầu tư 2014, Luật Giáo dục 2005, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2009, Hiến pháp 2013, NĐ 73/2012,
NĐ 86/2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong phạm vi đề tài, luận văn cũng sẽ chỉ đi sâu vào phân tích quy định pháp
luật hiện hành về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nguồn vốn tư nhân trong
lĩnh vực giáo dục để thành lập cơ sở giáo dục mà không đề cập nhiều đến việc hợp
tác, liên kết đào tạo; phân tích, đánh giá các điểm cịn tồn tại trong các quy định pháp

luật về đầu tư, thành lập, hoạt động của các cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam.
Qua đó, so sánh với các quy định của NĐ 73/2012 vừa mới được thay thế để thấy
được những điểm đổi mới và những hạn chế vẫn còn tồn tại trong NĐ 86/2018. Từ
đó đưa ra ý kiến nhằm bổ sung thêm, góp phần hồn thiện chính sách pháp luật đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp để làm sáng tỏ về mặt khoa học của lý
luận và thực tiễn của đề tài trong từng nội dung cụ thể; đó là các phương pháp như:
các phương pháp lý luận logic, phương pháp phân tích, phương pháp lý giải, phương
pháp đánh giá được sử dụng nhiều trong nghiên cứu các vấn đề lý luận về thủ tục
hành chính, quy định pháp luật trong việc đầu tư vào lĩnh vực giáo dục; các phương
pháp bình luận, đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ thống, phương pháp chứng minh,
phương pháp phân tích được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về thực trạng pháp luật
về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam hiện nay.
7. Đóng góp của đề tài
Luận văn phản ánh cái nhìn khách quan về các quy định pháp luật hiện hành,
trình tự thủ tục hành chính để đầu tư, thành lập, hoạt động cơ sở giáo dục có vốn đầu
tư nước ngoài. Luận văn chỉ ra những điểm mới của Luật Đầu tư, NĐ 86/2018, hay
những vấn đề còn tồn tại trong NĐ 86/2018 thông qua việc so sánh trực tiếp với NĐ


12

73/2012. Vì NĐ 86/2018 chưa có thời gian áp dụng nhiều trên thực tiễn. Trong khi
đó, kết quả của việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
trong thời gian qua lại chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ NĐ 73/2012. Chính vì vậy, để
thấy hết được những bất cập cũng như điểm tiến bộ của NĐ 86/2018, luận văn được
nghiên cứu theo hướng phân tích các quy định của NĐ 73/2012, từ đó so sánh, đánh
giá điểm mới, điểm tương đồng và mặt hạn chế còn tồn tại của NĐ 86/2018 một cách
rõ nhất và cụ thể nhất. Luận văn cũng chỉ ra những mục tiêu phải đẩy mạnh đầu tư và

thu hút đầu tư cho lĩnh vực giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và tăng khả năng
cạnh tranh của nền giáo dục trong nước, thu hẹp khoảng cách và tạo sự tương thích
cho nền giáo dục trong nước trong mơi trường quốc tế. Từ những phân tích đó, luận
văn sẽ đưa ra một số ý kiến đóng góp đề xuất để hồn thiện các quy định pháp luật
nhằm đóng góp một phần nhỏ trong công cuộc nghiên cứu, cải cách thủ tục hành
chính để hồn thiện pháp luật trong nước, tương thích hơn với quy định pháp luật
quốc tế, đóng góp một phần vào các nghiên cứu nhằm xã hội hóa, quốc tế hóa lĩnh
vực giáo dục, một trong những lĩnh vực chủ chốt để phát triển con người, phát triển
kinh tế đất nước nhằm hội nhập quốc tế và vẫn đảm bảo giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc cũng như phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp ngàn đời của cha ông.
8. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm ba phần:
Phần mở đầu
Chương 1: Sự cần thiết của việc thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo
dục
Chương 2: Hạn chế trong các quy định pháp luật đến thu hút đầu tư giáo dục
chất lượng cao
Chương 3: Kiến nghị khắc phục và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực giáo dục
Kết luận

CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC


13

1.1.

Tạo chất xúc tác cải thiện chất lượng giáo dục trong nước




• 99

9
Việc cần thiết tạo chất xúc tác cải thiện chất lượng giáo dục trong nước phần
nhiều bởi hai lý do chính sau:
Thứ nhất, chất lượng giáo dục tại Việt Nam hiện nay chưa cao.
Tại Việt Nam, giáo dục đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã
hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong thập niên 90 chủ yếu từ tăng năng suất
lao động là kết quả của quá trình dịch chuyển lao động từ ngành sản xuất nông
nghiệp năng suất thấp sang các lĩnh vực phi nơng nghiệp có năng suất cao hơn.
Trong những năm qua, giáo dục và đào tạo ở nước ta đã có những chuyển
biến tích cực và góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu ban đầu vẫn còn những tồn tại, bất cập. Sau nhiều năm đổi
mới, “chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm
được khắc phục”1. Tính độc lập, sáng tạo trong tư duy và kỹ năng thực hành của học
sinh, sinh viên còn yếu; giáo dục chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế,
chưa theo kịp xu thế tồn cầu hố và xu thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt, chưa đáp
ứng được yêu cầu của cuộc sống kinh tế hiện đại. Theo báo cáo của Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, sau nhiều năm đổi mới, chất lượng giáo dục và đào tạo
còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Trong đó có nhiều
nguyên nhân chẳng hạn như: đào tạo chưa theo kịp với yêu cầu xã hội, yêu cầu phát
triển kinh tế của đất nước; cơ sở vật chất của các trường học trong hệ thống giáo dục
của nước ta còn rất thấp so với các nước, nhất là cơ sở vật chất của các trường đại
học, cao đẳng và các trường phổ thông ở vùng sâu, vùng xa; thời gian đào tạo quá
dài, chương trình đào tạo nặng về lý thuyết, trùng lắp, không gắn với thực tiễn và
thiếu thực hành; chưa có các trường với các ngành mũi nhọn để tập trung nghiên cứu
chuyên sâu, thu hút học sinh nước ngoài tham gia đào tạo và nghiên cứu, học tập;

thiếu đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giỏi, có chun mơn, ngoại ngữ
để tham gia giảng dạy, làm việc và nghiên cứu tại các tổ chức quốc tế, nghiên cứu
khoa học với các trường và các viện trong khu vực và trên thế giới.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.170.


14

Xuất phát từ thực trạng này, để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách
hợp lý và bền vững trong điều kiện hiện nay và cả trong những năm tới, tại Hội nghị
Trung ương 9, khoá X, Đảng ta đã xác định: “Tập trung nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa”2.
Đặc biệt, trong bối cảnh tồn cầu hóa và xu hướng tăng cường tham gia vào
các hiệp định mậu dịch tự do song phương - đa phương, những cơ hội luôn song
hành cùng thử thách. Các cam kết mở cửa nền kinh tế, việc dần loại bỏ các biện pháp
bảo hộ trong nước tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Nền kinh tế thị
trường hiện đại đòi hỏi ngày càng cao đối với chất lượng nguồn lao động. Bên cạnh
chuyên môn kỹ thuật, người lao động cần phải không ngừng cập nhật kiến thức, cập
nhật thơng tin, bồi dưỡng văn hóa, tri thức, kỹ năng để không bị đào thải khỏi lực
lượng sản xuất trong thị trường lao động.
Trước những yêu cầu mới của thời đại, chất lượng giáo dục cần phải được
nâng cao, nhất là trong suốt thời gian dài mơ hình đào tạo nặng về lý thuyết, với
phương pháp thầy đọc trị ghi, hạn chế tính độc lập, sáng tạo trong tư duy và kỹ năng
thực hành của học sinh, sinh viên; giáo dục với định hướng, kết nối nghề nghiệp còn
thiếu chặt chẽ. Để làm được điều này, một trong những giải pháp tất yếu là chúng ta
phải không ngừng học tập khoa học công nghệ tiên tiến của các nước, tiếp thu tinh
hoa trong giáo dục của họ để áp dụng và thực hành sao cho phù hợp và đạt hiệu quả
cao nhất.
Trong tham luận tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015, TS. Bùi Sỹ Lợi, Phó

chủ nhiệm y ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội nhận định chất lượng lao động là
thách thức lớn đối với Việt Nam. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10), xếp hạng
thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91
điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm. Đánh giá này cũng cho biết
nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao động
2Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khố X, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009, tr.180.


15

công nghiệp. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực của Việt Nam hiện mới chỉ đạt 3,39
trên 10 điểm3. Cũng theo Tạp chí Times Higher Education vừa cơng bố bảng xếp
hạng đại học tốt nhất châu Á năm 2017 với 300 trường ở 24 nước. Nhật Bản đứng
đầu với 69 đại học lọt vào bảng xếp hạng, Trung Quốc đứng thứ hai với 54 đại học,
Ấn Độ xếp thứ ba với 33 trường. Việt Nam khơng có đại học nào góp mặt trong danh
sách này4. Theo các số liệu của Tổng cục thống kê, lao động trong độ tuổi của Việt
Nam chủ yếu làm việc và tập trung cao nhất trong các khối ngành nghề giản đơn;
nông, lâm, ngư nghiệp; thợ thủ công và lắp ráp. Cụ thể, năm 2010 trong nhóm ngành
nghề giản đơn, cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên là 19130.8 nghìn người; năm 2011
là 20305.5 nghìn người; đến năm 2016 là 20247.8 nghìn người. Một tỷ lệ rất cao.
Trong khi đó, các khối ngành địi hỏi trình độ trí thức cao, tay nghề và chất lượng cao
như nhân viên văn phịng, chun mơn kỹ thuật bậc cao thì con số này lại rất thấp 5.
Thấp nhất trong các nhóm ngành thống kê. Phần nào có thể thấy, mặc dù chúng ta
vẫn đang cố gắng rất nhiều để cải thiện chất lượng giáo dục, nâng cao trình độ dân trí
và tay nghề của người lao động nhưng thực tế cho đến nay kết quả mà chúng ta đạt
được vẫn chưa mấy khả quan.
Thứ hai, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được các đòi hỏi và yêu cầu của xã
hội.

Không chỉ chất lượng giáo dục chưa cao mà nguồn nhân lực của Việt Nam
còn vấp phải tình trạng khơng đáp ứng được địi hỏi và u cầu của xã hội. Vài năm
trở lại đây, không chỉ ở đối tượng thanh niên nông thôn mà cả cử nhân đại học, cao
đẳng khi ra trường khơng tìm được việc làm hoặc phải làm việc trái với ngành, nghề
đào tạo đã khơng cịn là chuyện hiếm thấy. Nghịch lý ở chỗ, lực lượng lao động dồi
dào và tỷ lệ cần giải quyết việc làm ở mức cao nhưng các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khoa học cơng nghệ, có vốn đầu tư nước ngồi cần trình
độ kỹ thuật cao vẫn ln thiếu thốn trầm trọng nguồn nhân lực. Không chỉ thiếu thốn
nguồn lao động chất lượng cao, nguồn lực lao động nhìn chung cịn chưa bắt kịp
được với tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam nói riêng cũng như tồn thế giới nói
3Xem tại />4Xem tại />5Xem phần Phụ lục Biểu đồ 3 (Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo nghề nghiệp).


16

chung. Tỷ lệ người lao động chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm trên 80%
trong cơ cấu người lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo phân theo trình độ
chun mơn kỹ thuật. Trong khi đó, trình độ đại học, cao đẳng lại rất thấp6. Thế
nhưng đi ngược lại với các con số thống kê này, tỷ lệ người lao động thất nghiệp đã
qua đào tạo nghề có trình độ cao đẳng, đại học trở lên lại rất cao, cao nhất trong bảng
số liệu thống kê7. Nghịch lý này rõ ràng là do nguồn nhân lực mà chúng ta đào tạo ra
vẫn không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Đồng thời, người lao động còn
thiếu các kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, kỹ năng ngoại ngữ,
tin học, đạo đức nghề nghiệp chưa cao, thiếu ý thức trách nhiệm, chậm thích nghi với
mơi trường làm việc mới8.
Báo cáo vừa phát hành của VietnamWorks cho biết trong 6 tháng đầu năm
2017, nhu cầu tuyển dụng và cung nguồn lực đã tăng thêm so với cùng kỳ năm ngoái
lần lượt là 20% và 14%. Điều này cho thấy nguồn cung và nhu cầu trong tuyển dụng
vẫn có sự chênh lệch nhất định. VietnamWorks cũng đã thống kê lại 10 ngành có nhu
cầu tuyển dụng cao nhất trong thời gian vừa qua như cơng nghệ thơng tin (IT), hành

chính/thư ký, kế toán, dịch vụ khách hàng 9. Theo dự báo cơ cấu nhu cầu nhân lực
trong giai đoạn từ 2017 đến 2025 tới đây, tỷ trọng người lao động làm việc trong các
khối ngành dịch vụ và cơng nghiệp, địi hỏi trình độ chun mơn cao ngày càng gia
tăng, trong khi đó các khối ngành nơng, lâm, ngư nghiệp sẽ giảm đáng kể nhu cầu
đối với người lao động xuống chỉ còn dưới 2%10. Tuy nhiên thực tế theo các số liệu
thống kê cho đến thời điểm năm 2016, tỷ trọng người lao động làm việc trong khối
ngành nông, lâm, ngư nghiệp vẫn chiếm cao nhất trong ba khu vực kinh tế, trên
6Xem Phụ lục Biểu đồ 1 (Tỉ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo trình
độ chun mơn kỹ thuật).
7Xem Phụ lục Biểu đồ 2 (Tỉ lệ thất nghiệp đã qua đào tạo nghề/chuyên nghiệp).
8Theo Ông Simon Matthews, CEO ManpowerGroup tại thị trường Việt Nam, Thái Lan và Trung Đơng chia sẻ nhận định
của mình tại hội thảo "Nguồn nhân lực và công nghệ cho kỷ nguyên số tại Việt Nam" diễn ra trong ngày 14/11. Xem tại
/>9Xem tại />10

Xem Phụ lục Biểu đồ 5 (Dự báo cơ cấu nhu cầu nhân lực phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 2017 - 2020 đến

năm 2025).


17

40%11. Các con số này dự kiến cho thấy sẽ tiếp tục là giai đoạn khó khăn để chúng ta
đảo ngược tình hình, đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được địi hỏi của xã hội
trong thời gian tới.
Tóm lại, có thể thấy chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cịn có khoảng cách
lớn so với các nước trong khu vực. Một bộ phận không nhỏ người lao động chưa
được tập huấn về kỹ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và hành vi, thiếu
kỹ năng làm việc, kỹ năng xã hội như làm việc theo nhóm, hợp tác và gánh chịu rủi
ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Các hạn chế và yếu kém
này có một phần hậu quả tất yếu của nền giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu của thời đại

mới.
Vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục là cơ hội để
công dân Việt Nam tiếp cận với các phương pháp giảng dạy, nghiên cứu, học tập tiến
bộ, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương thức tư duy và giải quyết vấn đề nhằm
đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong xã hội hiện nay.
1.2.

Nền giáo dục chưa hội nhập với các quốc gia trên thế giới

Mặc dù, chất lượng giáo dục đại học ngày càng được cải thiện nhưng cũng tồn
tại nhiều bất cập, hạn chế, chưa thật sự tiệm cận với các nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trên hành trình hội nhập, giáo dục Việt Nam mấy năm gần đây có những cố gắng
nhất định. Nhưng cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, giáo dục Việt Nam đang
đứng trước nguy cơ bị “cơ lập” và khó hồ nhập được với các trào lưu giáo dục lớn
trên thế giới bởi một số nguyên nhân sau: (1) Ngôn ngữ: Thứ ngơn ngữ giảng dạy
chính là tiếng Việt. Đây là tiếng mẹ đẻ của người Việt chúng ta, nhưng đồng thời
cũng là ngơn ngữ có tính chất riêng biệt của người Việt, do người Việt sử dụng. Ngôn
ngữ tiếng Việt khơng có khả năng hội nhập. (2) Chương trình, giáo trình giảng dạy
hầu hết do giáo viên, giảng viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hố và
cơng nhận trên trường quốc tế. Dẫn đến việc bằng cấp từ phổ thông đến đại học cũng
chưa được công nhận và đánh giá cho chuẩn, đúng mức. Điều này, khiến cho sinh
viên tham gia các chương trình trao đổi, giao lưu hàng năm với các trường đại học
11 Xem Phụ lục Biểu đồ 4 (Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế, giai đoạn 2010 đến 2016).


18

trên thế giới, hoặc chuyển ngang sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế, hoặc
xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với các học sinh đã tốt nghiệp trong nước gặp

khơng ít khó khăn. (3) Giáo dục Việt Nam chưa có một bộ quy tắc đánh giá chất
lượng đào tạo, cũng như tiêu chí xếp loại các trường, các ngành học để nước ngồi
dựa vào đó hợp tác làm việc với các trường trong nước. Dẫn đến hiện tượng một số
tổ chức quốc tế tự xếp hạng các trường đại học Việt Nam một cách không khách
quan. (4) Chúng ta chưa có các cơ quan, tổ chức trung gian làm việc độc lập, khách
quan với các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục để có các ý kiến phản biện, kịp
thời chấn chỉnh cũng như góp ý cho các dự thảo hoặc Luật Giáo dục. (5) “Đầu vào”
của các trường đại học sư phạm chưa cao, chưa có được những ưu tiên thỏa đáng về
chính sách cho loại trường này, chế độ lương bổng của giáo viên khiến cho loại hình
sư phạm chưa có sức thu hút nhân tài - những người thực sự có tâm, có đức vào làm
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo con người. Hệ thống các phịng thí nghiệm,
nghiên cứu cịn q nghèo nàn, khơng hút được các nhà nghiên cứu khoa học trẻ. (7)
Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh còn bất cập, mặt khác lại
gây tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian của học sinh, các ông bố bà mẹ và cả xã
hội. (8) Bệnh thành tích đang trở thành một “bạo bệnh” khó có cơ cứu chữa. Trong
nhiều nguyên nhân, có một nguyên nhân cở bản, cách tuyển chọn nhân sự của Nhà
nước, hoặc tiêu chuẩn hoá cán bộ dựa trên bằng cấp chứ không dựa vào thực tài 12.
Ngồi ra, cịn rất nhiều những ngun nhân khác khiến cho nền giáo dục chưa
hội nhập được với các quốc gia phát triển trên thế giới như: Theo Điều 5 Luật Giáo
dục Đại học 2012 quy định: '“Mục tiêu chung của đào tạo giáo dục đại học là: a)
Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công
nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; b) Đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên
cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo;
có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với mơi
12Theo Bà Đào Hương - Tổng thư ký Liên đồn các Hiệp hội tư vấn Giáo dục và Ngôn ngữ thế giới (FELCA), xem tại
/>

19


trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân.”
Giáo dục đại học Việt Nam đặt ra nhiều mục tiêu khái quát, tuy nhiên chưa
thật sự phù hợp với khả năng thực hiện của nền giáo dục đại học hiện tại. Nếu so
sánh, thì có sự khác biệt lớn về mục tiêu giáo dục với các trường đại học danh tiếng
hiện nay trên thế giới. Dẫn chứng, mục tiêu giáo dục của Đại học Stanford - Hoa Kỳ:
“Mục tiêu của Stanford là cung cấp cho sinh viên những thứ cần thiết nhất cho
thành công cá nhân và thực tiễn nhất trong cuộc sống của họ, như là một nền móng
xây dựng của trường”13.
Thiết nghĩ, mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của giáo dục đại học đó là:
“Đào tạo con người có năng lực ứng dụng và giải quyết vấn đề; năng lực nhận thức
độc lập và tư duy sáng tạo; năng lực thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định; năng
lực tự đào tạo và phát triển thêm; năng lực làm việc trong tập thể; năng lực thích
ứng cao với mơi trường làm việc thay đổi không ngừng”14.
Và hơn hết là phương pháp dạy học đại học, nhìn chung chưa tiếp cận với các
phương pháp dạy học đại học phổ biến của thế giới. Theo kết quả khảo sát thực địa
của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy
và học đại học của Việt Nam như sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá
phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là
có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài lớp học; Quá nhấn
mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lịng mà khơng nhấn mạnh vào việc học
khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là
học hời hợt thay vì học chuyên sâu; Sinh viên học một cách thụ động (nghe diễn
thuyết, ghi chép, nhớ lại những thông tin đã học thuộc lòng khi làm bài thi)”15.
13

Xem tại />
14

Nguyễn Thiện Tống - Đổi mới mục tiêu đào tạo đại học và chương trình giáo dục tổng quát cho nền kinh tế tri


thức - />%E1%B B%A5c%20ti%C3%AAu%20%C4%91%C3%A0o%20t%E1%BA%A1o%20%C4%91%E1%BA%A1i%20h
%E1%BB %8Dc%20v%C3%A0%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20gi%C3%A1o%20d%E1%BB%A5c
%20t%E1
%BB%95ng%20qu%C3%A1t%20cho%20n%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20tr%C3%AD%20th%E1% BB
%A9c.pdf.
15

Xem tại />

20

Với những ảnh hưởng từ nền giáo dục Nho giáo, phương pháp giảng dạy tại
Việt Nam trong suốt thời gian dài chưa tạo được sự tích cực, chủ động cho người
học. Mặc dù, đã có những cải thiện nhất định về phương pháp giảng dạy như áp dụng
phương thức đào tạo tín chỉ, nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia: “Đào tạo tín
chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn
cịn chưa thốt khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ động của sinh viên còn yếu kém”16.
Những nguyên nhân trên dẫn đến hệ quả của việc nền giáo dục và đào tạo
chưa hội nhập được với các quốc gia khác trên thế giới, thể hiện ở chỗ:
Một là, chưa có một bộ tiêu chí chuẩn mực và đầy đủ để đánh giá chất lượng
đào tạo, xếp loại, xếp hạng các trường đại học trong nước, làm cơ sở để các nước
khác dựa vào đó hợp tác, liên kết đào tạo. Chính vì chưa có một hệ thống kiểm định
hồn chỉnh nên công tác đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo cịn thiếu tính khoa
học, nặng cảm tính. Những bất cập này gây khó khăn khơng chỉ cho người học khi
lựa chọn sai mơi trường mà cịn khơng tạo được yếu tố cạnh tranh cần thiết để phát
triển. Trong nhiều năm qua, giáo dục và đào tạo gặp khó khăn nhiều nhất trong việc
đánh giá và kiểm tra do chúng ta cứ luẩn quẩn với cách đánh giá truyền thống: nêu
thành tích, ít hoặc khơng chỉ ra ngun nhân tồn tại của những hạn chế. Do vậy, hàng
năm các trường đều có rất nhiều loại báo cáo tổng kết nhưng vẫn khơng thể tìm giải

pháp khắc phục nhũng ngun nhân gây ra sự yếu kém, lạc hậu.
Hai là, chất lượng đầu ra cũng như chất lượng đào tạo của hệ thống chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội cũng như hội nhập quốc tế. Nhìn
chung, hiện nay, sinh viên Việt Nam ra trường với tấm bằng đại học khá - giỏi cũng
chưa đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Báo cáo năng lực cạnh tranh
của Việt Nam 2009 - 2010 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
phối hợp với Học viện Năng lực cạnh tranh Châu Á của Singapore (ACI) thực hiện
nhận xét: “Hệ thống giáo dục được mở rộng nhưng không đáp ứng được yêu cầu về
mặt chất lượng, không gắn với thị trường, dẫn tới thiếu hụt nghiêm trọng lao động
có kỹ năng”. Điều này có ảnh hưởng tiêu cực tới vị thế của hệ thống giáo dục Việt
16 Xem tại />

21

Nam và khả năng cạnh tranh trong thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao trong
khu vực và trên thế giới, hạn chế việc thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước, gây
khó khăn cho q trình phát triển kinh tế quốc gia.
Ba là, những phân tích trong nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm
khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm đều cảm thấy lo
lắng. Thực trạng thấp kém không chỉ so với các nước tiên tiến trên thế giới có nền
tảng khoa học phát triển lâu năm mà ngay cả khi so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á. Theo thống kê của Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm từ
1996 - 2011, Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học cơng bố trên các tập san
quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan (69.637), một phần
sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của Singapore (126.881). Trong khi
đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan.
Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn
100.000 thạc sĩ mà số ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 15 năm qua chưa
bằng 1/5 số công bố của trường Đại học Tokyo (69,806 ấn phẩm) và một nửa của
trường Đại học quốc gia Singapore (28,070 ấn phẩm). Không chỉ khiêm tốn về số

lượng, chỉ số ảnh hưởng của các cơng trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng
thấp nhất so với những nước trong khu vực vừa được đề cập. Thứ hạng khiêm tốn
này cũng nhất quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng. Thật ra, nước ta có nhiều cơng
trình nghiên cứu xứng đáng chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới, nhưng rất tiếc,
cho đến nay các cơng trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, đóng
gói khơng chia sẻ, hoặc cơng bố trên những tạp chí trong nước chưa được quốc tế
cơng nhận và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà. Nhiều tác giả đã đưa ra
một số nguyên nhân để giải thích cho tình trạng trên như: phân phối ngân sách cho
nghiên cứu chưa thỏa đáng, rào cản về ngôn ngữ tiếng Anh, nhận thức chưa đầy đủ
về tầm quan trọng của công bố quốc tế, thiếu kinh nghiệm và chưa có thói quen (văn
hóa) cơng bố, thiếu chính sách đãi ngộ, khuyến khích nhà khoa học cơng bố quốc tế,
rất ít những tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh, chưa xác lập những chuẩn


22

mực đánh giá hiệu quả khoa học phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở đó cơng bố quốc tế
được sử dụng làm thước đo khách quan. Thêm vào đó, các cơng trình nghiên cứu
khoa học bây giờ đều được công bố bằng tiếng Anh. Rào cản ngôn ngữ, rào cản trong
tư duy đã khiến nhiều giáo sư, tiến sĩ không theo kịp tiến bộ của khoa học kỹ thuật 17.
Bốn là, nỗ lực của Việt Nam về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đại
học, thể hiện ở việc công nhận văn bằng giáo dục đại học quốc tế và hướng tới khả
năng quốc tế công nhận bằng cấp của các trường đại học Việt Nam, được kỳ vọng sẽ
đem đến những bảo đảm về quyền lợi cho học viên, cũng như góp phần nâng cao
năng lực hợp tác quốc tế và chất lượng giáo dục đại học trong nước. Việt Nam đã ký
kết Công ước công nhận văn bằng giáo dục đại học tại Khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương tại Băng Cốc vào tháng 12/1983 (Công ước Băng Cốc 1983). Tháng 11/2011,
các thành viên đã thông qua Công ước sửa đổi, bổ sung tại Tokyo (Công ước Tokyo
2011). Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến hết tháng 10/2016, có

khoảng 130.000 công dân Việt Nam đang học tập tại nước ngồi. Từ năm 2000 tới
tháng 10-2016, có 485 chương trình liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục đại học
nước ngoài (do nước ngoài cấp bằng) đã và đang thực hiện tại các cơ sở giáo dục đại
học tại Việt Nam. Con số này chưa bao gồm số lượng các chương trình của một số cơ
sở giáo dục nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam và các nhà cung cấp dịch vụ giáo
dục xuyên biên giới qua hình thức đào tạo trực tuyến. Điều này cho thấy, số lượng
văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp cho người Việt Nam đang tiếp tục tăng
mạnh. Tổng cộng từ năm 2008-2016, có tới 95% số hồ sơ (trên tổng số khoảng
14.490 hồ sơ) được công nhận. Trong đó, số hồ sơ cơng nhận văn bằng chủ yếu là từ
loại hình du học tồn phần chiếm 60% và liên kết đào tạo chiếm khoảng 34%. Trong
liên kết đào tạo thì 63% là tồn phần tại Việt Nam, 37% là bán phần. Các trường có
cơ sở, chi nhánh tại Việt Nam chiếm khoảng 4,36% số hồ sơ 18. Tuy nhiên trên thực
tế, trong khi số lượng văn bằng do các cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được Việt Nam
cơng nhận ngày càng tăng thì ở chiều ngược lại, hầu hết văn bằng do các cơ sở giáo
17 Theo ThS. Nguyễn Dạ Thảo, Đổi mới giáo dục đại học theo định hướng hội nhập quốc tế, Xem tại
/>18

/>

23

dục của Việt Nam cấp vẫn chưa được quốc tế cơng nhận. Đây thực sự là thiệt thịi lớn
cho người học khi mà việc chuyển dịch lao động quốc tế giữa các quốc gia trong khu
vực và thế giới đang trở thành một xu hướng chủ đạo.
Một ví dụ chứng minh rõ nhất cho việc mặc dù có những ngành nghề trong hệ
thống giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao về chất lượng thì vẫn khó để được
quốc tế cơng nhận đó là việc cơng nhận bằng cấp trong lĩnh vực Y khoa. Một trong
những mục tiêu trong báo cáo được nhiều đại biểu nhất trí cao là thời gian tới, Bộ Y
tế đổi mới công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế theo hướng bằng đại học
y, dược của Việt Nam được khu vực và thế giới công nhận. Theo lãnh đạo Bộ Y tế,

hiện nay, các thầy thuốc Việt Nam ra nước ngoài học tập để nâng cao trình độ chun
mơn đều phải đào tạo lại từ đầu vì bằng đại học y, dược của nước ta chưa được thế
giới công nhận. Điều đó cho thấy, chất lượng đào tạo của nước ta chưa cao, ảnh
hưởng tới chất lượng khám chữa bệnh; đồng thời gây tốn kém thời gian và kinh phí
cho thầy thuốc. Cụ thể, nếu là bác sĩ ở Việt Nam, khi muốn được công nhận bằng cấp
ở Mỹ, Úc, Canada hay Anh, người đề nghị phải thi để được công nhận bằng cấp. Quy
trình này khó hơn rất nhiều so với quy trình cơng nhận bằng kỹ sư của Việt Nam.
Đầu tiên người đề nghị phải có điểm tiếng Anh IELTS tối thiểu 7 và không một môn
nào dưới 7 điểm nếu muốn thi ở Canada, Úc và Anh. Còn nếu thi ở Mỹ thì tiếng Anh
thấp nhất 580 điểm của TOEFL. Sau đó người đề nghị nộp bằng cấp của mình cho
hội đồng Y khoa quốc gia để họ đồng ý cho thi. Nếu muốn thi bằng bác sĩ Mỹ, người
đề nghị phải trải qua ba kỳ thi (Kiến thức tổng quát Y khoa, Lý thuyết chuyên sâu và
Kỳ thi thực hành). Còn nếu thi ở Canada hay Úc thì chỉ cần qua hai kỳ thi lý thuyết
bằng hình thức trắc nghiệm (Multiple choice questions), và thực hành (Clinical). Còn
bằng tiến sỹ Y khoa (PhD in Medicine) ở các nước này không được công nhận là bác
sĩ (Medical Doctor), những người học về tiến sỹ Y khoa là những người đi làm
nghiên cứu chứ không phải là những người được phép đi điều trị bệnh nhân của họ.
Nếu một người có bằng bác sĩ ở Việt Nam và đi học tiến sĩ Y khoa ở các nước này,
sau khi ra trường và có bằng tiến sĩ Y khoa mà đi làm nghiên cứu thì thơi, nhưng nếu
muốn làm việc như là bác sĩ thì vẫn phải quay trở lại nộp hồ sơ để xin dự các kỳ thi


24

như trên19.
1.3.

Kết luận Chương 1

Xu hướng tồn cầu hóa đã và đang đặt ra những thuận lợi và thách thức lớn

cho nền kinh tế các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Chúng ta trơng đợi
tồn cầu hóa sẽ giúp Việt Nam “đi tắt đón đầu'' thơng qua việc nhanh chóng lĩnh hội
cơng nghệ, tri thức, kinh nghiệm từ các nước phát triển, từ đó góp phần ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, một khía cạnh tồn tại, khơng mong đợi của xu
hướng này là áp lực cạnh tranh và đào thải khốc liệt của nền kinh tế thị trường; sự
băng hoại các giá trị truyền thống trong q trình hịa nhập khơng có chọn lọc, tiếp
thu; sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, và nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nếu
khơng được nhìn nhận và giải quyết nghiêm túc. Nói như vậy để thấy, mọi vấn đề
đều có hai mặt và tồn cầu hóa cũng khơng ngoại lệ. Tồn cầu hóa là xu hướng tất
yếu và mọi quốc gia đều khơng thể đứng ngồi xu hướng này. Hiện nay, khơng chỉ ở
Việt Nam mà nhiều nước đang phát triển trong khu vực và thế giới đều đang phải đối
mặt với những thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng
chun nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc cách mạng
cơng nghiệp 4.0. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra không chỉ với nền giáo dục Việt Nam
mà của cả thế giới là làm thế nào đào tạo ra nguồn nhân lực lao động để đáp ứng nhu
cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới.
Bên cạnh đó, việc tham gia vào các Hiệp định thương mại khu vực và thế
giới, đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế; dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ; tuân
thủ các cam kết để tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng. Một dẫn chứng cho điều
này có thể thấy trước khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), giáo dục được xem là một phúc lợi xã hội, là hoạt động phi lợi nhuận, nhưng
quan điểm này đã thay đổi. Bởi, cùng với việc gia nhập vào WTO và cam kết thực
hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đối với 12 ngành dịch vụ, trong
đó có giáo dục, thì lĩnh vực giáo dục đã chính thức là một dịch vụ trong hoạt động
thương mại, Nhà nước không thể tiếp tục bảo hộ nền giáo dục thông qua vị thế “độc
quyền'' của mình, mà cần phải thực hiện việc “mở cửa'' để các nguồn lực khác, trong
19

/>


25

đó có nguồn lực nước ngồi tham gia vào lĩnh vực này.
Đảng và Nhà nước ta nhất quán quan điểm xem giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện của
Đảng. Nghị quyết Trung ương 3, (khoá VII) năm 1993 khẳng định: “Khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho phát triển”. Nghị quyết Trung ương 8, (khoá XI) một lần nữa khẳng định:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân”. Mặc dù ý thức được tầm quan trọng của giáo dục, xem giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và toàn dân nhưng thực trạng nền
giáo dục Việt Nam còn nhiều hạn chế; thiếu hội nhập với các nước tiến bộ trên thế
giới, từ đó dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được u cầu,
kỳ vọng của xã hội.

Tóm trị
vai
lại,
quan
xuất
trọng
phát
từ
của
bối
nguồn
cảnh
nhân
thời
lực

đại,

các
thực
cam
trạng
kết
chất
quốc
tế,
lượng
buộc,
giáo
cấp
bách
dục
cịn

cần
nhiều
thiết
tồn

tại
phải
ởkém
nước
tạo
điều
ta

đặt
kiện
ra
thơng
u
cầu
bắt
thống
Nam.
Song
cho
song
việc
với
nhập
đó
khẩu

việc
giáo
ngăn
dục
chất
chặn
lượng
hành
vi
cao
lợi
vào

dụng
Việt
mở
cửa,
lợi
nhuận,
du
nhập
gây
các
thiệt
văn
hại
hóa
giáo
cho
người
dục
học
chất

cho
lượng
nền

kinh
mục
tế
tiêu
nước

nhà.


×