Tải bản đầy đủ (.docx) (190 trang)

Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.5 KB, 190 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
••••
-----000- - -

NGUYỄN QUẾ DIỆU

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
7 •


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
••


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

••••

-----000- - NGUYỄN QUẾ DIỆU

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG
CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
7 •

Ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 9229001


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

••
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. HỒ ANH DŨNG
2. TS. THÂN NGỌC ANH
Cán bộ phản biện độc lập:
1. PGS, TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
2. PGS, TS. NGUYỄN NGỌC KHÁ
Cán bộ phản biện:
1. PGS, TS. LƯƠNG MINH CỪ


2. PGS, TS. NGUYỄN THANH
3. PGS, TS. VŨ ĐỨC KHIỂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận án này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ hết sức
quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Hồ Anh Dũng và
TS. Thân Ngọc Anh đã tận tâm hướng dẫn khoa học trong quá trình học tập,
nghiên cứu, thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể quý thầy cô trong Khoa Triết học,
Phòng Sau Đại học thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng như Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Trường Đại học Trần Đại Nghĩa, Ban Chủ nhiệm Khoa KHXH&NV - Trường
Đại học Trần Đại Nghĩa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Tôi xin được biết ơn đến tồn thể những người thân trong gia đình, anh

chị, em, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn là điểm tựa vững chắc để tơi hồn thành
cơng trình này.
TP.HCM, ngày tháng 06 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NGUYỄN QUẾ DIỆU
LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tơi nghiên cứu và thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng và TS. Thân Ngọc Anh. Kết quả nghiên
cứu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố. Các tài liệu sử dụng
trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN QUẾ DIỆU


MỤC LỤC

Trang

Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG

1.2.1.
Quan niệm về nhân, nghĩa trong đạo đức truyền thống Việt
Nam 95
1.2.2.


Biểu hiện của tư tưởng nhân, nghĩa trong ca dao, tục ngữ

Việt Nam 99
1.3.

TINH THẦN ĐOÀN KẾT VÀ ĐỨC TÍNH TRUNG THỰC,

CẦN CÙ, TIẾT KIỆM CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG CA
DAO, TỤC

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ... 128
3.1....ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG CA DAO, TỤC
NGỮ VIỆT NAM ............................................................................. 129
3.1.2.......................................................................................................


3.1.1. Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam vừa mang tính
khái quát, vừa mang tính cụ thể
3.1.3.

130


7

3.1.4. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
3.1.5. Việt Nam là một dân tộc có lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, có

một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác
nhau. Trong suốt quá trình phát triển của mình, các thế hệ con Lạc cháu Hồng
đã trải qua những giai đoạn đấu tranh dựng nước và giữ nước hết sức hào
hùng, tạo nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Với truyền thống tương thân, tương
ái, đoàn kết trong đấu tranh chống chọi với thiên tai cũng như với các thế lực
ngoại xâm, các thế hệ người Việt đã sáng tạo ra nhiều giá trị vật chất, tinh thần
phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của toàn xã hội, trong đó có văn học dân
gian nói chung và ca dao, tục ngữ nói riêng.
3.1.6. Ca dao, tục ngữ của người Việt Nam là một bộ phận của văn học
dân gian, do đông đảo quần chúng nhân dân sáng tác và được lưu truyền trong
dân gian chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Ca dao, tục ngữ có những
đóng góp hết sức to lớn đối với đời sống tinh thần của nhân dân trong suốt
chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, là những “hịn ngọc q”
(Hồ Chí Minh, 2011k, tr. 559) bởi nó ra đời và phát triển cũng khơng nằm
ngồi mục đích nâng cao đời sống tinh thần, đồng thời cũng thơng qua đó
nhằm giáo dục con người hướng đến những giá trị sống tốt đẹp, góp phần giúp
cho các cá nhân trong xã hội định hình khn mẫu, lối sống, nhân cách của con
người Việt Nam từ trước tới nay.
3.1.7. Như trên đã đề cập, ca dao, tục ngữ Việt Nam là những sáng tác
mang tính tập thể của đơng đảo quần chúng nhân dân lao động trong xã hội
truyền thống, có sức sống lâu bền, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và được
phổ biến, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dù mang những sắc thái
khác nhau, nhưng ca dao, tục ngữ đều ra đời và phát triển trong quá trình quan


8

hệ với tự nhiên, trong quá trình tổ chức lao động, sản xuất và trong cuộc sống,
sinh hoạt cộng đồng. Mục tiêu được truyền đạt trong nội dung của ca dao, tục
ngữ chính là ở chỗ: thơng qua nó, nhằm hướng con người đến cái chân, thiện,

mĩ, sống với nhau có nghĩa, có tình hơn.
3.1.8...........................................................................................Ngồi việc
biểu hiện đời sống tình cảm, ca dao, tục ngữ còn bao hàm cả quan điểm, năng
lực nhận thức, thái độ hành vi, cách thức điều chỉnh hành vi của con người nói
chung cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội.................................... của đông
3.1.9. đảo quần chúng nhân dân. Thơng qua đó, con người nhận thức được cái
gì mình nên làm, nên tránh, góp phần cùng với các thiết chế xã hội khác trong
việc quản lý, duy trì xã hội, nhờ đó mà trật tự xã hội ổn định, tốt đẹp hơn.
3.1.10.

Ca dao, tục ngữ đã đồng hành cùng quá trình phát triển của

đất nước ta từ trước đến nay và ẩn chứa bên trong nội dung của nó là các quan
điểm, tư tưởng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong đó,
tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ đã góp phần to lớn trong việc tạo dựng
các khn mẫu, chuẩn mực, giá trị nhằm nâng cao nhận thức, giáo dục, điều
chỉnh hành vi của con người, nhất là ứng xử giữa con người với con người,
giúp cho con người sống với nhau hịa thuận, duy trì trật tự và quản lý xã hội
một cách tốt hơn.
3.1.11..............Trải qua quá trình hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nền tảng vững chắc để xây
dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên, bộ mặt đất nước có nhiều thay
đổi theo hướng tiến bộ

, được các nước trên thế giới đánh giá cao. Trên lĩnh

vực
3.1.12.


văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng, Nghị quyết

Trung ương V, khóa VIII của Đảng ta đã xác định r các mục tiêu, trong đó:
3.1.13.

“ ây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,


9

đậm đà bản sắc dân tộc” nhằm “phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 1998, tr. 55) .
3.1.14.

Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền

kinh tế hàng hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta đang làm cho nền kinh tế phát
triển nhanh chóng, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Song, nền
kinh tế thị trường cũng ngày càng cuốn hút con người vào cuộc mưu sinh, đua
tranh làm giàu, khiến nhiều người làm cha mẹ ít có thời gian gần gũi để truyền
cho con cái những câu tục ngữ, ca dao mang tính triết lý về đạo đức, nhân sinh
đẹp đẽ như các thế hệ đi trước đã truyền cho họ.
3.1.15.

Giao lưu kinh tế, văn hóa ngày càng được mở rộng, tăng

cường, được sự hỗ trợ bởi các công nghệ hiện đại như: máy tính điện tử,
internet, các phương tiện giải trí, điện thoại thông minh.. .vv, đầy sức hấp dẫn

đối với giới trẻ, làm cho ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên
khơng cịn mấy quan tâm đến văn học dân gian, tới tục ngữ, ca dao. Một trong
những kênh giáo dục đạo đức quan trọng trong truyền thống của người Việt
Nam đang có xu hướng ngày càng suy giảm.
3.1.16.

Mặc dù quá trình đổi mới ở đất nước ta đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng, trong đó “nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, tôn
tạo...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016a, tr. 123 - 124), nhưng tình trạng mai
một các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống là một trong những nguy cơ đã
được các nhà nghiên cứu về văn hóa, đạo đức chỉ ra. Chính vì vậy, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc trong bối cảnh
hiện nay là một yêu cầu tất yếu, một nhiệm vụ nặng nề, cấp bách và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta. Trong các giá trị truyền thống của dân tộc
cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy đó có các giá trị đạo đức trong ca dao,


10

tục ngữ của người Việt Nam chúng ta. Chính vì vậy, việc khơi dậy các giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung và tư tưởng
đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối
với vấn đề bảo vệ, lưu truyền, phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc
ta trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng trở nên sâu rộng.
3.1.17.

Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng đạo đức


trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học
của mình với mong muốn sẽ góp phần tích cực trong việc bảo vệ, lưu truyền,
phát huy các giá trị của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam trong
điều kiện hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
3.1.18.

Những nghiên cứu về văn học dân gian đã chỉ ra rằng: ca

dao, tục ngữ Việt Nam là một sản phẩm chứa đựng cả một hệ thống giá trị, triết
lý, tư tưởng, đạo đức, giáo dục ... mang tính cộng đồng cao, được hình thành
và phát triển trải dài theo suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Chính vì vậy, việc
sưu tầm, nghiên cứu về ca dao, tục ngữ Việt Nam nói chung hay những khía
cạnh cụ thể ẩn chứa trong đó đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Và cho
đến nay, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cơng trình sưu tập, nghiên cứu đã đưa
ra các nhận định ban đầu về ca dao, tục ngữ hay những nội dung, khía cạnh
nào đó ẩn chứa bên trong nó, bao gồm cả những nghiên cứu về đạo đức và tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trong đó, các tác giả đã tập
trung nghiên cứu theo các hướng như sau:
3.1.19.

Một là, các cơng trình sưu tập, nhận định về ca dao, tục

ngữ Việt Nam, trong đó bao hàm những điều kiện, tiền đề hình thành hoặc
phản ánh một số khía cạnh có liên quan đến tư tưởng đạo đức bên trong nội
dung của nó.
3.1.20.

Theo hướng này, có một số cơng trình tiêu biểu sau:



11

3.1.21.

Thứ nhất, bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt

gồm 19 tập do Viện Khoa học xã hội Việt Nam giữ bản quyền, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội chủ trì, phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian tổ
chức biên soạn đã sưu tầm, đánh giá, bình chú các nội dung của ca dao, tục
ngữ, trong đó có khía cạnh đạo đức và tư tưởng đạo đức. Phần Tục ngữ được
trình bày trong 2 tập (tập 1 và tập 2) do GS.TS. Nguyễn Xuân Kính chủ biên
cùng Phan Lan Hương biên soạn và được xuất bản tháng 12 năm 2002. Đây là
2 tập sưu tầm 10.625 câu tục ngữ của người Việt, gồm 8 chủ đề (Tập 1 gồm 7
chủ đề với 795 trang, từ I đến VII; Tập 2 chứa đựng nội dung của chủ đề VIII
với 864 trang) và được sắp xếp như sau: I. Đất nước và lịch sử; II. Quan hệ gia
đình, xã hội; III. Các hiện tượng tự nhiên, thời tiết; IV. Lao động và nghề
nghiệp; V. Đời sống vật chất con người; VI. Phong tục, văn nghệ, giáo dục,
chữa bệnh; VII. Giặc cướp và áp bức. Tệ nạn xã hội. Thói hư tật xấu. Chống
giặc cướp, áp bức, tệ nạn xã hội. Phê phán thói hư tật xấu; VIII. Những quan
niệm đa dạng về nhân sinh, vũ trụ (Tập 2).
3.1.22.

Trong khi đó, phần Ca dao được trình bày trong 2 tập: Tập

15 (xuất bản tháng 10 năm 2002) và tập 16 (xuất bản tháng 3 năm 2002) cũng
do GS.TS. Nguyễn Xuân Kính chủ biên cùng Phan Lan Hương biên soạn, gồm
11.001 lời ca dao với 9 chủ đề (tập 15 gồm 8 chủ đề với 1174 trang và tập 16
chứa đựng nội dung của chủ đề IV với 847 trang) như sau: I. Đất nước và lịch
sử;


3.1.23.
nghềhóa,
nghiệp;
Quan
IV.
hệTình
gia
đình,
lứa

đơi
hội;
(Tập
III.
16);
Lao
V.
động
Sinh
vàhoạt
văn
văn
nghệ;
VI.u
Những
lời
bơng
đùa,
khơi

3.1.24.
Nhìn chung, những tác phẩm nói trên khơng phải là những

cơng trình chun về triết học, đạo đức mà chỉ là những công trình sưu tập hết
sức cơng phu và các tác giả đã đưa ra những đánh giá, nhận định như: khái
quát một số vấn đề về xác định ranh giới thể loại, về việc nghiên cứu, nội dung
và nghệ thuật, thi pháp hay bàn luận về một số khía cạnh nội dung của no...
của ca dao, tục ngữ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu,
nhất là các thế hệ sau này. Những cơng trình này đã góp phần tích cực trong


12

việc làm giảm nguy cơ thất truyền và cung cấp nguồn tư liệu cho việc nghiên
cứu về ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, để nghiên cứu, phân tích, khái
quát được những nội dung, hàm ý, những tư tưởng như đạo đức, giáo dục, triết
học. ẩn chứa bên trong những câu ca dao, tục ngữ ấy, đòi hỏi người nghiên cứu
phải đầu tư cơng sức tìm tịi, nghiên cứu nhằm đạt được mục đích mà nhà
nghiên cứu đặt ra. Chính vì vậy, những tập sách nói trên sẽ là nguồn tư liệu
quý cho những nghiên cứu tiếp theo về ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.25.

Thứ hai, bên cạnh 4 tập sách sưu tầm về ca dao, tục ngữ

Việt Nam nói trên, một số nhà khoa học khác cũng đã bỏ nhiều công sức để
sưu tầm ca dao, tục ngữ. Chẳng hạn, cuốn Ca dao, tục ngữ, dân ca Việt Nam
của Vũ Ngọc Phan, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978; Tục ngữ Việt
Nam của tác giả Chu uân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri, nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; Kho tàng ca dao tục ngữ người Việt của
Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật, nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà

Nội, 1995; Ca dao - tục ngữ của Vũ Tiến Quỳnh, nhà xuất bản Văn Nghệ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; Ca dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Phương
Thu, nhà xuất bản Thời Đại, Hà Nội, 2010; Thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân
ca Việt Nam của tác giả Lam Giang, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2015;.vv.
3.1.26.

Cũng giống như 4 tập sách sưu tập về ca dao, tục ngữ Việt

Nam trong bộ sách Tổng tập văn học dân gian người Việt đã đề cập, những tác
phẩm của các tác giả trên đây cũng đã tập hợp, giới thiệu đến người đọc những
câu ca dao, tục ngữ Việt Nam cùng với một số nhận định, đánh giá ban đầu ở
những khía cạnh nhất định của ca dao, tục ngữ Việt Nam mà chưa đi sâu
nghiên cứu, khái quát về tư tưởng, triết lý đạo đức ẩn chứa bên trong nội dung
của nó. Do vậy, những tác phẩm này cũng chính là nguồn tư liệu q để tơi
thực hiện cơng trình nghiên cứu “Tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt
Nam”.
3.1.27.

Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến điều kiện,


13

tiền đề, lịch sử hình thành tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam
thông qua nghiên cứu về lịch sử văn học dân gian Việt Nam nói chung. Theo
hướng nghiên cứu này, chúng ta có thể kể đến một số cơng trình của các tác giả
như sau: Văn học truyền khẩu Việt Nam của tác giả Phạm Văn Diêu, nhà xuất
bản. Sài Gòn, 1960; Tư tưởng Việt Nam - tư tưởng triết học bình dân của
Nguyễn Đăng Thục, nhà sách Khai Trí, Sài Gịn, 1963; Lịch sử văn học Việt
Nam - Văn học dân gian của nhóm tác giả Đinh Gia Khánh và Chu uân Diên,

nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1973; Tìm hiểu
tiến trình văn học dân gian của Cao Huy Đỉnh, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,
1999; Lịch sử văn học dân gian Việt Nam của Bùi Văn Nguyên, nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 1978; Lịch sử và văn học dân gian của Đặng Văn Lung, nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội, 2004; Địa danh Việt Nam trong tục ngữ, ca dao của
Vũ Quang Dũng, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2007; Từ điển
thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của tác giả Thanh Long - Tường Ngọc,
nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 2014; Văn hóa giao tiếp - ứng xử trong
tục ngữ, ca dao Việt Nam do Hội văn nghệ dân gian Việt Nam biên soạn, nhà
xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2013.. .vv. ...
3.1.28.............Các cơng trình vừa kể trên chủ yếu đi sâu lý giải một số
vấn đề về nguồn gốc, nội dung, đặc trưng, loại hình của văn học dân gian,
trong đó có ca dao, tục ngữ; khái quát lịch sử văn học dân gian Việt Nam cũng
như đánh giá việc sưu tầm, nghiên cứu các thể loại: ca dao, tục ngữ, dân ca, vè,
truyện cổ tích, thần thoại qua các thời kỳ phát triển của dân tộc ta hoặc mới
chỉ ra
3.1.29.

được những địa danh được đề cập trong ca dao, tục ngữ Việt Nam

mà chưa có những khái quát, đánh giá, nhận định về lĩnh vực tư tưởng đạo đức
liên quan đến đề tài mà tôi đang nghiên cứu.
3.1.30.

Thứ tư, nghiên cứu điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng

đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thì khơng thể tách rời nó với lịch sử


14


phát triển của dân tộc Việt Nam hay nền văn hóa của nước nhà. Chính vì vậy,
các tác phẩm: Đại cương lịch sử Việt Nam (gồm 3 tập) do nhóm tác giả Trương
Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn và Nguyễn Cảnh Minh, nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, 2014. Trong đó, Tập 1: Từ thời nguyên thủy đến 1858;
Tập 2: Từ năm 1858 đến năm 1945; và Tập 3: Từ năm 1945 đến năm 1995.
Đây là cơng trình nghiên cứu tương đối cơng phu, có tính kế thừa với mong
muốn “mỗi người Việt Nam phải có sự hiểu biết đầy đủ hơn về toàn bộ lịch sử
Việt Nam theo tinh thần “ôn cố tri tân”, lấy xưa phục vụ nay” (Trương Hữu
Quýnh, Phan Đại Doãn & Nguyễn Cảnh Minh, 2014, tr.6). Đồng thời, các
cơng trình Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần thứ 2) của tác giả Trần Ngọc
Thêm, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999 và Cơ sở văn hóa Việt Nam của
tác giả Chu Xuân Diên, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh năm
2002 đã trình bày về các khái niệm cơ bản về văn hóa, các thiết chế, chức
năng, cấu trúc của văn hóa, diễn trình của lịch sử văn hóa Việt Nam, khơng
gian văn hóa Việt Nam, góp phần thuận lợi cho quá trình nghiên cứu về lịch sử
tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt
Nam nói riêng.
3.1.31.

Hai là, những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức

nói chung và giá trị đạo đức truyền thống của người Việt nói riêng mà tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam là một nội dung trong đó.
3.1.32.

Đạo đức là một lĩnh vực chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã

hội lồi người. Chính vì vậy, nghiên cứu về đạo đức nói chung và đạo đức
trong một lĩnh vực cụ thể nào đó, bao hàm cả tư tưởng đạo đức trong ca dao,

tục ngữ Việt Nam cũng cần được tiếp cận trên nền tảng lý luận của đạo đức.
Đề cập đến lý luận về đạo đức, trước hết có cuốn sách Nguyên lý đạo đức cộng
sản của A.Sixkin, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961. Trong cuốn sách này,
A.Sixkin đã tỏ rõ sự đồng tình với quan điểm Mácxít về nguồn gốc của đạo
đức, đồng thời ơng tiếp tục khẳng định rằng: đạo đức là một hình thái ý thức xã


15

hội và đề cập đến đạo đức là đề cập đến những lề thói và tập tục được biểu
hiện trong các mối quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống
hàng ngày; Cuốn sách Đạo đức học (tập 1 và 2) của tác giả G.Bandzeladze,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội ấn hành năm 1985 đã phân tích, luận giải về
vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội cũng như làm sáng tỏ những hiện
tượng đạo đức xã hội. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa đạo đức và chính
trị, pháp lý và nghệ thuật..., G.Bandzeladze đã đi đến kết luận: đạo đức là đặc
trưng bản tính chỉ có ở con người. Bản chất của đạo đức chính là sự quan tâm
một cách tự giác của con người đến lợi ích của những người xung quanh nói
riêng và lợi ích của cộng đồng xã hội nói chung.
3.1.33.

Bên cạnh đó, ở Việt Nam, đạo đức cũng là một lĩnh vực

được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đã cho ra đời nhiều tác phẩm.
Đáng chú ý là các cuốn sách: Đạo đức học Mác - Lênin (phần 1) của nhóm tác
giả đến từ Trường Đại học tổng hợp Hà Nội, do nhà xuất bản Đại học tổng hợp
Hà Nội ấn hành năm 1990. Đây là cuốn sách đi sâu luận bàn về các vấn đề
như: Bản chất giai cấp, bản chất xã hội, Chủ nghĩa Mác - Lênin, Phương pháp
luận và Đạo đức học với dung lượng 160 trang. Cuốn Giáo trình Đạo đức học
(dùng cho hệ cử nhân chính trị) do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

biên soạn, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành năm 2000 đã làm r
đối tượng, nhiệm vụ của đạo đức học Mác - Lênin cũng như chỉ ra nguồn gốc,
bản chất, chức năng, vai trò của đạo đức và các kiểu đạo đức trong lịch sử và
quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời, cuốn
sách này cũng đã đề cập đến một số phạm trù cơ bản, những nguyên tắc của
đạo đức và tính quy luật của sự hình thành đạo đức mới cũng như luận bàn đến
một số vấn đề xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách Đạo đức học Mác - Lênin và giáo dục
đạo đức (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng ngành sư phạm) do PGS.TS
Trần Đăng Sinh và PGS.TS Trần Thị Thọ đồng chủ biên, nhà xuất bản Chính


16

trị quốc gia - sự thật, Hà Nội ấn hành năm 2018. Cuốn sách này không chỉ
dừng lại ở việc trang bị cho người đọc những kiến thức cơ bản về đối tượng,
phương pháp nghiên cứu của đạo đức học Mác - Lênin hay nguồn gốc, bản
chất, chức năng của đạo đức..., mà còn trang bị cho những người giáo viên
trong tương lai những kiến thức về giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức
nghề giáo nói riêng..vv.
3.1.34.

Những cuốn sách kể trên vừa đóng vai trị cung cấp hệ

thống tri thức lý luận để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đạo đức trong
một lĩnh vực nào đó, kể cả tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.35.

Trong quá trình phát triển của lịch sử nước ta, những giá trị


đạo đức nói riêng và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, nhất
là vị trí, vai trị của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng
được khẳng định và được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong đó,
các tác giả đã đi sâu khai thác một số khía cạnh cụ thể của đạo đức thơng qua
hệ thống giá trị của con người Việt Nam nói chung. Tiêu biểu có các cơng trình
như: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần Văn Giàu,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; Giá trị truyền thống Việt Nam
trước thách thức của tồn cầu hóa của GS,TS Đỗ Huy, nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002; Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện
nay của Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang, chương trình KHCN cấp nhà nước
KX.07, đề tài KX07-02, Hà Nội, tập 1, 1994; tập 2, 1996; Giá trị truyền thống
trước những thách thức của tồn cầu hóa của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Huyên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Đạo đức
xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp của Nguyễn Duy Quý, nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; Đạo đức xã hội dưới tác động và
ảnh hưởng của kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay của Nguyễn Duy Q
và Hồng Chí Bảo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 2003; Kế thừa và đổi mới các giá trị


17

đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay của Nguyễn Văn Lý, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; Giá trị đạo đức truyền thống với việc
xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay của Ngô Thị Thu Ngà,
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Hà Nội: Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
2010; Vai trị của đạo đức với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam
trong điều kiện đổi mới hiện nay của Lê Thị Thủy, Luận án tiến sĩ Triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001;... Hoặc các bài viết:
Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo
đức trong nền kinh tế thị trường của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học số 5,
2002; Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân
cách con người Việt Nam hiện nay của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, số 7,
2004; Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong cơ chế thị trường ở
Việt Nam hiện nay của GS Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002;
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 1, 2002;
Tồn cầu hóa và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tạp chí Triết học, số 2, 2007; Tác động
của tồn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam của
Mai Thị Quý, Tạp chí Triết học, số 5, 2007...vv.
3.1.36.

Mặc dù các cơng trình, đề tài, luận văn, luận án, bài viết

theo hướng này cũng đã khẳng định được những giá trị to lớn của đạo đức
truyền thống cũng như đóng góp của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đã đưa ra một số đánh giá, định
hướng ban đầu nhằm xây dựng lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến hệ
thống các giá trị đạo đức truyền thống trên cả phương diện tích cực lẫn tiêu


18

cực... thì việc phát huy đức tính cần cù, tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm
chính là điều kiện cần thiết để “ ây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” cũng như “ ây dựng và phát triển văn hóa,

con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” như tinh
thần Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương I (khóa
I) đã đề ra. Tuy nhiên, các cơng trình, bài viết kể trên cũng chỉ khai thác một số
khía cạnh nhất định về giá trị truyền thống, phát huy các giá trị truyền thống
của người Việt trong điều kiện hiện nay, trong đó có các giá trị đạo đức truyền
thống trong một số lĩnh vực cụ thể nhưng chưa phân tích, luận giải vấn đề về
tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.37.

Ba là, các cơng trình đi thẳng vào nghiên cứu về triết lý

nhân sinh và các nội dung liên quan đến đạo đức, tư tưởng đạo đức trong ca
dao, tục ngữ
3.1.38.

Theo hướng này, các tác giả đã tập trung nghiên cứu và có

các cơng trình tiêu biểu như: Triết lý đạo đức trong kho tàng tục ngữ, ca dao,
dân ca Việt Nam của Lê Huy Thực, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015. Đây là cơng trình nghiên cứu đã đi sâu khai thác
các vấn đề “Giá trị đạo đức và thói đời”, “Tình cảm, việc làm thiện và hành vi
ác” và “vấn đề hạnh phúc và bất hạnh”. Qua cơng trình này, tác giả đã khẳng
định những giá trị đạo đức và thói đời, tình cảm, việc làm thiện và hành vi ác
cũng như hạnh phúc và bất hạnh được đề cập đến trong ca dao, tục ngữ Việt
Nam. R ràng, đây là một cơng trình nghiên cứu cơng phu, liên quan đến vấn đề
“đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” nhưng vẫn cịn những khía cạnh mà
tác giả chưa đề cập đến, không trùng lặp với đề tài “Tư tưởng đạo đức trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam” mà bản thân tơi đang nghiên cứu.
3.1.39.


Bên cạnh những tác phẩm nói trên, cuốn sách Đạo làm

người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân, do nhà


19

xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2011. Đây là cuốn sách đi thẳng vào vấn đề
đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, gồm 2 phần: phần thứ nhất của cuốn
sách đề cập khá chi tiết đặc điểm của tục ngữ ca dao Việt Nam về đạo làm
người và tác giả đã đưa ra những phân loại cũng như nội dung tục ngữ ca dao
Việt Nam về đạo làm người; phần thứ hai của cuốn sách là việc Sưu tập - Lựa
chọn - Giải thích tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm người cùng với bảng tra
cứu tục ngữ ca dao Việt Nam về đạo làm người theo chuyên mục nhằm mục
đích:
3.1.40.

“Giúp cho bạn đọc rộng rãi, trong đó có học sinh, sinh viên

học tập nhận thức và vận dụng ứng xử những kinh nghiệm sống của cha
ông đã để lại, kết hợp đạo lý truyền thống của dân tộc với đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng nhân cách con người
Việt Nam hiện đại góp phần bảo vệ bản sắc dân tộc trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hôm nay” (tr. 12).
3.1.41.

Những tác phẩm kể trên không chỉ đã đi sâu vào nghiên

cứu về ca dao, tục ngữ Việt Nam với tư cách là một thể loại văn học dân gian,

mà còn làm rõ một số nội dung hay những giá trị mà ca dao, tục ngữ đã đem
lại cho cuộc sống của cộng đồng người Việt. Đồng thời, các tác phẩm đó cũng
đã khẳng định rằng: ca dao, tục ngữ có vai trị to lớn đến quá trình lao động,
sản xuất, chinh phục tự nhiên cũng như giải quyết các mối quan hệ giữa con
người với con người trong cuộc sống của nhân dân ta.
3.1.42.

Ngoài ra có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết như:

Triết lý nhân sinh trong ca dao Nam bộ của tác giả Trần Thị Thùy Trang, Luận
văn thạc sỹ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh,
2010; Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam của tác giả Chu Thị
Hà Vân, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2014;
Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam, Tạp
chí Triết học, số 2, 2004 và Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục ngữ,


20

thơ ca dân gian, Tạp chí Triết học, số 9, 2005 của tác giả Lê Huy Thực; Những
nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian của Đỗ Lan Hiền,
Tạp chí Triết học, số 6, 2005;...v.v.
3.1.43.
cũngcụ
chỉ
mới
Những
đề
cập
cơng

đến
trình
những
nghiên
khía
cứu,
cạnh,
bài
phạm
viết
trù
trên
cụ
đây
của
tục
đạo
ngữ,
đức
thơ
như:
cađó
dân
Triết
gian

Việt
dân
gian
Nam;

vềNam
Tiêu
hạnh
chí
phúc
kiểm
trong
định
đạo
nhân
đức
sinh
con
trong
người
ca
qua
dao,
tục
tục
ngữ,
ngữ
thơ
Việt
ca
dân
hoặc
gian;
một
triết

khuthể

vực
thể
nào
trên
đất
nước
chúng
ta...,

3.1.44.
Như vậy, văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ
Việt Nam nói riêng ẩn chứa nhiều nội dung liên quan đến triết học, giáo dục,
đạo đức ... và được nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến
nay, mặc dù đã có những cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến
các khía cạnh khác thuộc các lĩnh vực khác nhau như: đạo đức, lịch sử, văn
hóa, tư tưởng . của dân tộc Việt Nam hoặc các vấn đề liên quan đến điều kiện,
tiền đề hình thành văn học dân gian nói chung hay một số nội dung bên trong
của ca dao, tục ngữ Việt Nam nói riêng, mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống dưới góc độ triết học vấn đề “Tư tưởng đạo đức trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam” mà tơi đang nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1.45.

Mục đích của luận án: Trên cơ sở khái quát về ca dao, tục

ngữ Việt Nam và về đạo đức, luận án làm rõ những điều kiện hình thành, các
nội dung, đặc điểm cơ bản cũng như đánh giá về mặt giá trị và hạn chế của tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và rút ra ý nghĩa của nó đối với

vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
3.1.46.

Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích nói trên,

luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
3.1.47.

Một là, trình bày khái quát lý luận chung về ca dao, tục ngữ

Việt Nam và về đạo đức cũng như phân tích, làm rõ những điều kiện hình
thành tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.48.

Hai là, phân tích, làm rõ các nội dung cơ bản của tư tưởng

đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.49.

Ba là, phân tích những đặc điểm cơ bản cũng như đánh giá


21

về mặt giá trị, hạn chế của tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam và
rút ra ý nghĩa của nó đối với vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1.50.

Đối tượng nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu


những vấn đề về tư tưởng đạo đức Việt Nam
3.1.51.

Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án chỉ tập trung

nghiên cứu tư tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ của người Kinh - cộng
đồng người chiếm tỷ lệ đa số ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
3.1.52.

Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và

phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lịch sử, văn hóa, đạo đức, xây dựng, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức trong bối cảnh hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
3.1.53.

Luận án tiếp cận vấn đề dưới góc độ Triết học lịch sử, triết

học văn hóa cũng như giá trị học. Đồng thời, luận án cũng sử dụng phối hợp
các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, so sánh, đối chiếu,
quy nạp và diễn dịch, văn bản... để nghiên cứu và trình bày luận án.
6. Cái mới của luận án
3.1.54.

Một là, luận án đã luận giải, phân tích một cách có hệ thống


những điều kiện hình thành, các nội dung, đặc điểm cơ bản của tư tưởng đạo
đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
3.1.55.

Hai là, luận án đã đánh giá về mặt giá trị và hạn chế của tư

tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng như rút ra ý nghĩa đối với
vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.


22

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
3.1.56.

Ý nghĩa khoa học của luận án: Việc nghiên cứu, phân tích,

làm rõ điều kiện hình thành, nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế của tư
tưởng đạo đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam sẽ góp phần giúp người đọc có
thêm những hiểu biết một cách có hệ thống và sâu sắc hơn về những giá trị đạo
đức trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về tư
tưởng đạo đức Việt Nam.
3.1.57.

Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Luận án góp phần củng cố,

lưu giữ và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam
chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham
khảo, bổ sung tích cực cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tư tưởng Việt Nam
nói chung và tư tưởng đạo đức của người Việt cũng như ý nghĩa của nó đối với

vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay nói riêng.
8. Kết cấu của luận án
3.1.58.
Ngồi
phần án
mở gồm
đầu,200
kếttrang
luận và
mục tài
liệu và
tiết
tham
20khảo,
tiểu tiết.
luận
vớidanh
3 chương,
8


23

thơ đã được nhân dân ta sáng tạo ra từ trước đó, mà theo một số nhà nghiên
cứu đã nhận định:

3.1.59.
3.1.60.
3.1.62.


Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VÀ NHỮNG
3.1.61. • ' •
ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM
3.1.63.

1.1.

'••

KHÁI LƯỢC VỀ CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

1.1.1.
3.1.64.

Khái niệm, đặc trưng cơ bản của ca dao, tục ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ là những thể loại của văn học dân gian, do

quần chúng nhân dân sáng tác và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ca dao, tục ngữ có nguồn gốc từ lâu đời, được hình thành trong cuộc
sống, trong lao động sản xuất của con người và nó được “ra đời ngay từ thời
cơng xã ngun thủy, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã
hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay” (Đinh Gia Khánh &
Chu Xuân Diên, 1991a, tr. 13).
1.1.1.1.
3.1.65.

Khái niệm và đặc trưng cơ bản của ca dao Việt Nam

Theo nhiều nhà nghiên cứu về văn học dân gian, thì bản

thân từ “Ca dao” là một thuật ngữ Hán - Việt, trong đó “Ca” có nghĩa là hát,
“Dao” muốn nói đến những bài hát không chương khúc. Trong Từ điển từ và
ngữ Hán - Việt của giáo sư Nguyễn Lân có đề cập đến “Ca dao” như sau: “câu
hát truyền miệng của dân gian không theo một điệu nhất định” (tr. C.75).
Những nghiên cứu về văn học dân gian đã chỉ ra rằng, mặc dù ca dao là một
loại hình văn học nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử, có nguồn gốc từ
chính trong hoạt động sống của con người Việt Nam chúng ta trước đây, nhưng
tên gọi “Ca dao” thực sự mới xuất hiện ở nước ta cuối thế kỉ VIII, được các
nhà Nho ở Việt Nam vay mượn từ tiếng Hán để gọi tên cho bộ phận những câu


24
24

thơ đã được nhân dân ta sáng tạo ra từ trước đó, mà theo một số nhà nghiên
cứu đã nhận định:
Ca dao “phần nhiều có nội dung phản ánh phong tục hoặc có ý nghĩa giáo dục
theo cách hiểu của nhà Nho, vì vậy, được xem như một phần tinh túy nhất của
thơ ca dân gian và thơ ca dân tộc” (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn
Tửu, Trần Hữu Tá, 2004, tr. 180).
3.1.66.

Bên cạnh đó, trong Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như

Ý chủ biên có đề cập, “Ca dao” là “thể thơ dân gian được lưu truyền dưới dạng
câu hát”, là “thể loại văn vần thường bằng thơ lục bát” (Nguyễn Như Ý, 1999,
tr. 219).
3.1.67.


Mặc dù các khái niệm vừa đề cập trên đã khẳng định được

ca dao là một sản phẩm của người Việt, nhưng nó khơng chỉ dừng lại ở việc
“phản ánh phong tục” hoặc “có ý nghĩa giáo dục” mà ngoại diên của nó rộng
lớn hơn nhiều. Đó là tâm tư, tình cảm, phong tục, tập quán... của con người và
xã hội Việt Nam trong lịch sử, bằng một số thể loại thơ nhưng thơ lục bát
chiếm đại đa số. Trong đó, nếu đề cập việc ca dao “được lưu truyền dưới dạng
câu hát” dễ làm cho người đọc hiểu nhầm sang dân ca bởi trong sinh hoạt văn
hóa dân gian của người Việt, dân ca thường là những câu ca dao nhưng phải đi
kèm với các hình thức biểu diễn, làn điệu, âm, nhịp., còn ca dao chủ yếu được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương thức truyền miệng.
3.1.68.

Như vậy, ca dao là một thể loại thuộc về văn học dân gian

xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, phản ánh truyền thống văn hóa, đạo
đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhân dân ta dưới dạng truyền miệng.
Trong khi đó, bản thân thuật ngữ “ca dao” lại có nguồn gốc từ sách Hán thi,
nhân dân ta “vay mượn”, sử dụng để gọi tên cho các sáng tác của đông đảo
quần chúng nhân dân dưới dạng thơ ca. Do đó, ca dao nhanh chóng được phổ
cập, đi vào đời sống và trở nên quen thuộc đối với người dân Việt Nam chúng
ta.
3.1.69.

Bên cạnh đó, trong văn học dân gian, người ta nhắc nhiều

đến dân ca hoặc thơ ca dân gian. Nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, ca



25

thơ đã được nhân dân ta sáng tạo ra từ trước đó, mà theo một số nhà nghiên
cứu đã nhận định:
dao chính là những câu hát dân gian khơng có điệu, có khúc nhất định, nó
chính là phần lời thơ của các bài dân ca, bởi “khi nói đến ca dao, người ta
thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn khi đề cập đến dân ca, người ta
nghĩ ngay đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định nữa” (Đinh Gia
Khánh & Chu Xuân Diên, 1991b, tr. 356), hoặc ca dao “chỉ phần lời thơ của
những sáng tác dân ca” (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu &
Trần Hữu Tá, 2004, tr. 180). Đồng thời, những cơng trình của các nhà nghiên
cứu cũng cho thấy, ca dao, tục ngữ Việt Nam xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử,
nhưng việc sưu tập nó lại diễn ra chậm hơn. Khi xã hội đã phát triển đến một
mức độ nhất định, nhất là về mặt nhận thức của con người, thì việc sưu tập ca
dao, tục ngữ cũng được con người tiến hành và thường được diễn ra theo
khuynh hướng là chỉ sưu tập:
3.1.70.

“Những câu, những bài hát hay nhất và có ý nghĩa khái quát

nhất về mặt phản ánh đời sống, phong tục và giáo dục đạo đức nên thuật
ngữ ca dao lại hẹp hơn nữa: ca dao khơng phải là tồn bộ lời thơ của các
câu hát và bài hát dân gian, mà chỉ là một bộ phận quan trọng của thơ ca
dân gian, chủ yếu thuộc thể trữ tình và mang một phong cách riêng” (Đỗ
Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu & Trần Hữu Tá, 2004, tr.
180).
3.1.71.
rằng:
“CaĐiệp
dao

Trong

khi
những
đó,
bài
tác

giả
hoặc

khơng
Chí
Quế

cũng
chương
cho
khúc,
sángNgọc
ngụ
ý
tác

bằng
diễn
thể
đạt
văn
tình

vần
cảm”
dân
(Lê
tộc,
Chí
Quế,
miêu
2001,
tả,
tự
tr.
sự,
76),
cịn
Thị
trong
cuốncũng
Ca
dao

nhận
dân
ca
định
đẹp
tương
vàđể
hay,
tự

tác
khi
giả
cho
Nguyễn
rằng:


×