Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Địa vị pháp lý của hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.36 KB, 88 trang )

u


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

CAO ANH TUẤN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
••
CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM DÂN SỰ
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

CAO ANH TUẤN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
••

CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM DÂN SỰ
••

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN TIẾN


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


4

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình, luận văn, luận án nào trước đây. Các thông tin tham khảo trong luận văn đều được
tác giả trích dẫn một cách đầy đủ và cẩn thận./.
TÁC GIẢ

CAO ANH TUẤN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

-HĐXX: Hội đồng xét xử
-BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
-TTDS: Tố tụng dân sự
-HTND: Hội thẩm nhân dân
-XHCN: Xã hội chủ nghĩa.

-TAND: Tòa án nhân dân
-GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
-UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

KẾT LUẬN

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 84


7

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chức năng xét xử của Tịa án được thực hiện thơng qua và tập trung vào hoạt
động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Theo đó, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân giữ vai trị quan trọng trong xét xử. Chính vì vậy, số lượng và chất lượng của đội
ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành
đối với đội ngũ cán bộ này là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải
quyết các loại vụ án dân sự. Trong những năm vừa qua, đội ngũ thẩm phán và hội
thẩm của Tịa án đã khơng ngừng tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng, góp
phần đáng kể trong việc tăng cường lợi ích hợp pháp của cơng dân, của nhà nước và
xã hội trong thời kỳ mới. Có thể nói đội ngũ thẩm phán của hệ thống Tịa án nhân
dân có ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ chính trị của hệ thống tịa án nhân dân nói

riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.
Theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì: Cơng tác Tư pháp nói chung chưa
ngang tầm với đòi hỏi của nhân dân; cán bộ và các cơ quan Tư pháp chưa đáp ứng
được nhu cầu tình hình hiện nay. Đội ngũ Thẩm phán cịn thiếu về số lượng, yếu và
trình độ, năng lực, nghiệp vụ, một bộ phận còn tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản
lĩnh, suy thoái phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến kỷ
cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể sau “...Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự,
nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo
điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng và người


8

tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp”.
Nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân trên cả nước, Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Đắk Lắk được tổ chức và hoạt động thống nhất theo hai cấp là Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã và thành phố đã thực hiện chức năng xét
xử trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa
qua, đội ngũ thẩm phán và hội thẩm hai cấp Tịa án tỉnh Đắk Lắk khơng ngừng được
bổ sung về chất lượng, nâng cao về số lượng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
hiệu quả xét xử của Tịa án cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên, vai trò
xét xử các loại vụ án chung cũng như xét xử các loại vụ án dân sự nói riêng, đội ngũ
thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn bộc lộ nhiều hạn chế ảnh

hưởng phần nào đến chất lượng xét xử của Tòa án.
Việc xác định địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm trong tố tụng dân sự có ý
nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Bởi điều đó khơng những
góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và
tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói riêng mà cịn góp phần xây dựng
các văn bản pháp luật về Tòa án, về Thẩm phán, HTND cũng như việc hướng dẫn,
chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành Tòa án. Trong TTDS, chế định địa vị pháp lý
của HĐXX không chỉ liên quan và ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án
mà còn liên quan đến những chế định quan trọng khác. Vì thế, có thể nói rằng hiệu
quả của thủ tục TTDS phụ thuộc một phần không nhỏ vào việc xác định đúng đắn
địa vị pháp lý của HĐXX dân sự sơ thẩm. Trong khoa học pháp lý hiện nay, mơ hình
lý luận về địa vị pháp lý của HĐXX trong tố tụng dân sự vẫn chưa được xây dựng
một cách thống nhất, còn nhiều bất cập. Nguyên tắc độc lập xét xử chưa được thực
hiện đầy đủ, vẫn còn nhiều vướng mắc trong hoạt động tố tụng của Thẩm phán,
HTND khi giải quyết các vụ án dân sự, làm cho hiệu quả xét xử của Tòa án chưa
cao.
Chính

của

Hội
vậy,
đồng
học
xét
viên
xử

cao
học

dân
đã
chọn
sự”
đề
đểtrong
tài:
làm
luận
“Địa
văn
vị thạc
pháp
sỹ
của
nhằm
HĐXX
làm
trong
rõnâng
thêm
TTDS,
vị
từtrí,
đóthẩm
đề
vai
xuất
trị,
một

trách
số
kiến
nhiệm,
nghị
quyền
nhằm
hạn
hồn
cách
thiện

các
pháp,
quy
định
của
cao
pháp
hiệu
luật
quả
xét
về
HĐXX
xử
của
Tịa
án.
cơng

cuộc
cải


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự nói chung và trong tố tụng dân sự
nói riêng, đã được đề cập đến trong một số cơng trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau. Có thể kể ra:
- Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân
sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức. Nội dung giáo trình gồm 10 chương với mục đích giới
thiệu những kiến thức cơ bản của tố tụng dân sự đến bạn đọc như: Khái niệm, các
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự; Chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự;
Thẩm quyền của Tòa án; Chứng cứ và chứng minh; các biện pháp khẩn cấp tạm thời;
Thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự trong tố
tụng dân sự. Tại chương VII phần III của Giáo trình tác giả có giới thiệu sơ lược về
phiên tòa sơ thẩm. Ở phần này địa vị pháp lý của HĐXX không được tác giả giới
thiệu một cách cụ thể, mà chỉ được biết đến khi có những quyết định thuộc thẩm
quyền của HĐXX “thì Hội đồng xét xử quyết định...”.
-

Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2016), “Bình luận những điểm mới
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” (Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên),
Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam xuất bản năm 2016. Với
cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã nêu bật lên được những điểm mới của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,
trong đó có địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự. Tuy nhiên, do
cơng trình này nghiên cứu bao quát chưa đi vào chi tiết cũng như thực tiễn thi
hành pháp luật về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự.
Dưới hình thức luận văn thạc sĩ, có những cơng trình nghiên cứu sau:


-

Phương Thảo (2006), Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm,
Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội. Trong công trình này, tác giả
nghiên cứu chủ yếu về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự từ giai đoạn
chuẩn bị cho việc xét xử sau khi có quyết định đưa vụ án xét xử tại phiên tịa
cơng khai cho đến khi ra quyết định, bản án và các thủ tục sau phiên tòa sơ


thẩm. Tác giả khơng phân tích cụ thể quyền và nghĩa vụ của HĐXX sơ thẩm
trong vụ án dân sự theo quy định của pháp luật mà chỉ nghiên cứu những thủ
tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm cùng những bất cập trong từng phần thủ tục.
Mục đích của tác giả chỉ nhằm làm cho người đọc thấy rõ vai trò quan trọng
của việc xét xử vụ án chứ không làm rõ quyền và nghĩa vụ của HĐXX. Để
khắc phục thiếu sót đó, thơng qua luận văn này mà người viết đã phân tích kỹ
quyền và nghĩa vụ của HĐXX khi xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
- Nguyễn Bích Thảo (2008), Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích, làm rõ địa
vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thể hiện trong
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tác giả chỉ ra những điểm tiến bộ so
với các quy định trước đây và những điểm cịn bất cập. Ngồi ra, tác giả đã đưa ra
những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong thực tiễn xét xử. Đến đây người viết thấy rằng
tác giả Bích Thảo chỉ nghiên cứu cụ thể một trong những thành phần phần của
HĐXX là Thẩm phán khi nói về địa vị pháp lý của người này được quy định trong
pháp luật TTDS hiện hành mà chưa đề cập đến địa vị pháp lý của HĐXX nói chung.
Như tên của đề tài thì tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể, trong khi đó địa vị
pháp lý của Thẩm phán được hình thành thơng qua địa vị pháp lý của cả HĐXX. Và
đây cũng là một trong những thiếu sót cần bổ sung.

- Đinh Tiến La (2008), Hồn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về phiên tòa sơ thẩm, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội. Trong phần
nghiên cứu đề này tác giả đã phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các
tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở đó tác giả luận văn đã đưa ra
những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định các quy định của
pháp luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm. Tác giả tập trung phân tích các quy định của
pháp luật về căn cứ làm phát sinh phiên tịa dân sự sơ thẩm và trình tự thủ tục theo


quy định. Tác giả phân tích khá cụ thể về thành phần HĐXX nhưng không nêu được
địa vị pháp lý của HĐXX hay nói cách khác là quyền và nghĩa vụ của HĐXX như
thế nào mà chỉ nêu quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán trước, trong và sau phiên tòa là
chủ yếu.
- Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật Tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả phân tích, bình luận từng vụ việc cụ thể đã
phải xử đi xử lại nhiều lần do vi phạm pháp luật về tố tụng như: Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai; chứng cứ và chứng minh trong việc giải quyết đúng đắn các
vụ việc dân sự; việc xác định người được tham gia tố tụng để bảo đảm cho vụ án
được công bằng; việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo nhu
cầu cấp bách của đương sự trong việc bảo tồn tình trạng tài sản và chứng cứ hoặc để
bảo đảm việc thi hành án... Sau mỗi vụ việc, tác giả đều đưa ra những nhận xét,
những kiến nghị hồn thiện pháp luật. Trong suốt q trình phân tích, bình luận
khơng có phần nào tác giả đề cập đến địa vị pháp lý của HĐXX mà chỉ có tại mục V,
VI tác giả nói đến thẩm quyền áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tịa
thì thẩm quyền thuộc về HĐXX.
Ngồi ra cịn có một số bài viết như tham luận của Tịa phúc thẩm TANDTC
tại Hà Nội (2015) về “Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Thực trạng và một số đề xuất kiến nghị”, Tham
luận tại Hội nghị triển khai cơng tác Tịa án năm 2015 hay báo Cơng lý khi nói về
Hội Thẩm của tác giả Thái Vũ, Trung Thành (2015) về “Phát huy vai trò của Hội
thẩm nhân dân:cần sự quan tâm từ nhiều phía”; Lương Thị Hợp (2010), “Tòa án giữ
vai trò trung tâm trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí tịa án nhân
dân, số 22 tháng 11-2009; Nguyễn Văn Cường (2010), “Một số vướng mắc trong quá
trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hồn thiện”, Tạp
chí tịa án nhân dân, số 01 tháng 01-2010..........................Nhìn chung, trong những
cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đều đề cập đến vấn đề quy định của BLTTDS,


nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và trong phạm vi nghiên cứu khác nhau của từng tác
giả. Các giáo trình, các bài viết, các cơng trình nghiên cứu nói trên chỉ mới nghiên
cứu tổng quát hoặc đi sâu nghiên cứu, phân tích luận giải một số khía cạnh nào đó
của vấn đề. Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm trong
TTDS là rất cần thiết nhằm làm rõ vị rí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX trong
việc xét xử các vụ án dân sự tại cấp sơ thẩm để phục vụ cho nghiên cứu, học tập và
thực tiễn áp dụng pháp luật.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và
thực tiễn về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự trong TTDS, cụ thể như: khái
niệm địa vị pháp lý của HĐXX; đặc điểm, ý nghĩa của quy định HĐXX sơ thẩm dân
sự; nguyên tắc hoạt động của HĐXX sơ thẩm dân sự; thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX. Trên cơ sở đó phân tích, so sánh với một số
quy định của pháp luật để làm rõ bản chất của vấn đề, từ đó đề xuất các phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về HĐXX sơ thẩm dân sự, góp phần thúc
đẩy sự phát triển bền vững Luật TTDS Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự, thực tiễn xây dựng
và áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự; các quy định của

pháp luật có liên quan cũng như các học thuyết, quan điểm luật học của một số nhà
khoa học về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự trong TTDS Việt Nam hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của của chủ nghĩa Mác-Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm của
Đảng cộng sản về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Bên
cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành cũng được sử dụng
một cách phù hợp với nội dung của từng vấn đề trong luận văn:


- Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu ở Mục 1.4 1hương I để so sánh
địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự với HĐXX sơ thẩm hình sự, hành chính.
- Phương pháp phân tích, chứng minh diễn giải và phương pháp tổng hợp
được sử dụng xuyên suốt trong luận văn, cụ thể: Đầu tiên ở Chương 1, các phương
pháp này được sử dụng để thể hiện khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa địa vị pháp lý của
HĐXX sơ thẩm dân sự cũng như sự khác nhau giữa HĐXX sơ thẩm dân sự với
HĐXX sơ thẩm hình sự, hành chính trong suốt q trình nghiên cứu đề tài. Cuối
cùng ở Chương 2, các phương pháp này được sử dụng để thể hiện nội dung địa vị
pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
và các phương pháp này đã một lần nữa phát huy hiệu quả trong việc trình bày những
vướng mắc, bất cập của pháp luật TTDS liên quan đến địa vị pháp lý của HĐXX sơ
thẩm dân sự nhằm đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp thống kê được sử dụng ở Chương 2 để thể hiện số liệu xét xử
sơ thẩm dân sự của Tòa án và đánh giá một số bản án, quyết định đặc trưng của Tòa
án vi phạm quyền và nghĩa vụ của HĐXX sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định
về HĐXX trong BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến địa vị
pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự với các quyền và nghĩa vụ cụ thể sau: Quyền,
nghĩa vụ của HĐXX sơ thẩm dân sự trước khi mở phiên tòa; Quyền, nghĩa vụ của

HĐXX sơ thẩm dân sự tại phiên tòa với các thủ tục cơ bản như: Thủ tục bắt đầu
phiên tòa, thủ tục hỏi, thủ tục tranh luận, thủ tục nghị án và cả thủ tục tuyên án. Lĩnh
vực dân sự là một lĩnh vực pháp luật có nội dung rất rộng và phức tạp, không chỉ bao
gồm các quan hệ mang tính chất dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại,... mà cịn trên nhiều lĩnh vực khác như: Đất đai, lao động, thi hành án dân sự,
giám định, biện pháp khẩn cấp tạm thời... cho nên để HĐXX sơ thẩm dân sự xét xử
đúng đắn thì người được phân công giải quyết cũng phải hiểu biết rõ các lĩnh vực
trên. Nói tóm lại, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa
vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung


nghiên cứu hai nội dung cơ bản về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự đó là:
Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự; Nội dung địa vị
pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
cùng với một số kiện nghị hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm
dân sự.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS
về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự cũng như thực tiễn thực hiện các quy
định này. Từ đó tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật và
đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật góp phần đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của HĐXX trong công tác xét xử sơ thẩm đúng pháp luật.
Giá trị ứng dụng: Luận văn là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo
cho người làm công tác pháp luật, việc học tập chuyên ngành luật về địa vị pháp lý
của HĐXX sơ thẩm dân sự.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung và kết luận, luận văn chia thành hai chương với
nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về địa vị pháp lý Hội đồng xét xử sơ

thẩm dân sự
Chương này giới thiệu chung về địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự. Từ
đó thấy được tầm quan trọng của pháp luật về tố tụng dân sự nói chung cũng như địa
vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự nói riêng trong cơng tác xét xử của Tòa án.
Chương 2: Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật
Chương này tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành mà
chủ yếu là BLTTDS về quyền và nghĩa vụ của HĐXX sơ thẩm dân sự nhằm hạn chế


tối đa các vi phạm về pháp luật tố tụng trong các vụ án tranh chấp về dân sự của
HĐXX. Qua đó người viết cũng đề cập đến tình hình áp dụng pháp luật tố tụng dân
sự đối với địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự hiện nay cùng với những kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
SƠ THẨM DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử sơ thẩm

dân sự
1.1.1.

Khái niệm địa vị pháp lý của hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự


Khái niệm xét xử sơ thẩm.
Tịa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam1. Hệ thống Tòa án hiện nay được tổ chức bao gồm2: Tòa án nhân
dân Tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
Tòa án quân sự. Với hệ thống cấp Tòa án như hiện nay, trong hoạt động tố tụng dân
sự, Tòa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ hai cấp xét xử; giải quyết theo thủ tục giám
đốc thẩm - tái thẩm; và trong những trường hợp đặc biệt Tòa án xem xét lại các quyết
định của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Trong đó nguyên tắc hai cấp
xét xử được áp dụng trong pháp luật tố tụng nói chung, đối với pháp luật tố tụng dân
sự nói riêng.

1Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
2Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.


Xét xử sơ thẩm được xác định như là hoạt động kết thúc của quá trình giải
quyết vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm, tài liệu chứng cứ của vụ án được xem xét một
cách cơng khai tồn diện tại phiên toà. Những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng được trực tiếp nghe lời khai của nhau, tranh luận, chất vấn
những nội dung mâu thuẫn trong q trình giải quyết vụ án. Phiên tịa sơ thẩm được
tiến hành trên cơ sở có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Theo BLTTDS thì việc tổ
chức phiên tòa sơ thẩm cũng đồng nghĩa với việc các đương sự đã không thể
thỏathuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án hoặc đối với các vụ án theo quy
định của pháp luật Tịa án khơng được phép tiến hành hòa giải hoặc những vụ án mà
Tịa án khơng thể tiến hành hịa giải được.
Xét xử sơ thẩm là “Giai đoạn trung tâm của hoạt động tư pháp, khi vụ án
được đưa ra xét xử lần đầu tiên thì HĐXX sơ thẩm phải giải quyết tồn bộ vụ án, mọi
chứng cứ tài liệu đều phải được đưa ra xem xét, thẩm tra, đánh giá công khai tại
phiên tòa. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm tuy chưa có hiệu lực pháp luật ngay nhưng

có rất nhiều Quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm có giá trị thi hành ngay”3. Xét xử sơ
thẩm là hoạt động quan trọng trong TTDS.
Khái niệm hội đồng xét xử sơ thẩm.
Hội đồng xét xử bao gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tịa án có
thẩm quyền lập ra để nhân danh nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án và
ra bản án hoặc quyết định đối với các vụ án4.
Pháp luật quy định cụ thể thành phần của Hội đồng xét xử, Hội đồng xét xử
dân sự sơ thẩm có ba thành viên gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân đối
với vụ án có tính chất đơn giản, thơng thường cả về nội dung cũng như các đương sự
trong vụ án. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc có liên quan đến
chính sách dân tộc, tơn giáo thì Hội đồng xét xử có năm thành viên gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm nhân dân.
Các thành viên Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi
3Trần Huy Liệu (2005), Tìm hiểu pháp luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.89.
4 Trịnh Tất Đạt- Nguyễn Đức Giao “Từ Điển Luật Học”, Nxb Từ Điển Bách Khoa-Tư pháp,


kết thúc. Trong q trình xét xử, nếu có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân không
tiếp tục tham gia xét xử được thì Tịa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán
hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết thay thế. Trong trường hợp khơng có người thay
thế ngay thì Hội đồng xét xử quyết định hỗn phiên tịa. Hội đồng xét xử phải trực
tiếp xác định tình tiết vụ án bằng cách trực tiếp hỏi và nghe ý kiến của các đương sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định,
nghe ý kiến người bào chữa và xem xét vật chứng. Sau khi xem xét những tình tiết
khách quan của vụ án, Hội đồng xét xử tiến hành nghị án và tuyên án. Hội đồng xét
tr.386

xử làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số. Khi xét xử, Hội
thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Các thành viên Hội đồng xét xử


phải giải quyết tất cả vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn
đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số trong Hội đồng xét
xử có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ. Mọi ý
kiến thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử phải được ghi lại bằng biên bản.
Theo Từ điển luật học: “Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong
các hoạt động của mình”. Ví dụ: Địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện
thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ của cơng dân được Hiến pháp và pháp luật quy
định.
Khi nói đến địa vị pháp lý của một cá nhân là nói đến quyền và nghĩa vụ của
cá nhân đó, tương tự như vậy, khi nói về địa vị pháp lý của một tập thể hay một tổ
chức là nói tới quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức đó. Quyền hạn được hiểu là:
“những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện” trong phạm vi không
gian, thời gian, lĩnh vực nhất định. Trách nhiệm được hiểu là: “phần việc được giao
cho, phải bảo đảm làm tròn nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu hậu quả”.
Từ phân tích trên: Địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm dân sự là vị trí của
HĐXX trong mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố


tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử đến khi kết thúc phiên tòa. Địa vị pháp lý của HĐXX sơ thẩm được thể
hiện thông qua tổng thể những quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX trong hoạt động
xét xử sơ thẩm.
1.1.2.

Nguyên tắc.

HĐXX sơ thẩm dân sự được thành lập theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử5.

Thành phần HĐXX sơ thẩm dân sự có thể có một Thẩm phán, hai Hội thẩm, trường
hợp đặc biệt HĐXX sơ thẩm dân sự có thể bao gồm hai Thẩm phán, ba Hội thẩm.
Ngoài thành viên HĐXX chính thức cịn có thành viên HĐXX dự khuyết.
HĐXX có thẩm quyền đặc biệt6 được pháp luật quy định, ngoài chức năng
thực hiện hoạt động xét xử tại phiên Tòa sơ thẩm Dân sự, HĐXX còn được Nhà
nước trao quyền năng đưa ra các quyết định có tính chất quyền lực Nhà nước để giải
quyết vụ án, đồng thời quyền này cũng bị hạn chế trong một giới hạn pháp luật gọi là
phạm vi thẩm quyền. Vậy, phạm vi thẩm quyền xét xử của HĐXX sơ thẩm dân sự
bao gồm:
Một là, theo khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2015 thì HĐXX chỉ giải quyết vụ án
theo nội dung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự.
Hai là, HĐXX chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu
việc thay đổi, bổ sung đó khơng vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu7.
Ba là, trong trường hợp đương sự rút một phần yêu cầu của mình và việc rút
yêu cầu của họ là tự nguyện thì HĐXX xem xét để chấp nhận hay không chấp nhận.
Nếu HĐXX chấp nhận thì chỉ có quyền xét xử trong phạm vi những yêu cầu chưa
được rút (còn giữ lại để giải quyết).
5Mẫu số 47 ban hành kèm theo Nghị Quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017.
6Thái Vũ, Trung Thành (2015), “Phát huy vai trò của Hội thẩm nhân dân:cần sự quan tâm từ nhiều
phía”, Báo Cơng lý, (54), tr.6.
7
u cầu ban đầu là yêu cầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố
của bị đơn, đơn yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.


Thứ ba, được quyền quyết định áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử.
Cùng với việc xét xử các vụ án hình sự, việc xét xử các vụ án dân sự cũng là nhiệm
vụ riêng của cơ quan Tòa án. Và, việc xét xử của cơ quan này được thông qua hoạt
động áp dụng pháp luật của HĐXX theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để

giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự mà không một cơ quan nào, một nhân
viên Nhà nước nào khác ngoài cơ quan Tòa án được phép tiến hành. HĐXX được
Nhà nước giao quyền tiến hành áp dụng pháp luật trong q trình xét xử cũng như
các phán quyết tại tịa. Thông qua các phán quyết, phân xử của HĐXX mà quyền và
lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức được khôi phục, đồng thời với việc buộc
các bên đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình đúng theo quy định
của pháp luật.
Thứ tư, Khi xét xử phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong quá trình áp
dụng pháp luật vào hoạt động xét xử, bên cạnh việc tuân theo những nguyên tắc
chung, thì HĐXX cịn phải tn theo những ngun tắc đặc thù theo quy định của
Hiến pháp. Trong đó có nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” nhằm đảm bảo cho việc ban hành quyết định, bản án của
Tịa án khơng chịu sự chi phối, tác động của bất kỳ nguyên nhân khách quan nào.
Khi xét xử, các thành viên của HĐXX phải sử dụng ý thức chính trị, ý thức pháp
luật, vốn sống thực tiễn, đạo đức cách mạng, kỹ năng nghề nghiệp của chính bản
thân mình để tiến hành các bước, các quy trình nhằm ra bản án, quyết định đúng đắn
nhất, chính xác nhất, cơng bằng nhất.
Thứ năm, xét xử tập thể và quyết định theo đa số: Điều này giúp cho việc
nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, các chứng cứ của vụ việc một cách chi
tiết, thận trọng và khách quan hơn. Quy định này cũng giúp cho việc “chọn luật”
được chính xác, việc xét xử tập thể với thành phần HĐXX ít nhất là ba người, việc
quyết định theo đa số là điều kiện tốt để hỗ trợ và bổ sung kiến thức, kinh nghiệm
cho nhau trong việc tiến hành các thủ tục tại phiên tòa.


1.2.

Ý nghĩa của quy định về địa vị pháp lý của hội đồng xét xử sơ thẩm

dân sự.

Bất cứ một quy định nào của pháp luật cũng đều có những ý nghĩa nhất định.
Trong pháp luật tố tụng dân sự cũng vậy, việc quy định về quyền hạn và trách nhiệm
của HĐXX trong BLTTDS cũng có những ý nghĩa nhất định.
Đối với Tòa án.
Việc quy định quyền hạn và nhiệm vụ của Thẩm phán cũng như HTND để
đảm bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử của HĐXX nói chung và của HĐXX sơ
thẩm vụ án dân sự nói riêng. Như vậy, những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ được xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng, đầy đủ
thơng qua tập thể thành phần HĐXX hoặc Thẩm phán (xét xử rút gọn). Các bước tiến
hành tố tụng một lần nữa được xem xét chặt chẽ, các phán quyết của HĐXX đưa ra
đảm bảo độ chính xác cao. Tịa án hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng án hủy, án
sửa. Kết quả thực hiện các quy định pháp luật trong quá trình xét xử của HĐXX sơ
thẩm dân sự là thể hiện cụ thể vai trò, nhiệm vụ của Tịa án trong việc duy trì trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giúp các quan hệ dân sự phát triển ổn
định và lành mạnh.
Việc quy định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm trong từng thành viên HĐXX
sơ thẩm dân sự sẽ khắc phục được tình trạng Hội thẩm trong phiên tịa xét xử chỉ
tham gia đủ thành phần, đủ số lượng, đồng thời tăng cường tính độc lập trong cơng
tác xét xử giữa Thẩm phán và HTND. Bên cạnh đó nâng cao trách nhiệm cho HĐXX
phải giải quyết vụ án đúng theo quy định về mặt tố tụng và các nguyên tắc riêng có
trong hoạt động xét xử8. Khi xét xử, HĐXX phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ
bản9 và điều quan trọng là phải ln ln xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc
để bảo đảm tính cơng bằng và nghiêm minh trong việc ban hành các bản án, quyết
định. Có như vậy thì Tịa án mới thể hiện được hết vai trị đặc biệt của mình, mới
đúng bản chất nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
8Lương Thị Hợp (2010), “Tòa án giữ vai trị trung tâm trong q trình cải cách tư pháp ở Việt Nam”,
Tạp chí tịa án nhân dân, (22), tr.21.
9Những nguyên tắc chung và những nguyên tắc riêng của HĐXX sơ thẩm được nêu tại mục 1.3.



Đối với đương sự.
Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn của TTDS thể hiện rõ chức năng
xét xử của Tịa án thơng qua HĐXX. Ở đó HĐXX thể hiện một cách cụ thể và đầy đủ
nhất về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, những yêu cầu của đương sự được đưa ra xem xét, kiểm tra và đánh giá tại
phiên tịa cơng khai, từ đó HĐXX quyết định ra bản án hay quyết định khác đúng
theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm HĐXX phải thể hiện rõ địa vị pháp lý
của mình (quyền và nghĩa vụ), phải tuân thủ các nguyên tắc tố tụng nói chung. Ngồi
ra, việc tiến hành xét xử vụ án dân sự của HĐXX sơ thẩm với các thủ tục tố tụng
tương ứng về quyền hạn và trách nhiệm được quy định trong BLTTDS là nhiệm vụ
và là công việc rất riêng của HĐXX. Quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX được
pháp luật quy định trong khuôn khổ nhất định mà cụ thể là: Khi xét xử, HTND ngang
quyền với Thẩm phán và xét xử một cách độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Chính
những quy định như thế đã tạo nên sự chính xác, khách quan phù hợp với quyền lợi
và ý chí của đương sự. Giả sử thành viên của HĐXX khơng có sự độc lập dẫn đến
xét xử theo sự áp đặt của Thẩm phán, sự phụ thuộc, ỷ lại của Hội thẩm. Sự tác động
của các yếu tố bên ngoài HĐXX sẽ dẫn đến quyết định của bản án khơng chính xác
và thiếu khách quan làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Đặc biệt
trong thành phần HĐXX có sự tham gia của HTND bởi Hội thẩm là thành phần quan
trọng với vai trị giúp HĐXX khơng chỉ xử đúng pháp luật mà còn phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt được dư luận quần chúng. Từ đó HĐXX đưa ra
những phán quyết đúng pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.
1.3.

Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự.

Thẩm phán, HTND là những người tiến hành tố tụng và cũng đồng thời là
thành viên HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự. Khi tiến hành xét xử vụ án dân sự, HĐXX
phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLTTDS hiện hành.
Theo Từ điển Luật học thì nguyên tắc cơ bản là “ những nguyên tắc do luật định,

dựa vào đó các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền vận dụng
những văn bản pháp luật, tập quán pháp luật thích hợp nhằm giải quyết công việc


thuộc thẩm quyền”. Ngoài ra, khi xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thì mọi vấn đề liên
quan đến vụ án được HĐXX đặt ra xem xét, đánh giá để xác định quyền và nghĩa vụ
của ác bên đương sự. Vì vậy, việc áp dụng những nguyên tắc cơ bản vào hoạt động
xét xử của HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho hoạt
động xét xử được thực hiện nhanh chóng và tạo điều kiện cho đương sự thực hiện
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự.
Những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTDS là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động trong TTDS. Là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho
nên các nguyên tắc trong TTDS không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng dân sự
mà nó cịn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn 10. Trong đó
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTDS là nguyên tắc bao trùm
nhất. Nguyên tắc này mang ý nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động TTDS theo đó
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan tổ chức liên quan
mà điển hình là HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự phải triệt để tuân theo các quy định của
BLTTDS hiện hành. Việc tuân thủ như thế, nhất là đối với HĐXX có ý nghĩa rất lớn
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án,
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của cơng dân. Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự, những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng cũng như cá nhân, cơ quan,
tổ chức liên quan phải tuân thủ các trình tự, thủ tục, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đúng theo quy định của BLTTDS. Việc vi phạm của những thành viên HĐXX có thể
ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án, thậm chí bản án, quyết định của Tịa án
có thể bị hủy để xét xử lại từ đầu. Hoạt động TTDS là nhằm mục đích bảo vệ cơng
lý, cơng bằng và bình đẳng trong xã hội nên bảo đảm pháp chế trong TTDS là một
nhu cầu tất yếu, khách quan của quá trình giải quyết các vụ án dân sự11.
Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự


10
Trường Đại học luật, (2005), Giáo trình luật Tố tụng dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.123.
11
Hội Luật gia Việt Nam (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức,
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, tr.34.


Nguyên tắc này được quy định tại Điều 103 Hiến pháp 2013, Điều 8 Luật Tổ
chức Tòa án năm 2014 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 11 BLTTDS năm 2015.
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán là một nguyên tắc Hiến định. Vì là một nguyên tắc Hiến định nên
việc xét xử của Tòa án mà khơng có Hội thẩm tham gia thì sẽ khơng chỉ vi phạm luật
tố tụng mà còn vi phạm Hiến pháp. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong xét xử, bởi việc tham gia của Hội thẩm giúp cho Tịa án xét xử khơng chỉ đúng
pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân 12. Hội thẩm có đời sống
chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên Hội thẩm hiểu sâu hơn tâm tư
nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân 13. Với vốn
hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán
ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết
trong q trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng
tình ủng hộ. Ngồi ra, để HĐXX có phán quyết đúng đắn, địi hỏi họ cũng phải có
kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp
luật quy định khi xét xử có HTND tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh
vực đó. Sự tham gia của HTND trong thành phần HĐXX nhằm tăng cường tính dân
chủ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt động
xét xử của Tịa án, đồng thời là hình thức nhân dân thực hiện quyền giám sát của
mình đối với hoạt động của cơ quan nhà nước.
Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử HĐXX phải có HTND tham gia mà
còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, tức là HTND cùng

Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ
tục tố tụng. Mặc dù Hội thẩm khơng phải là cán bộ trong biên chế Tịa án mà là
người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm
đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia
xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu
12
(12), tr.02.
13
38985.html.

Hương Duyên (2014), “Hội thẩm nhân dân khơng thể ngồi cho có”, Báo Người lao động,
/>

chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để
HTND thực sự phát huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân của mình.
Với các quy định nêu trên thì Hội thẩm có địa vị pháp lý và vai trị rất quan
trọng trong cơng tác xét xử vì khi tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa
số trong HĐXX (2/3 hoặc 3/5) và khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán
khi ra các phán quyết về vụ án. Như vậy, khi xét xử nếu ý kiến biểu quyết của các
Hội thẩm là giống nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của HĐXX
phải theo ý kiến của các Hội Thẩm (đa số). Ngược lại, mặc dù là người xét xử có tính
chất chun nghiệp nhưng Thẩm phán cũng chỉ có quyền bảo lưu ý kiến của mình và
đề nghị Tịa án cấp trên xem xét 14. Chính điều này đã thể hiện được nguyên tắc xét
xử của Tòa án là xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này bao gồm hai nội dung có liên quan chặt chẽ khơng thể tách
rời và tác động qua lại với nhau: “xét xử độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”.
Sự độc lập của Thẩm phán và HTND khi xét xử được thể hiện ở hai góc độ:
độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập giữa các thành viên HĐXX với nhau.
Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm

phán và HTND không bị phụ thuộc vào ý chí của cá nhân hay tập thể nào, khơng bị
lệ thuộc vào ai. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, HĐXX phải xem xét,
thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng,
khách quan, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại
phiên tòa15. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét
thẩm tra tại phiên tòa. Khoản 2 Điều 264 BLTTDS 2015 quy định “...Khỉ nghị án chỉ
được căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, các quy định pháp luật nếu vụ án quy định tại khoản 2 Điều 4 Bộ
14
Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội (2015) về “Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Thực trạng và một số đề xuất kiến nghị, Tham luận tại
Hội nghị triển khai cơng tác Tịa án năm 2015,tr.55.
15
Khoản 3 Điều 4 Nghị quyết số 04/2012/NQ - HĐTP hướng dẫn Quy định “Chứng minh và
chứng cứ” của BLTTDS sửa đổi, quy định: Khi vụ án được xét xử thì tại phiên tịa các đương sự vẫn có quyền
bổ sung chứng cứ.


×