Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.23 KB, 65 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ MINH HÒA

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ MINH HÒA

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ
ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM

Ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu thống kê và bản án sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ
thẩm.
TÁC GIẢ

TRẦN THỊ MINH HÒA


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT
1
2

Chữ được viết tắt
Bộ luật Tố tụng dân sự
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự

3

Tòa án nhân dân tối cao

4


Tòa án nhân dân

Chữ viết tắt
BLTTDS
PLTTGQCVADS
TANDTC
TAND


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của Đề tài............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài ....................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài ............................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ..................................................................... 6
6. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM ........ 7
1.1. Khái quát về tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
........................................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự ...............................................7
1.1.2. Tranh tụng theo nghĩa rộng .............................................................................10
1.1.3. Tranh tụng theo nghĩa hẹp...............................................................................11
1.1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự ..................11
1.1.5. Ý nghĩa của bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm................................................................................................................14


1.2. Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong tố
tụng dân sự ...................................................................................................... 15


1.2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham gia tố
tụng ............................................................................................................................15
1.2.1.1. Quyền tranh tụng khi thực hiện thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự và
đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ............................................................16
1.2.1.2. Quyền tranh tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ; được biết
tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình ..............................................................18
1.2.1.3. Quyền tranh tụng khi tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
cơng khai chứng cứ và hịa giải .................................................................................21
1.2.1.4. Quyền tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ............................................22

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 27
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA
ÁN CẤP SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................. 28
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ
án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. ................................................................... 28
2.2. Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện bảo đảm quyền tranh
tụng trong xét xử các vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện ........................... 30
2.2.1. Bất cập trong quy định về giao nộp và công khai chứng cứ ...........................30
2.2.1.1. Về lý do không giao nộp tài liệu chứng cứ ..................................................30
2.2.1.2. Về sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác .....................................................................................34
2.2.1.3. Về thời điểm giao nộp chứng cứ ..................................................................38
2.2.2. Bất cập về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ ....42
2.2.3. Bất cập trong quy định về phiên họp công khai chứng cứ ..............................43



2.2.4. Bất cập trong việc công bố lời khai của đương sự, người tham gia tố tụng
khác trong phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ..............................48

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong lịch sử pháp luật tố tụng nhiều nước trên thế giới, tranh tụng luôn
được xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản có vai trị chỉ đạo mọi quy
định pháp luật tố tụng nhằm chứng minh sự thật của vụ án. Nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng được pháp luật tố tụng của các nước ghi nhận với nội dung và phạm vi áp
dụng khác nhau. Ở Việt Nam, tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng,
mang tính đột phá trong cải cách tư pháp hiện nay và đã được xác định trong Nghị
quyết 08 - NQ/ TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu “Nâng cao chất lượng cơng
tố của kiểm sát viên tại phiên tịa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. ”.
“Khi xét xử, các Tịa án phải đảm bảo cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tịa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, tồn diện các chứng cứ, ý kiến của
kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật và có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định…”

Tiếp sau đó, Nghị quyết 49 - NQ/ TW ngày 02 tháng 6 năm 2002 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã chỉ rõ yêu cầu “Đổi
mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh
tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư
pháp” và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23-11-2012 của Quốc hội khoá XIII
yêu cầu Tòa án nhân dân Tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh
tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng
pháp luật. . . Như vậy, tranh tụng trong q trình tố tụng nói chung và trong xét xử


2

nói riêng là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột phá của cải cách tư
pháp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về nguyên tắc tranh tụng đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp.Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 quy định tại Điều 13 “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”. Tịa án có trách
nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong
xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố
tụng”. Như vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận
thành một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật
của nước ta. Điều 24, Khoản 1 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định"Tịa
án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. Nếu như BLTTDS năm 2004 chỉ
quy định chung là “Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để
các bên đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực
hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”thì Điều

24 BLTTDS năm 2015 đã quy định bổ sung mới khoản 2, 3 quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự cũng như việc xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ:
Như vậy, có thể thấy BLTTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
tư pháp trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được nhiệm vụ này thì việc hiểu như thế nào
là tranh tụng, nội dung, ý nghĩa và vai trị của nó có ý nghĩa như thế nào trong cải
cách tư pháp hoạt động xét xử của Tịa án? Vấn đề xây dựng và hồn thiện ngun
tắc tranh tụng, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là cơ sở để vận hành quá trình tố
tụng dân sự và xun suốt tồn bộ q trình này đang thu hút sự quan tâm rộng rãi


3

của nhiều nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn. Việc tìm hiểu các
quy định của tố tụng dân sự nhằm làm rõ những điểm mới của BLTTDS năm 2015,
các cơ sở lý luận của các quy định cũng như mối liên hệ giữa chúng với các văn bản
pháp luật liên quan, góp phần cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật tố tụng dân
sự đúng đắn bảo đảm xuyên suốt được quyền tranh tụng trong giải quyết vụ án là
hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài:“Bảo đảm quyền tranh tụng trong xét
xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật dân
sự và Tố tụng dân sự tại Trường Đại học Kinh tế - Luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Tranh tụng là hoạt động tố tụng quan trọng diễn ra trong suốt các giai đoạn
tố tụng của vụ án và luôn được xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản có
vai trò chỉ đạo mọi quy định pháp luật tố tụng nhằm chứng minh sự thật của vụ án.
BLTTDS năm 2004 không quy định nguyên tắc tranh tụng mà chỉ quy định nguyên

tắc tranh luận (Điều 23 a BLTTDS). Nội hàm của nguyên tắc tranh tụng và tranh
luận là khác nhau, do đó có một số cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý được
cơng bố có đề cập tới vấn đề này như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2002. Nội dung chính của luận văn tập trung chủ yếu vào các phân tích
các quy định của pháp luật liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm và
nêu ra những vướng mắc, thực tiễn áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, cơng trình nghiên
cứu này được thực hiện từ năm 2002 so với thời điểm hiện nay đã khơng cịn phù
hợp.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Đại học Luật Hà Nội “Tranh tụng
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà năm 2011. Nội dung đề tài tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận về tranh tụng trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, bản chất, chủ thể tham gia
tranh tụng, phạm vi tranh tụng trong TTDS và đánh giá các quy định của pháp luật


4

TTDS về tranh tụng. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án tác giả đã đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng. Mặc dù tác giả đã có quan điểm coi tranh tụng
là nguyên tắc của TTDS nhưng đề tài được thực hiện dựa trên các quy định của
BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.
- Bài viết “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền trên tạp chí Luật học, số 4/2016.
Bài viết đã phân tích các quy định của BLTTDS theo hướng bảo đảm tranh tụng, cụ
thể: các quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự; quy định về việc
thông báo chứng cứ của vụ việc cho nhau giữa các đương sự; quy định về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận cơng khai chứng cứ và quy định về phiên tịa sơ
thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đề cao vai trị của các bên đương sự trong q

trình tranh tụng tại Tịa án. Mục đích bài viết của tác giả Bùi Thị Huyền đưa ra các
đề xuất nhằm hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2015 về bảo đảm tranh
tụng trong xét xử. Tuy nhiên, bài viết thực hiện năm 2016 khi mà BLTTDS năm
2015 chưa có hiệu lực thi hành, chưa được áp dụng trên thực tế nên tác giả chưa thể
nêu ra những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp dụng BLTTDS năm 2015.
Một số bài viết trên tạp chí như: Bài “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân
sự” của Nguyễn Cơng Bình đăng trên chí Luật học số 6/2003; Bài“Bản chất của
tranh tụng tại phiên tịa” của Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số
4/2004; “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự” của tác giả Mai Bộ, Tòa án
nhân dân tối cao năm 2014. Phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước
khi ra đời BLTTDS năm 2015.
BLTTDS năm 2015 là thể chế chiến lược cải cách tư pháp, đổi mới, cải cách
thủ tục tố tụng dân sự theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc trong thực tiễn để giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng kịp
thời. Sau hơn ba năm có hiệu lực thi hành BLTTDS năm 2015 đã thể hiện nhiều ưu
điểm. Tuy nhiên, việc áp dụng Bộ luật trong thực tiễn xét xử đã gặp những khó
khăn nhất định do một số quy định chưa rõ ràng, dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác


5

nhau. Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ tập trung tìm hiểu các nội dung mới có liên
quan đến vấn đề bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp
sơ thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về tranh tụng, nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự, nội dung
các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ
án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Tìm ra những vướng mắc, khó khăn trong thực

tiễn công tác để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao và bảo đảm yếu tố tranh
tụng, góp phần đáp ứng được yêu cầu đề ra trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu Đề tài là tìm hiểu những vấn đề lý luận về bảo
đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và các quy
định pháp luật có liên quan. Qua nghiên cứu các quy định này tìm ra nhưng nội
dung chưa quy định rõ ràng dẫn đến sự vướng mắc trong thực tiễn, cũng như không
thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan, người tiến hành
tố tụng. Từ những phân tích, đánh giá thơng qua hoạt động thực tiễn để đề xuất kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật
về vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng
dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh tụng và nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng dân sự, thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS và pháp
luật Việt Nam liên quan đến quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm. Cụ thể tập trung vào việc nghiên cứu các nội dung sau:
- Vấn đề lý luận về quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp
sơ thẩm như khái niệm, nội dung, ý nghĩa, đối tượng các quy định về bảo đảm
quyền tranh tụng;
- Nội dung và một số quy định liên quan đến quyền tranh tụng trong xét xử
vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm trong BLTTDS 2015, chủ yếu ở trong và trước


6

giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
- Những yếu tố giúp cho việc bảo đảm quyền tranh tụng đạt hiệu quả trong
xét xử vụ án dân sự và những thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân của việc tồn tại
những bất cập trong quyền tranh tụng. Từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp
nâng cao chất lượng tranh tụng.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong luận văn
tác giả sử dụng các phương pháp chính như phương pháp phân tích, đánh giá các
quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân
sự, qua đó sử dụng phương thống kê, so sánh và tổng hợp để phân tích thực trạng áp
dụng tố tụng dân sự đối với một số tranh chấp dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và chỉ
rõ những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật làm hạn chế việc bảo đảm
quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 02
chương như sau:
- Chương 1: Pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân
sự tại tòa án cấp sơ thẩm.
- Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng trong
xét xử vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị hoàn thiện


7

CHƯƠNG 1
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG
XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
1.1. Khái quát về tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp
sơ thẩm
1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự
Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội
loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Ở thời đấy,
nguyên cáo, bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước Tịa án. Sau đó

nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Cùng với thời gian,
tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định và đến
nay nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ
thống luật án lệ.
Ở Việt Nam hiện nay cịn có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh tụng trong
xét xử.
Quan điểm thứ nhất, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ được hiểu là việc tranh
luận tại phiên tòa và chỉ thể hiện trong những vụ án có luật sư tham gia hoặc trong
những vụ án mà đương sự có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, hoặc bên bị kiện
cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự việc liên quan đến khiếu kiện tham gia phiên
tòa. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu theo nghĩa này thì phạm vi tranh tụng còn rất hạn hẹp
và chỉ dừng lại ở hoạt động tranh luận sau khi kết thúc phần xét hỏi tại phiên tòa. 1
Quan điểm thứ hai cho rằng “Tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự bao gồm
các hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa và tranh

1

tr 63.

Nguyễn Mạnh Bách (1996), “Luật Tố tụng dân sự Việt Nam giải lược”, NXB Đồng Nai,


8

tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án dân sự” 2. Nếu tranh tụng được hiểu
theo quan điểm này thì chưa đủ bởi lẽ quan điểm này chỉ mới nêu lên được các giai
đoạn của quá trình tranh tụng mà chưa nêu được nội dung, bản chất, ý nghĩa của
việc tranh tụng.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi

kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cho đến khi Tòa án ra
quyết định giải quyết vụ án dân sự. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều
khiển của Tòa án được đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để
chứng minh cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tịa án theo những trình tự, thủ
tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tòa án ra phán quyết vụ án dân sự căn cứ
vào kết quả tranh tụng của các chủ thể tranh tụng” 3.
Như vậy thì dù hiểu theo quan điểm nào thì tranh tụng chính là q trình giải
quyết vụ kiện dân sự theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các
chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tất cả các
hoạt động như cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và phản yêu cầu, đối chất
giữa các bên trong giai đoạn trước khi xét xử cũng như tại phiên tịa đều có thể hiểu
là q trình tranh tụng.Tịa án sẽ điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa
rõ và căn cứ vào những kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
So với quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai thì quan điểm này tương đối
đầy đủ nội dung, phản ánh được bản chất của tranh tụng và khái quát được giới hạn
của quá trình tranh tụng diễn ra từ giai đoạn nào đến giai đoạn nào. Tuy nhiên quan
điểm này chỉ mới nêu lên một số quyền cơ bản của đương sự mà chưa đưa ra nghĩa
vụ của đương sự trong quá trình thực hiện tranh tụng vì việc bổ sung nghĩa vụ cung

Ngô Cường (Biên soạn, 2017), “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”, NXB Thanh Niên, Hà

2

Nội.
3

Phạm Thị Ánh Ngọc (2016), Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt

Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.



9

cấp tài liệu chứng cứ để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Đây là một
nghĩa vụ hoàn toàn mới được bổ sung trong BLTTDS năm 2015.
Tại khoản 2 Điều 24 của BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng
cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thơng báo cho nhau các tài
liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về
đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc bác bỏ u cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này”.
Lần đầu tiên BLTTDS năm 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ gửi cho
đương sự khác bản sao tài liệu, chứng cứ tại khoản 9 Điều 70, khoản 5 Điều 96
BLTTDS năm 2015 là nhằm đảm bảo việc tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự trong q trình Tịa án giải quyết vụ án. Nếu chỉ hiểu tranh
tụng bao gồm các quyền cơ bản như tại quan điểm thứ ba thì bỏ sót nghĩa vụ thông
báo cho nhau các tài liệu chứng cứ đã giao nộp để đương sự khác thực hiện quyền
tranh tụng của mình.
Ở đây cũng cần phân biệt tranh tụng và tranh luận.Tranh luận và tranh tụng
là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng.Tranh
tụng bảo đảm để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của
mình. Bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự là sự thể hiện chính kiến của
từng bên đương sự về việc giải quyết vụ án dân sự dựa trên những chứng cứ thu
thập được trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Như vậy tranh tụng là một
nguyên tắc của tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng. Cịn tranh luận tại
phiên tịa chỉ là hình thức tố tụng (một giai đoạn tố tụng của phiên tòa) mà trong đó
Tịa án thay mặt nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra cơng khai
tại phiên tịa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét
giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật 4. Như


Trần Văn Độ, Bản chất tranh tụng tại phiên tòa, www.hcmlaw.edu.vn/hcmlaw/index.

4

php?=com


10

vậy, tranh luận được hiểu là: “bàn cãi tìm ra lẽ phải” là một phần tố tụng của phiên
tòa, được tiến hành sau khi kết thúc phần xét hỏi.
Từ những phân tích trên thì khái niệm tranh tụng trong Tố tụng dân sự cần
được hiểu thống nhất như sau: Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách quan
của vụ án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cho đến khi Tòa án ra quyết
định giải quyết vụ án dân sự. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển
của Tòa án được quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý
vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp;
trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp
luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu
cầu của người khác theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy
định. Tòa án chỉ hỏi thêm những vấn đề chưa rõ và ra phán quyết vụ án dân sự căn
cứ vào kết quả tranh tụng của các chủ thể tranh tụng.
Tương ứng với các loại tố tụng có tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh
tụng trong tố tụng hành chính và tranh tụng trong tố tụng dân sự.Tương ứng với các
loại phiên tịa có tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm và tranh luận tại phiên tòa phúc
thẩm. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng dân sự là một loại tranh tụng trong tố tụng,
bao hàm cả hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh luận tại phiên tịa và
tranh tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án dân sự. Vì tố tụng dân sự là quá
trình giải quyết vụ án dân sự cho nên tranh tụng trong tố tụng dân sự là tranh tụng

trong quá trình giải quyết vụ án dân sự có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc.
Theo đó, có thể hiểu giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự theo nghĩa
rộng và theo nghĩa hẹp.
1.1.2. Tranh tụng theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự bắt đầu từ
khi có tranh chấp dân sự và đương sự thể hiện nhu cầu giải quyết tranh chấp đó, kết
thúc khi giải quyết xong tranh chấp dân sự bao gồm cả giai đoạn thi hành án dân sự.
Nếu có tranh chấp dân sự nhưng đương sự không muốn giải quyết tranh chấp thì


11

không xuất hiện nhu cầu tranh tụng để giải quyết tranh chấp. Việc đương sự là
người thắng kiện trong vụ việc dân sự từ chối (không làm đơn) yêu cầu thi hành án
dân sự trong thời hạn do pháp luật quy định có thể được hiểu là nội dung quyền tự
định đoạt của đương sự và thể hiện quan điểm tranh tụng của đương sự. Bởi lẽ,
trong thực tiễn có vụ tranh chấp dân sự, đương sự chỉ cần Tòa án ra phán quyết là
mình thắng kiện mà khơng cần buộc bên thua kiện thi hành quyết định của Tòa án.
Mặt khác, hiểu giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự theo nghĩa rộng có
ý nghĩa rất lớn đối với việc Tòa án ghi nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành
những tranh chấp dân sự trong nhân dân do Ban tư pháp và các đồn thể chính trị
cấp xã thực hiện. Việc giải quyết tranh chấp dân sự theo cơ chế pháp lý này sẽ hạn
chế được rất nhiều vụ kiện dân sự mà Tòa án phải giải quyết, xét xử và đương nhiên
sẽ giảm chi phí xã hội rất lớn cho việc giải quyết tranh chấp dân sự.
1.1.3. Tranh tụng theo nghĩa hẹp
Giới hạn của việc tranh tụng trong tố tụng dân sự bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý
đơn khởi kiện vụ án dân sự và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án giải quyết
vụ việc đó. Giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự,
hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ
án dân sự) theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định với nguyên tắc xét xử hai

cấp. Cho nên, mặc dù tranh tụng trong tố tụng dân sự được bắt đầu từ khi Tòa án
thụ lý đơn khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự nhưng tập trung nhất là ở các giai đoạn: chuẩn bị
xét xử; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Bởi lẽ, giai đoạn giám đốc
thẩm và tái thẩm chỉ là những thủ tục đặc biệt, Tịa án xét xử thơng qua các tài liệu
có trong hồ sơ vụ án, hầu như khơng có sự hiện diện của các bên đương sự. Nếu
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại thì lại bắt đầu một quá trình tranh
tụng mới.
1.1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự
Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và


12

lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ khi khởi kiện thụ lý vụ
án cho đến khi giải quyết xong vụ án trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Nội dung của tranh tụng được thể hiện như sau:
- Xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quy
định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Chủ thể tranh tụng trong tố tụng dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Căn cứ vào lợi ích, có thể chia các đương sự thành
hai bên là bên khởi kiện và bên bị kiện. Bên khởi kiện là nguyên đơn dân sự còn
bên bị kiện là bị đơn dân sự. Tùy từng vụ án dân sự cụ thể mà người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan được coi là đương sự thuộc bên khởi kiện hoặc bên bị kiện. Bên
khởi kiện và bên bị kiện bình đẳng trước Tịa án trong việc đưa ra chứng cứ và thể
hiện sự đánh giá của mình về các chứng cứ trong vụ án cũng như quan điểm giải
quyết vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được

đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
Điều 249 BLTTDS năm 2015 quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ là
người điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Viện kiểm sát thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp, không phải là chủ thể tranh tụng trong tố tụng dân
sự mà chỉ là chủ thể thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền
thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tịa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày,
đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng
để bảo vệ u cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người
khác theo quy định của Bộ luật này. Đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ của
mình theo quy định của BLTTDS, nếu khơng thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải
chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.
BLTTDS quy định về nghĩa vụ chứng minh của các đương sự, theo hướng


13

đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp trừ trường hợp luật có quy
định khác về nghĩa vụ chứng minh. Tòa án chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng
cứ trong những trường hợp do BLTTDS quy định. Đương sự phản đối yêu cầu của
người khác đối với mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tịa án các tài liệu,
chứng cứ để chứng minh. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo
đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung, nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ chứng cứ thì Tịa
án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ hiện có để giải quyết vụ việc dân sự.
- Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của BLTTDS.
Trong các trường hợp xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự theo quy

định của BLTTDS thì Tịa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ. Tòa án tiếp nhận
chứng cứ của vụ án do các bên đương sự cung cấp và hỗ trợ đương sự thu thập
chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án dân sự, điều khiển phiên tòa. Trên cơ sở việc
xem xét, đánh giá chứng cứ, Tòa án thể hiện quyết định về từng vấn đề phải giải
quyết trong phần Quyết định của bản án và công bố công khai tại phiên tịa.
- Trong q trình tố tụng, các chứng cứ của vụ án phải được công khai, trừ
trường hợp không được công khai định theo quy định tại Khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS. Các đương sự đều có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng
cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa án thu thập (trừ tài liệu, chứng cứ
không được công khai). Đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người
đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã giao nộp
cho Tòa án (trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai).
Để bảo đảm mọi chứng cứ đều được cơng khai Tịa án phải tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ cùng với việc hịa giải. Đối với
những vụ án khơng được hịa giải hoặc hịa giải khơng được vẫn phải tiến hành phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trước khi đưa vụ án ra xét xử.
- Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ,


14

khách quan, tồn diện, cơng khai, trừ trường hợp khơng được công khai theo quy
định tại Khoản 2 Điều 109 của BLTTDS. Tòa án điều hành việc tranh tụng, Hội
đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra
bản án, quyết định.
1.1.5. Ý nghĩa của bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm
- Bảo đảm quyền tranh tụng là bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực tố tụng dân sự:
Để các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý kiến, quan điểm,

tranh luận về vụ án, khơng những Tịa án phải thực hiện đúng quy định của pháp
luật tố tụng, tạo điều kiện cho các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến, xuất trình tài liệu, chứng cứ,
..., mà bản thân những người này cũng phải biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là trong giai đoạn tranh luận.
Xuất phát từ lý luận trên cho thấy tranh tụng trong tố tụng dân sự chính là thể
hiện bản chất dân chủ và nhân đạo nhằm bảo vệ các quyền con người. Thơng qua
q trình tranh tụng giúp Tịa án hiểu rõ yêu cầu của các đương sự, có được các
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách quan của vụ kiện trên cơ
sở đó Tịa án giải quyết các u cầu của đương sự, xác lập lại cho đúng các quan hệ
pháp luật dân sự mà các bên tham gia hoặc những quan hệ mà pháp luật điều chỉnh
về quyền và nghĩa vụ của các bên khi có sự kiện pháp lý xảy ra, xác định đúng các
quyền, nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở của tranh tụng
trong tố tụng dân sự, các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng dân sự
đồng thời bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng quyền bình đẳng tức là tạo ra
khả năng để các chủ thể nói chung và các đương sự nói riêng bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án.
- Bảo đảm tranh tụng tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ trước Tịa án.
Chỉ trong q trình tố tụng có sự tranh tụng, người tham gia tố tụng mới có


15

các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến
vụ án.Trên cơ sở đánh giá chứng cứ và các ý kiến tranh luận của các bên tham gia tố
tụng, Hội đồng xét xử mới có điều kiện cân nhắc, xem xét để ra quyết định đúng
đắn, khách quan và đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng.
Ngồi ra, tranh tụng có vai trò giáo dục quan trọng. Nhiệm vụ của hoạt động

tố tụng không chỉ là giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ lợi ích xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, mà cịn giáo dục công dân tuân thủ luật
pháp, ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Tranh tụng tại phiên tịa địi hỏi sự có mặt của
những người tham gia tố tụng. Việc tranh luận trực tiếp, cơng khai tại phiên tịa
khơng hạn chế về thời gian, nơi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng phân tích các quy định pháp luật cần được áp dụng, giúp cho những người
tham gia tố tụng và những người tham dự phiên toà nâng cao nhận thức về pháp luật
và tuân thủ pháp luật. Phiên tịa tranh tụng khơng chỉ giáo dục cơng dân nâng cao
nhận thức pháp luật, mà còn giáo dục lòng tin vào pháp luật và hành vi tuân thủ
pháp luật của cơng dân. Bằng phiên tồ dân chủ, cơng khai, những người tham gia
tố tụng được tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền tố tụng của mình, được xét hỏi,
tranh luận cơng khai, quyết định của Tịa án được đưa ra trên cơ sở các chứng cứ
được xem xét cơng khai tại phiên tồ, việc xét xử của Tịa án tạo ra trong những
người tham dự phiên tòa và những người tham gia tố tụng lòng tin vào pháp luật,
vào hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan có thẩm quyền. Lịng tin đó là cơ sở
quan trọng để công dân tự giác tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia vào hoạt động
phịng ngừa vi phạm pháp luật khác.
1.2. Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong
tố tụng dân sự
1.2.1. Quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham
gia tố tụng
Việc giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm chính thức phát sinh kể từ thời
điểm đương sự nộp đơn khởi kiện đến Tòa án và kết thúc khi Tòa án ban hành Bản


16

án hoặc Quyết định giải quyết vụ án như Quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyền tranh tụng trong tố tụng
dân sự có thể hiểu bao gồm các nội dung cơ bản là: Cung cấp chứng cứ và u cầu

Tịa án thu thập chứng cứ mà mình khơng thể tự mình thu thập được; đánh giá
chứng cứ và thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự tại phiên hòa giải
do Tòa án thực hiện trước khi mở phiên tòa xét xử; thực hiện việc xét hỏi tại phiên
tòa; phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ; phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng;
đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích liên quan. Như
vậy, quyền tranh tụng được thể hiện xuyên suốt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ
án. Nhưng ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau thì quyền tố tụng thể hiện ở mỗi hoạt
động tố tụng khác nhau và có thể chia làm hai giai đoạn là giai đoạn trước khi mở
phiên tòa và giai đoạn xét xử.
1.2.1.1. Quyền tranh tụng khi thực hiện thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án dân
sự và đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013 và BLTTDS năm 2015 thì
nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” được thực hiện ngay từ khi đương sự
thực hiện thủ tục khởi kiện và Tòa án thụ lý vụ án dân sự.
Trong một vụ án dân sự, nếu ngun đơn có quyền khởi kiện thì bị đơn có
quyền có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền có yêu
cầu độc lập để giải quyết trong cùng vụ án mà nguyên đơn đã khởi kiện. Xét trong
mối quan hệ với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì yêu cầu phản tố của bị đơn
và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì các yêu cầu này có
thể có sự đối kháng với nhau và cần phải thực hiện thủ tục tranh tụng như nhau.
Theo quy định tại Điều 189 của BLTTDS năm 2015, để đảm bảo việc tranh
tụng và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thì khi khởi kiện, người khởi kiện phải
nêu rõ những vấn đề cụ thể yêu cầu Tịa án giải quyết đối với bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải xuất
trình các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Cùng với việc gửi đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho Tòa


17


án thì nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đó
cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sau đó Tịa án thực hiện thủ tục
thơng báo cho cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong đó nêu rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ nguyên đơn
gửi kèm theo đơn khởi kiện. Quy định này đảm bảo cho các đương sự quyền được
biết trước và chủ động chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để thực hiện quyền tranh tụng.
Khi Tòa án nhận đơn và xét thấy đủ điều kiện thụ lý vụ án dân sự thì Thẩm
phán tiến hành thủ tục cần thiết để thụ lý vụ án. Đối với bị đơn có yêu cầu phản tố
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì thủ tục yêu cầu
cũng giống như thủ tục khởi kiện. Khoản 3 Điều 196 BLTTDS năm 2015 quy định
“Trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu,
chứng cứ thì kèm theo thơng báo về việc thụ lý vụ án, Tịa án gửi cho bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung
cấp”. Như vậy thủ tục thông báo đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đã có
sự đề cao hơn vai trị hợp tác của đương sự trong việc bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng.
Kể từ khi thụ lý vụ án thì quá trình tố tụng bắt đầu. Thủ tục thông báo thụ lý
vụ án giúp cho đương sự biết mình đã bị khởi kiện và trở thành bị đơn trong vụ án
dân sự với những yêu cầu cụ thể của phía nguyên đơn, kèm theo nguyên đơn đã có
những tài liệu, chứng cứ nào đó. Thông báo thụ lý vụ án là một thủ tục liên quan
đến nguyên tắc tranh tụng, giúp cho bị đơn biết được mình đã bị ai khởi kiện, khởi
kiện về những nội dung gì và họ đã có những chứng cứ gì để khởi kiện mình. Đồng
thời thơng báo thụ lý vụ án cịn giúp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết
mình có liên quan như thế nào đến nội dung vụ án. Điều này sẽ giúp cho đương sự
chuẩn bị những chứng cứ, quan điểm, lý lẽ của mình đề đối đáp lại yêu cầu của
nguyên đơn.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Thơng báo thụ lý vụ án, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến
của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu



18

cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Trường hợp cần gia hạn, thì phải có đơn xin gia hạn
gửi cho Toà án nêu rõ lý do để Toà án xem xét. Việc bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là một trong những
quy định nhằm nâng cao vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Đây cũng là quy định thể hiện
rõ quyền và nghĩa vụ tranh tụng của các đương sự trước yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
1.2.1.2. Quyền tranh tụng trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ;
được biết tài liệu, chứng cứ do người khác xuất trình
Điều 6 của BLTTDS năm 2015 so với Điều 6 của của BLTTDS năm 2004 đã
có một số chỉnh sửa, bổ sung và ít nhiều tạo nên sự khác biệt. Khoản 1 Điều 6
BLTTDS năm 2004 ghi là “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
cho Tồ án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Tuy
nhiên khoản 1 Điều 6 của BLTTDS năm 2015 đã được sửa đổi “Đương sự có quyền
và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Như vậy, quyền nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ đã trở thành quyền chủ động 5. Căn cứ quy định BLTTDS năm 2015, giao
nộp tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự được quy định sau:
Nghĩa vụ chứng minh được quy định cụ thể tại Điều 91 của BLTTDS.Theo
đó, người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu,
chứng cứ, đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ. Khi
bên đưa ra yêu cầu chứng minh được tính có căn cứ và tính hợp pháp cho yêu cầu
của mình thì bên phản đối yêu cầu cũng phải thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu
chứng cứ, đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ. Điều đó
cho thấy, theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh được đặt ra không
chỉ đối với bên khởi kiện mà đặt ra cả với bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ


Trần Thanh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, NXB Tư Pháp,

5

Tr 16.


×