Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Pháp luật về đấu giá tài sản qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh bình định (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.68 KB, 61 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN QUỐC ĐẠT

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
••••

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH -NAM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN QUỐC ĐẠT

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ VŨ NAM


TP. HỒ CHÍ MINH - 2019
LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các tài liệu, số liệu trong luận văn là trung thực, có trích dẫn và trích nguồn rõ
ràng.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, nghiên cứu. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu khoa học nào khác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về toàn bộ nội dung của luận văn.
rp L

- -•2
Tác giả

Trần Quốc Đạt


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Thuật ngữ viết đầy đủ

Thuật ngữ viết tắt

Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản

Trung tâm DVĐGTS

Ủy ban nhân dân


UBND


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đấu giá tài sản là một hoạt động có từ lâu đời ở các nước có nền kinh tế phát
triển. Ở nước ta, đấu giá tài sản mới chỉ thực sự bắt đầu hình thành kể từ khi đất
nước ta thực hiện chính sách mở cửa, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy là một loại hình hoạt động khá mới mẻ ở nước ta nhưng
đấu giá tài sản đã và đang được xem như là một phương thức chuyển dịch tài sản
mang tính cơng khai hiệu quả và có nhiều tiềm năng phát triển, ngày càng được
nhiều tổ chức, cá nhân tham gia.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
pháp luật về đấu giá tài sản của Việt Nam từng bước được xây dựng và dần hồn
thiện. Trong đó, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật đấu giá tài sản năm 2016 là những cơ
sở pháp lý quan trọng nhất về hoạt động đấu giá tài sản, từng bước củng cố và hoàn
thiện các quy định về đấu giá tài sản, thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục đấu
giá, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực này. Qua đó, quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ đấu giá được tôn trọng và bảo vệ, giá trị

hàng hóa của tài sản đấu giá được nâng cao, hạn chế được các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực đấu giá tài sản, tạo môi trường giao dịch cạnh tranh, lành mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, những lợi ích mà đấu giá tài sản mang lại
thì hoạt động đấu giá tài sản vẫn còn một số vấn đề bất cập, hạn chế. Trong đó,
nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó là do một số quy định pháp luật về đấu
giá tài sản hiện hành còn chưa rõ ràng, cụ thể, chưa dự liệu hết các tình huống xảy ra
trong thực tiễn; các quy định về xác định giá khởi điểm, giám định tài sản đấu giá,
chủ thể đấu giá tài sản, niêm yết, thông báo công khai, đăng ký tham gia đấu giá, xác
định giá trúng đấu giá và chuyển giao tài sản sau đấu giá còn nhiều hạn chế, bất cập.
Với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong lĩnh vực đấu giá tài sản, giải quyết những bất cập, hạn chế nêu trên, góp phần
hồn thiện pháp luật về đấu giá tài sản, nâng cao hiệu quả hoạt động đấu giá tài sản,


8

tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về đấu giá tài sản qua thực tiễn áp dụng tại
tỉnh Bình Định” làm Luận văn tốt nghiệp cho khóa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
u cầu hồn thiện pháp luật về đấu giá tài sản và nâng cao hiệu quả hoạt
động đấu giá tài sản hiện nay được các cơ quan quản lý nhà nước và nhiều cá nhân,
tổ chức quan tâm. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về
lĩnh vực đấu giá tài sản. Theo tìm hiểu của tác giả, có một số cơng trình nghiên cứu
đã được thực hiện trong thời gian qua như: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Hoàn thiện
pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thực hiện
năm 2011; Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về đấu giá quyền sử dụng
đất ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay” của tác giả Trần Tiến Hải năm 2015; Luận
văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về bán đấu giá từ thực tiễn tại Trung tâm dịch vụ bán
đấu giá tài sản thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đào Hải Quân năm 2012; Luận

văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự” của tác
giả Đặng Xuân Hiệp năm 2017. Một số bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí
khoa học như: Bài “Đấu giá tài sản ở Việt Nam: Thực trạng và hướng phát triển”
của tác giả Hà Thị Lan Anh, trong Tạp chí Nghề luật, số 1/2012; Bài “Một số vấn đề
lý luận về bán đấu giá và pháp luật bán đấu giá” của tác giả Võ Đình Tồn, trong
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Pháp luật bán đấu giá tài sản/2012; Bài
“Hoạt động bán đấu giá tài sản những bất cập và giải pháp” của tác giả Phạm Thị
Liên Hương, trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 10/2015.
Các luận văn, luận án, bài viết nêu trên phần lớn tập trung nghiên cứu vào
từng khía cạnh, thời điểm, phạm vi nhất định, cụ thể: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ
“Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” chỉ nghiên cứu, định hướng về hoạt
động đấu giá trong thể chế kinh tế thị trường, chưa nghiên cứu những hạn chế, bất
cập theo quy định của pháp luật đấu giá tài sản hiện hành; Luận án tiến sĩ luật học
“Thực hiện pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện


9

nay” chỉ tập trung nghiên cứu về đấu giá quyền sử dụng đất, không nghiên cứu tất cả
các loại tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá; Luận văn thạc sĩ
luật học “Pháp luật về bán đấu giá từ thực tiễn tại Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
tài sản thành phố Hồ Chí Minh” chỉ nghiên cứu ở phạm vi tại thành phố Hồ Chí
Minh và những hạn chế bất cập theo quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày
04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, thời điểm nghiên cứu khi
chưa có Luật đấu giá tài sản; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về bán đấu giá tài
sản để thi hành án dân sự” chỉ tập trung nghiên cứu về tài sản để thi hành án dân sự,
không nghiên cứu các loại tài sản khác. Các bài nghiên cứu được đăng tải trên các
tạp chí khoa học của các tác giả Hà Thị Lan Anh, Võ Đình Tồn, Phạm Thị Liên
Hương chỉ nghiên cứu và phân tích ở một góc độ, phạm vi nhất định, chưa bao quát

hết các quy định hiện hành của pháp luật về đấu giá tài sản và thời điểm nghiên cứu
khi chưa có Luật đấu giá tài sản.
Qua một số cơng trình nghiên cứu nêu trên cho thấy pháp luật về đấu giá tài
sản vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu hồn thiện cả về góc độ hệ thống pháp luật
và các quy định cụ thể. Kể từ khi Luật đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực cho đến
nay (Luật đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2017), chưa
có tài liệu, bài viết nào nghiên cứu một cách có hệ thống, cơ bản pháp luật về đấu giá
tài sản nói chung, pháp luật về đấu giá tài sản từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định
nói riêng, đặc biệt là việc phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra
các nguyên nhân, hạn chế, bất cập, từ đó đưa ra các kiến nghị hồn thiện các quy
định của pháp luật về đấu giá tài sản.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề chung về
đấu giá tài sản, nội dung các quy định pháp luật về đấu giá tài sản, thực trạng áp
dụng pháp luật về đấu giá tài sản và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đấu
giá tài sản.
Từ mục tiêu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể
như: Phân tích, đánh giá để làm rõ một số vấn đề chung về đấu giá tài sản; phân tích


10

nội dung các quy định pháp luật về đấu giá tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về đấu giá tài sản qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định để tìm ra những
bất cập, hạn chế, từ đó kiến nghị hồn thiện các quy định của pháp luật về đấu giá tài
sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về
đấu giá tài sản, các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản và thực tiễn áp dụng
pháp luật về đấu giá tài sản.

Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của đề tài luận văn thạc sĩ luật học, tác
giả tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi các quy định của pháp luật tại Việt
Nam về đấu giá tài sản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm,
định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn như:
Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn, đồng
thời với các phương pháp quy nạp, hệ thống các vấn đề cần nghiên cứu ở mức độ
phù hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 02 chương:
Chương 1: Những vẫn đề chung về đấu giá tài sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu giá tài sản qua thực tiễn áp dụng tại
tỉnh Bình Định và kiến nghị hồn thiện.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN


11

1.1.
1.1.1.

Khái quát về đấu giá tài sản
Khái niệm đấu giá tài sản


Đấu giá tài sản là một phương thức bán tài sản có từ lâu đời trên thế giới, hoạt
động này ra đời, duy trì và ngày càng phát triển là do hiệu quả của nó mang lại. Trải
qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, mặt dù đấu giá tài sản có nhiều sự thay đổi
về hình thức, phương thức tổ chức đấu giá nhưng về bản chất vẫn khơng thay đổi.
Dù ở thời kỳ nào thì đây vẫn là hoạt động mua bán tài sản mang tính cơng khai, cạnh
tranh và bình đẳng cao. Ngày nay, việc bán tài sản thông qua phương thức đấu giá đã
được lựa chọn, sử dụng như một phương thức mua bán tài sản thông thường và phổ
biến.
Đấu giá tài sản được hiểu là một phương thức mua bán có tính chất cạnh tranh
về giá được tổ chức công khai tại một địa điểm nhất định, ở đó, người có tài sản đấu
giá đưa tài sản ra bán với một mức giá khởi điểm ban đầu còn người mua lựa chọn
giá mua trong sự cạnh tranh với những người mua khác nhằm mua được tài sản để
phục vụ cho nhu cầu của mình.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Đấu giá là một q trình mua và
bán bằng cách đưa ra món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho
người ra giá cao nhất”1.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Đấu giá là tranh nhau trả giá trong cuộc mua hay
bán có nhiều người dự”2.
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại: “Đấu giá là một kiểu thị trường mà trong
đó người mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả giá theo
giá công bố của người bán”3.
Theo từ điển Luật học: “Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản thơng qua
thủ tục trả giá công khai giữa nhiều người muốn mua và người trả giá cao nhất là
người được quyền mua tài sản”4.
Theo quy của Luật đấu giá tài sản thì: “Đấu giá tài sản là hình thức bán tài
1Wikipedia (2018), Đấu giá, Bách khoa toàn thư mở, />2 Bùi Quang Tịnh & Bùi Thị Tuyết Khanh (2005), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
3 David W. Pearce (1999), Từ điển Kinh tế học hiện đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.



12

sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục
được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49 của Luật này”5 6 và
“Người trúng đấu giá là cá nhân, tổ chức trả giá cao nhất so với giá khởi điểm hoặc
bằng giá khởi điểm trong trường hợp khơng có người trả giá cao hơn giá khởi điểm
khi đấu giá theo phương thức trả giá lên; cá nhân, tổ chức chấp nhận mức giá khởi
điểm hoặc mức giá đã giảm trong trường hợp đấu giá theo phương thức đặt 6
giá xuống” .
Từ những khái niệm đã được đề cập trên, ta có thể hiểu đấu giá tài sản một
cách ngắn gọn như sau: Đấu giá tài sản là một hình thức mua bán tài sản cơng khai,
đặc biệt, có nhiều người tham gia trả giá, được tổ chức theo những nguyên tắc, trình
tự, thủ tục nhất định. Theo đó, những người tham gia đấu giá sẽ trả giá dựa trên giá
khởi điểm do người bán đưa ra, người trả giá đáp ứng điều kiện quy định trước của
cuộc đấu giá là người mua được tài sản đấu giá.
1.1.2.

Đặc điểm đấu giá tài sản

Với bản chất là một hình thức chuyển quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ
thể khác nhưng phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định, đấu giá tài sản có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đấu giá tài sản là hình thức mua bán tài sản cơng khai
Trong các hình thức mua bán tài sản thơng thường, tính cơng khai khơng phải
là một yếu tố mang tính bắt buộc nên mức độ cơng khai hồn tồn tùy thuộc vào ý
chí của người có tài sản đấu giá. Tuy nhiên, đối với việc đấu giá tài sản thì tính cơng
khai là một yếu tố bắt buộc. Tính cơng khai được thể hiện:
Cơng khai về tài sản đấu giá: Các tài sản đưa ra đấu giá phải được thông báo,
niêm yết công khai trước khi đấu giá. Tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm thơng
báo, mơ tả đầy đủ, chính xác về tình trạng, số lượng, chất lượng của tài sản đấu giá.

Ngoài ra, những người tham gia đấu giá được tạo mọi điều kiện thuận lợi để được
xem tài sản trước khi tham gia đấu giá.
Công khai về thời gian, địa điểm, điều kiện, cách thức đăng ký tham gia đấu
5Khoản 2 Điều 5 Luật đấu giá tài sản năm 2016.
6Khoản 8 Điều 5 Luật đấu giá tài sản năm 2016.


13

giá, về thời gian, địa điểm tổ chức cuộc đấu giá, về hình thức đấu giá, phương thức
đấu giá.
Thứ hai, đấu giá tài sản là hình thức mua bán đặc biệt
Đối với việc mua bán tài sản thông thường, quan hệ mua bán được thiết lập
giữa người bán và người mua. Người bán thường có hai phương thức về giá để bán
tài sản. Một là, người bán niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, đều đó có nghĩa là
người mua đã mặc nhiên chấp nhận giá chào bán và khơng có sự trả giá nào khác,
người bán khơng chấp nhận một sự thay đổi nào về giá bán đã niêm yết. Đây là
phương thức bán hàng hiện đại có ở xã hội phát triển, phương thức này được áp dụng
chủ yếu ở các siêu thị, trung tâm mua sắm và ở những đơn vị bán hàng có tổ chức
chặt chẽ. Hai là, người bán hàng chào giá ước lượng và thường giá này cao hơn giá
mà họ dự kiến sẽ bán, hay cịn gọi là “nói thách”, người mua sẽ xem xét và trả giá từ
thấp hơn giá ban đầu rồi trả dần lên cao cho nên sẽ diễn ra một quá trình thương
lượng về giá cả nhưng thông thường giá bán bao giờ cũng thấp hơn giá chào ban đầu.
Phương thức này thường xuất hiện ở các chợ truyền thống ở nước ta. Nhìn chung, cả
hai phương thức trên thì giá bán hàng thực tế thường khơng cao hơn giá đề xuất mà
chỉ bằng hoặc thấp hơn giá đề xuất.
Đối với việc bán tài sản bằng hình thức đấu giá thì người bán có thể định mức
giá khởi điểm. Trường hợp đấu giá bằng phương thức trả giá lên thì những người
mua trả giá tăng dần từ giá khởi điểm, việc trả giá lên có thể được thực hiện nhiều
vòng, nhiều lần, cuối cùng người nào trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm

là người được mua được tài sản. Như vậy, theo hình thức đấu giá, giá bán tài sản có
thể cao hơn rất nhiều so với giá khởi điểm ban đầu, nhiều trường hợp vượt ngồi dự
kiến của người có tài sản đấu giá, điều này tạo nên sự khác biệt giữa bán tài sản theo
hình thức đấu giá so với các hình thức bán tài sản thơng thường khác.
Trường hợp đấu giá bằng phương thức đặt giá xuống thì người chấp nhận mức giá
khởi điểm hoặc giá đã giảm là người mua được tài sản.
Thứ ba, đấu giá tài sản phải được tổ chức theo những nguyên tắc, trình tự, thủ
tục nhất định


14

Trong đấu giá tài sản phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc cơ bản của đấu
giá tài sản, đó là tuân thủ quy định của pháp luật, bảo đảm tính độc lập, trung thực,
cơng khai, minh bạch, cơng bằng, khách quan trong quá trình đấu giá tài sản, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Việc đấu giá tài sản phải tuân thủ theo đúng các trình tự, thủ tục theo quy định
pháp luật như phải thông báo, niêm yết công khai về tài sản bán đấu giá, giá khởi
điểm, về việc xem tài sản đấu giá, đăng ký tham gia đấu giá, tiền đặt trước, hình
thức, phương thức đấu giá.
Thứ tư, đấu giá tài sản là một phương thức mua bán cạnh tranh về giá
Thông qua hoạt động tổ chức cuộc đấu giá, người có tài sản đấu giá mong
muốn sẽ bán được tài sản với giá cao nhất, còn những người tham gia đấu giá có sự
cạnh tranh về giá với nhau, trong nhiều trường hợp sự cạnh tranh về giá rất quyết liệt
để giành được quyền mua tài sản.
Tùy thuộc vào đối tượng tài sản, mục đích và điều kiện của mỗi cuộc đấu giá
mà người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản, người điều hành cuộc đấu giá sẽ
lựa chọn thực hiện theo phương thức trả giá lên hay phương thức đặt giá xuống nhằm
mang lại hiệu quả cao nhất cho cuộc đấu giá.
1.1.3.


Vài trò của đấu giá tài sản

- Việc mua bán tài sản bằng phương thức đấu giá mang lại lợi ích cho các bên
tham gia đấu giá. Nó tạo cơ hội bình đẳng cho những người tham gia đấu giá cùng
nhau trả giá, qua đó xác định được một mức giá cạnh tranh nhất mà có lợi cho các
bên. Nhờ hoạt động đấu giá tài sản mà tài sản được đưa đến tay người mua có tiềm
năng nhằm xác định giá trị thực của chúng. Đấu giá tài sản giúp cho hoạt động mua
bán tài sản trên thị trường diễn ra nhanh chóng, thúc đẩy sự trao đổi, mua bán hàng
hóa trong giao lưu dân sự.
-

Đấu giá tài sản được thực hiện theo một trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật nên đảm bảo được tính cơng khai, khách quan, cơng bằng, ngăn
ngừa được những hành vi tiêu cực gây thiệt hại cho người có tài sản đấu giá,
người mua được tài sản đấu giá và các chủ thể khác có liên quan.


15

-

Đấu giá tài sản có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, là một
trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể
này sang chủ thể khác, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt
động mua bán, trao đổi hàng hóa nói riêng phát triển một cách đa dạng.

1.2.

Sơ lược về sự hình thành và phát triển đấu giá tài sản ở nước ta


Ở nước ta, việc đấu giá tài sản do các hỗ giá viên thực hiện đã có từ thời Pháp
thuộc. Sau Cách mạng tháng Tám, chức danh hỗ giá viên tiếp tục được quy định
trong Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp 7, việc đấu giá tài sản
trong thời kỳ này tạm thời được giữ nguyên như trước 8. Về sau, hoạt động đấu giá tài
sản chủ yếu liên quan đến phát mại tài sản để thi hành án (Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 quy định về việc phát mại tài sản theo lệnh của Tòa án và Thơng tư 04NCPL ngày 14/4/1966 của Tịa án nhân dân tối cao quy định về việc Tòa án kê biên,
phát mại tài sản để thi hành án).
Dấu mốc cho hoạt động đấu giá tài sản ở nước ta bắt đầu phát triển khi nhà
nước thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định về bán đấu giá đầu tiên
hình thành do yêu cầu thi hành án dân sự về xử lý tài sản thi hành án. Năm 1989, Hội
đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự, trong đó có quy định về trình
tự, thủ tục đấu giá tài sản đã kê biên để thi hành án. Năm 1994, Pháp lệnh Thi hành
án dân sự được ban hành mới thay thế cho Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989
đã bổ sung thêm một số quy định về bán đấu giá tài sản thi hành án.
Bộ Luật Dân sự năm 1995 là một văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh các
quan hệ dân sự trong đó có quan hệ về đấu giá tài sản. Bộ Luật Dân sự năm 1995
giao cho Chính phủ ban hành quy chế bán đấu giá, trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 86/1996/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 về việc ban hành quy chế
bán đấu giá tài sản (Nghị định số 86/1996/CP). Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành
đầu tiên điều chỉnh về lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Có thể nói, hoạt động đấu giá tài
7Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ cá nhân, về
dân sự, thương sự, hình sự, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại.. .trong đó có hỗ giá viên.
8Nghị định số 83-TP/NĐ ngày 27/02/1946 của Bộ Tư pháp quy định những luật lệ hiện hành về hỗ giá viên
tạm thời giữ nguyên như cũ.


16


sản chuyên nghiệp ở nước ta được hình thành từ năm 1997 trên cơ sở của Bộ luật
Dân sự và Nghị định số 86/1996/CP. Từ đây hoạt động bán đấu giá đã dần trở nên sơi
động có nhiều người tham gia, hiệu quả của hoạt động bán đấu giá ngày càng được
khẳng định với giá trị tài sản đấu giá tăng hơn so với giá trị định giá ban đầu, khẳng
định ưu thế và hiệu quả của đấu giá trong đời sống kinh tế, dân sự. Nghị định số
86/1996/CP là văn bản pháp luật quan trọng đặt nền móng cho dịch vụ đấu giá trong
nền kinh tế thị trường, nhưng do ban hành trong những năm đầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên Nghị định đã không thể tránh khỏi những
bất cập, hạn chế cần thay đổi cho phù hợp với thực tế.
Ngày 18 tháng 01 năm 2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản (Nghị định số 05/2005/NĐ-CP) được ban hành thay thế Nghị
định số 86/1996/CP. Nghị định này là văn bản pháp luật chuyên ngành, là cơ sở pháp
lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với quá trình tổ chức thực hiện Nghị
định số 05/2005/NĐ-CP thì các cơ quan Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật cùng điều chỉnh hoạt động đấu giá tài sản như Bộ luật Dân sự năm
2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Quản lý và sử dụng tài sản nhà nước năm
2008, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2008, Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về bán đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử
dụng đất hoặc cho thuê đất... Do đó, dù việc thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
đã đạt được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc củng
cố và phát triển các tổ chức bán đấu giá tài sản trong cả nước, góp phần thống nhất
pháp luật về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thì hoạt động bán đấu giá tài sản ở
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập do hệ thống pháp luật còn chồng chéo, mâu
thuẫn về trình tự, thủ tục bán đấu giá, hiện tượng tổ chức bán đấu giá gây khó khăn
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành và áp dụng pháp luật, tình trạng
thiếu chặt chẽ của các quy định pháp luật đã tạo kẽ hở, dẫn đến các tiêu cực như
thơng đồng, dìm giá, làm thất thốt tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền, lợi



17

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do vậy, yêu cầu thay thế Nghị định số
05/2005/NĐ-CP là sự cần thiết khách quan, để thiết lập cơ sở pháp lý chặt chẽ, thống
nhất, đồng bộ hơn cho hoạt động bán đấu giá tài sản.
Để hoàn thiện hơn các quy định về bán đấu giá tài sản, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản, ngày 04 tháng 3 năm 2010 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản (Nghị định số
17/2010/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP và Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06 tháng 12 năm 2010 quy định chi tiết và hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (Thông tư số 23/2010/TT-BTP). Những
văn bản này lần đầu tiên quy định khá rõ phạm vi điều chỉnh pháp luật về bán đấu
giá tài sản, các nguyên tắc, phương thức, trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản, người
bán đấu giá, quản lý nhà nước về bán đấu giá. Nghị định số 05/2005/NĐ- CP và
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP đã và đang đi vào thực tiễn đời sống xã hội của đất
nước, là quy phạm chuyên nghành quan trọng về đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới
gắn với xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường trong bối cảnh chủ động hội
nhập quốc tế, hoạt động đấu giá tài sản đã bọc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: chất
lượng dịch vụ đấu giá chưa hiệu quả, còn tồn tại tình trạng “qn xanh, qn đỏ”,
thơng đồng dìm giá trong các phiên đấu giá; chưa có cơ chế hữu hiệu kiểm soát việc
đấu giá, nhất là đấu giá tài sản nhà nước; việc bàn giao tài sản cho người mua được
tài sản bán đấu giá đối với một số tài sản như tài sản thi hành án, tài sản bảo đảm cịn
gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng người mua được tài sản bán đấu giá ngay
tình chịu nhiều rủi ro, quyền lợi hợp pháp bị ảnh hưởng do không nhận được tài sản
trúng đấu giá; chất lượng đội ngũ đấu giá viên tuy đã được cải thiện nhưng trình độ
chun mơn, kỹ năng hành nghề cịn hạn chế; doanh nghiệp đấu giá tài sản có sự
phát triển về số lượng nhưng tổ chức và hoạt động chưa chuyên nghiệp, quy mô nhỏ,
cơ sở vật chất yếu kém; công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản hiệu quả chưa

cao, việc xử lý các vi phạm chưa nghiêm, chưa kịp thời.
Trước thực tế đó, nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống nhất cho hoạt động


18

đấu giá tài sản, khắc phục những mặt còn tồn tại, hạn chế, Quốc hội đã ban hành
Luật đấu giá tài sản năm 2016. Luật đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2017 là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động đấu giá tài sản,
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa cao, góp
phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời kỳ mới.
1.3.
1.3.1.

Quy định của pháp luật về đấu giá tài sản
Tài sản đấu giá

Tài sản để đấu giá rất đa dạng, theo quy định tại Điều 451 Bộ luật dân sự năm
2015 thì tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo
quy định của pháp luật.
Tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá theo quy định tại
khoản 1 Điều 4 Luật đấu giá tài sản, bao gồm: Tài sản nhà nước theo quy định của
pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản được xác lập quyền sở hữu
toàn dân theo quy định của pháp luật; tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo
đảm; tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; tài sản là
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản kê
biên để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản là hàng dự trữ quốc gia theo quy định

của pháp luật về dự trữ quốc gia; tài sản cố định của doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp; tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy
định của pháp luật về phá sản; tài sản hạ tầng đường bộ và quyền thu phí sử dụng tài
sản hạ tầng đường bộ theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng và khai thác
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; tài sản là quyền khai thác khoáng sản theo quy
định của pháp luật về khoáng sản; tài sản là quyền sử dụng, quyền sở hữu rừng sản
xuất là rừng trồng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; tài sản là
quyền sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định của pháp luật về tần số vô tuyến


19

điện; tài sản là nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức mà Nhà
nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức
tín dụng theo quy định của pháp luật; tài sản khác mà pháp luật quy định phải bán
thơng qua đấu giá.
Ngồi các tài sản pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá cịn có tài sản
thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tự nguyện lựa chọn bán thông qua đấu giá9.
1.3.2.

Các nguyên tắc cơ bản của đấu giá tài sản

Để thực hiện một cuộc đấu giá tài sản thành cơng, trước tiên cuộc đấu giá tài
sản đó phải tn theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công
bằng, khách quan, trung thực của cuộc đấu giá, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực
gây thiệt hại cho người có tài sản đấu giá, người mua tài sản đấu giá và các chủ thể
khác có liên quan. Theo quy định của Luật đấu giá tài sản thì việc đấu giá tài sản
thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ quy định pháp luật

Tuân thủ pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong
đấu giá tài sản, bởi vì có tuân thủ nguyên tắc này thì hoạt động đấu giá mới đảm bảo
sự trung thực, minh bạch, khách quan, công bằng cho các bên tham gia đấu giá. Bất
kỳ hoạt động nào liên quan đến đấu giá tài sản đều phải tuân thủ quy định pháp luật.
Nguyên tắc tuân thủ quy định pháp luật buộc các bên tham gia trong quan hệ
đấu giá tài sản phải nghiêm chỉnh chấp hành theo quy định của pháp luật, không vi
phạm các hành vi bị nghiêm cấm của pháp luật về đấu giá tài sản.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm tính độc lập, trung thực, cơng khai, minh bạch,
cơng bằng, khách quan
Tính độc lập trong đấu giá tài sản: Trong tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản,
tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan
phải thực hiện công việc một cách vô tư mà không chịu những hạn chế, những ảnh
hưởng không phù hợp, dụ dỗ, sức ép, đe dọa hay can thiệp, cản trở sai trái, trực tiếp
hay gián tiếp từ bất cứ một nguồn nào hay vì bất cứ một lý do nào. Nguyên tắc này
buộc các bên tham gia trong quan hệ đấu giá tài sản phải độc lập và tuân theo pháp
9Khoản 2 Điều 4 Luật đấu giá tài sản năm 2016.


20

luật.
Tính cơng khai, minh bạch, cơng bằng trong đấu giá tài sản: Đấu giá là hình
thức mua bán cơng khai dựa trên cơ sở cạnh tranh về giá để chọn người mua tài sản,
nên mọi vấn đề liên quan đến cuộc đấu giá và những thông tin về tài sản bán đấu giá
phải được công khai cho tất cả những người tham gia đấu giá biết bằng các hình thức
như niêm yết, thông báo công khai về tên, số lượng, chất lượng của tài sản đấu giá,
trưng bày, giới thiệu về tài sản, giá khởi điểm của tài sản đấu giá, về thời gian, địa
điểm xem tài sản đấu giá, thời gian, địa điểm bán hồ sơ tham gia đấu giá, thời gian,
địa điểm, điều kiện, cách thức đăng ký tham gia đấu giá, thời gian, địa điểm tổ chức
đấu giá, hình thức đấu giá, phương thức đấu giá. Mọi cuộc đấu giá tài sản phải được

thực hiện một cách công khai, minh bạch, bảo đảm sự công bằng cho các bên tham
gia.
Nguyên tắc trung thực, khách quan trong bán đấu giá: Người có tài sản đấu
giá, tổ chức đấu giá tài sản, người điều hành cuộc đấu giá phải thơng tin đầy đủ,
chính xác về thời gian, địa điểm tổ chức đấu giá, về tài sản đấu giá và các giấy tờ có
liên quan đến tài sản đấu giá, những đặc điểm của tài sản, các giấy tờ xác định tính
pháp lý của tài sản. Người có tài sản đấu giá cần phải trung thực khi xác định giá
khởi điểm của tài sản, không đưa ra mức giá khởi điểm quá cao so với giá trị thực tế
của tài sản, cũng như khơng gây khó khăn cho việc đăng ký tham gia đấu giá.
Yêu cầu về tính trung thực, khách quan còn thể hiện ở việc pháp luật quy định
những người có địa vị pháp lý hay hồn cảnh đặc biệt mà sự tham gia của họ vào
cuộc đấu giá có ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan của cuộc đấu giá thì khơng
được tham gia đấu giá như: Người làm việc trong tổ chức đấu giá tài sản thực hiện
cuộc đấu giá; cha, m , vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của đấu giá viên
điều hành cuộc đấu giá; người trực tiếp giám định, định giá tài sản; cha, m , vợ,
chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người trực tiếp giám định, định giá tài
sản; người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền xử lý tài sản, người có quyền quyết
định bán tài sản, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, người có quyền quyết
định bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật và cha, m , vợ, chồng,


21

con, anh ruột, chị ruột, em ruột của những người này; người khơng có quyền mua tài
sản đấu giá theo quy định của pháp luật áp dụng đối với loại tài sản đó; người khơng
có năng lực hành vi dân sự, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người tại thời điểm đăng
ký tham gia đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Thứ ba, nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu
giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ

chức đấu giá tài sản, đấu giá viên
Trong quan hệ đấu giá tài sản thì quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên
phải được tơn trọng và đảm bảo. Người có tài sản đấu giá có quyền xác định giá khởi
điểm của tài sản, có quyền yêu cầu tổ chức đấu giá thanh toán đầy đủ tiền bán tài sản
khi cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu tổ chức đấu giá tài sản hoặc
những người có liên quan có hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Người mua tài sản có quyền xem tài sản, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin về
tài sản, được tự trả giá mua tài sản, được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản sau khi
trúng đấu giá và thực hiện xong nghĩa vụ thanh tốn tiền mua tài sản. Người mua có
quyền trả lại tài sản và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại nếu chất lượng tài sản không
đúng như thông báo. Tổ chức đấu giá tài sản được thu của người có tài sản đấu giá
thù lao dịch vụ đấu giá tài sản và các khoản chi phí khác cho việc tổ chức đấu giá tài
sản theo quy định hoặc theo thỏa thuận giữa các bên.
Thứ tư, nguyên tắc cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành, trừ trường
hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện
Đấu giá viên là một chức danh bổ trợ tư pháp được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, đấu giá viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn và
điều kiện theo quy định.
Trong quá trình hành nghề đấu giá, có những hoạt động chỉ mình đấu giá viên
trực tiếp thực hiện, có hoạt động đấu giá viên giữ vai trị chính, hướng dẫn và phối
hợp với nhân viên khác cùng thực hiện. Có thể nói đấu giá viên giữ vai trị vị trí
trung tâm, vai trò nòng cốt trong hoạt động đấu giá tài sản. Mọi cuộc bán đấu giá đều


22

phải do đấu giá viên điều hành và đấu giá viên là người chịu trách nhiệm toàn bộ về
cuộc đấu giá. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, ngồi trình độ kiến thức,
hiểu biết pháp luật, đấu giá viên phải có trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
Với những yêu cầu đặt ra đối với đấu giá viên, việc pháp luật quy định cuộc

đấu giá phải do đấu giá viên điều hành nhằm đảm bảo cho cuộc đấu giá được thực
hiện theo đúng trình tự, thủ tục, nâng cao hiệu quả cuộc bán đấu giá, hạn chế đến
mức thấp nhất những vi phạm pháp luật xảy ra trong hoạt động đấu giá tài sản.
1.3.3.

Chủ thể tham gia quan hệ đấu giá tài sản

- Tổ chức đấu giá tài sản:
Thực hiện chủ trương tiếp tục xã hội hóa, chuyên nghiệp hóa tổ chức đấu giá
tài sản, Luật đấu giá tài sản xác định rõ các tổ chức đấu giá tài sản chuyên nghiệp
gồm có Trung tâm DVĐGTS và doanh nghiệp đấu giá tài sản. Trung tâm DVĐGTS
và doanh nghiệp đấu giá tài sản bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đấu giá
các loại tài sản.
Trung tâm DVĐGTS do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập và là đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát
triển dịch vụ đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường, Luật đấu giá tài sản quy
định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh xem xét, phê duyệt đề án thực hiện cơ chế tự
chủ đối với Trung tâm DVĐGTS, đề án chuyển đổi Trung tâm DVĐGTS thành
doanh nghiệp trong trường hợp khơng cần thiết duy trì Trung tâm, đề án giải thể
Trung tâm DVĐGTS trong trường hợp khơng có khả năng chuyển đổi Trung tâm
thành doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản, Luật đấu giá tài sản quy định doanh
nghiệp đấu giá tài sản chỉ được thành lập, tổ chức và hoạt động dưới hình thức doanh
nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh. Điều kiện đăng ký hoạt động của doanh
nghiệp đấu giá tài sản đối với doanh nghiệp đấu giá tư nhân thì chủ doanh nghiệp
phải là đấu giá viên, đồng thời là giám đốc doanh nghiệp. Đối với công ty đấu giá
hợp danh phải có ít nhất một thành viên hợp danh là đấu giá viên, tổng giám đốc
hoặc giám đốc của công ty đấu giá hợp danh là đấu giá viên. Doanh nghiệp đấu giá



23

tư nhân, cơng ty đấu giá hợp danh phải có trụ sở, cơ sở vật chất, các trang thiết bị cần
thiết bảo đảm cho hoạt động đấu giá tài sản.
Ngoài hai tổ chức đấu giá tài sản chuyên nghiệp nói trên, việc đấu giá tài sản
cịn có Hội đồng đấu giá tài sản và tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do
Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, Hội đồng đấu
giá tài sản chỉ được thành lập để đấu giá tài sản trong trường hợp luật quy định việc
đấu giá tài sản do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện hoặc không lựa chọn được tổ
chức đấu giá tài sản để tổ chức đấu giá tài sản. Đối với tổ chức mà Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng chỉ
được đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định.
- Đấu giá viên:
Đấu giá viên là người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, trong hoạt động
nghề nghiệp đấu giá viên phải hành nghề tại Trung tâm DVĐGTS, doanh nghiệp đấu
giá tài sản hoặc tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành
lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.
Để trở thành đấu giá viên, trước hết phải là công dân Việt Nam thường trú tại
Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng tốt
nghiệp đại học hoặc trên đại học thuộc một trong các chuyên ngành luật, kinh tế, kế
tốn, tài chính, ngân hàng, đã tốt nghiệp khóa đào tạo nghề đấu giá và phải đạt yêu
cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá. Người tham gia khóa đào tạo nghề
đấu giá phải có thời gian làm việc trong lĩnh vực được đào tạo từ 03 năm trở lên, thời
gian khóa đào tạo nghề đấu giá là 06 tháng và người hoàn thành khóa đào tạo nghề
đấu giá được cơ sở đào tạo nghề đấu giá cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo
nghề đấu giá. Sau khi được cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề đấu giá thì
họ phải tập sự hành nghề đấu giá tại tổ chức đấu giá tài sản với thời gian tập sự 06
tháng, khi hoàn thành thời gian tập sự được tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề đấu giá và nếu đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá thì mới
được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá. Người có chứng chỉ hành nghề đấu giá được

Sở Tư pháp cấp thẻ đấu giá viên theo đề nghị của tổ chức đấu giá tài sản nơi người


24

đó hành nghề để hành nghề đấu giá. Đấu giá viên được hành nghề trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.
- Người có tài sản đấu giá:
Người có tài sản đấu giá là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở
hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu giá
theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
- Người tham gia đấu giá và người trúng đấu giá:
Người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia đấu giá
để mua tài sản đấu giá theo quy định pháp luật. Người trúng đấu giá là cá nhân, tổ
chức trả giá cao nhất so với giá khởi điểm hoặc bằng giá khởi điểm trong trường hợp
khơng có người trả giá cao hơn giá khởi điểm khi đấu giá theo phương thức trả giá
lên. Cá nhân, tổ chức chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá đã giảm trong
trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống.
1.3.4.

Trình tự, thủ tục đấu giá tài sản

Theo quy định hiện hành thì trình tự, thủ tục đấu giá tài sản bao gồm những
nội dung sau: Ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, niêm yết thông báo công khai
tài sản đấu giá, đăng ký tham gia đấu giá tài sản, tổ chức cuộc đấu giá tài sản, thông
báo kết quả đấu giá, ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, phê duyệt kết quả đấu
giá tài sản và bàn giao tài sản sau đấu giá.
- Ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản:
Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản được ký kết giữa tổ chức đấu giá tài sản và
người có tài sản đấu giá. Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là sự thỏa thuận giữa các

bên, theo đó tổ chức đấu giá cung cấp dịch vụ đấu giá cho người có tài sản đấu giá.
Tổ chức đấu giá có nghĩa vụ thực hiện việc đấu giá tài sản và được nhận thù lao dịch
vụ đấu giá và các chi phí đấu giá tài sản theo thỏa thuận. Trường hợp đấu giá đối với
những tài sản mà pháp luật quy định bắt buộc phải bán đấu giá thì thù lao dịch vụ
đấu giá được xác định theo cơ chế giá dịch vụ theo khung do Bộ Tài chính quy định.
Người có tài sản đấu giá có quyền lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch
vụ bán đấu giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất mà chi phí bỏ ra thấp nhất.


25

Khi ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá có trách
nhiệm cung cấp cho tổ chức đấu giá tài sản bằng chứng chứng minh quyền sở hữu,
quyền sử dụng hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp luật và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về bằng chứng đó. Cịn tổ chức đấu giá tài sản có trách
nhiệm kiểm tra thông tin về quyền được bán tài sản do người có tài sản đấu giá cung
cấp. Tổ chức đấu giá tài sản không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản
đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu giá tài sản khơng thơng báo đầy đủ, chính xác
cho người tham gia đấu giá những thông tin cần thiết có liên quan đến giá trị, chất
lượng của tài sản đấu giá theo hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản.
- Niêm yết, thông báo công khai tài sản đấu giá:
Tổ chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản là động sản tại trụ
sở của tổ chức mình, nơi trưng bày tài sản và nơi tổ chức cuộc đấu giá ít nhất là 07
ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá. Đối với tài sản là bất động sản thì tổ
chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở của tổ chức mình,
nơi tổ chức cuộc đấu giá và UBND cấp xã nơi có bất động sản đấu giá ít nhất là 15
ngày trước ngày mở cuộc đấu giá. Tổ chức đấu giá tài sản phải lưu tài liệu, hình ảnh
về việc niêm yết đấu giá tài sản trong hồ sơ đấu giá. Trường hợp niêm yết tại UBND
cấp xã nơi có bất động sản đấu giá thì tổ chức đấu giá tài sản lưu tài liệu, hình ảnh về
việc niêm yết hoặc lập văn bản có xác nhận về việc niêm yết của UBND cấp xã.

Ngồi niêm yết việc đấu giá tài sản thì đối với tài sản đấu giá là động sản có
giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài
sản phải thơng báo cơng khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của trung ương
hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin
điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản, mỗi lần thơng báo cơng khai phải cách nhau
ít nhất 02 ngày làm việc. Trường hợp đấu giá theo thủ tục rút gọn thì tổ chức đấu giá
tài sản cũng phải thơng báo cơng khai ít nhất một lần việc đấu giá tài sản đó. Thời
hạn thơng báo cơng khai được tính từ lần thơng báo thứ hai trở đi.
Kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến ngày mở cuộc đấu giá, tổ
chức đấu giá tài sản phải tổ chức cho người tham gia đấu giá được xem trực tiếp tài


×