Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 53 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
.....................

PHAN PHONG

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
.....................

PHAN PHONG

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỞI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM TRÍ HÙNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2019




LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên Phan Phong mã số học viên: 801071676, là học viên lớp cao
học chuyên ngành Luật Kinh tế khóa 16 tại Bình Định, khoa Luật Kinh tế
Trường Đại học Kinh tế - Luật thành phố Hồ Chí Minh, là người viết Luận
văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật về quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh”.
Tôi xin cam đoan nội dung được trình bày trong luận văn là kết quả
nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm
khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trìch dẫn nguồn cụ
thể, chính xác và có thể kiềm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng
trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Ngƣời viết luận văn

Phan Phong


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………...............1
CHƢƠNG I:KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH…..……………..............7
1.1 Khái niệm quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...........................7
1.2 Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh....12
CHƢƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ ĐỀ XUẤT
HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHƠNG LÀNH MẠNH................................................................................21
2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh

khơng lành mạnh..............................................................................................21
2.2 Đề xuất hồn thiện pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh..............................................................................................36
KẾT LUẬN ....................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại công nghệ số, quảng cáo là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu của người tiêu
d ng.

t từ góc độ người tiêu d ng, quảng cáo gi p họ nắm ắt được thơng tin về

hàng hóa, dịch vụ, để từ đó đưa ra nh ng quyết định tiêu d ng hợp l . Có thể thấy
hoạt động quảng cáo có ảnh hưởng rất lớn tới người tiêu dùng, tới sự phát triển của
các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Cũng chính vì ảnh
hưởng nêu trên, trong hoạt động quảng cáo đã nảy sinh nh ng mặt trái, đôi khi
quảng cáo trở thành phương tiện để các doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Theo “Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh 2004” của Bộ
Công thương, cho thấy về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tính đến hết
năm 2016, đã có hơn 330 hồ sơ khiếu nại, trong đó có 182 vụ đã được điều tra, xử
lý. Trong tổng số các vụ cạnh tranh không lành mạnh, hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh chiếm tỷ lệ lớn nhất (chiếm tới 62%), tiếp theo là các vụ
việc liên quan tới hành vi án hàng đa cấp bất chính (chiếm 17%). Số vụ việc liên
quan tới các dạng hành vi khác như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, gây rối hoạt động của

doanh nghiệp khác, gièm pha doanh nghiệp khác, xâm phạm bí mật kinh doanh
chiếm tỷ lệ thấp.
Trước đây, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được Luật
Cạnh tranh năm 2004 điều chỉnh, bên cạnh đó hành vi này cịn được quy định trong
Luật Thương mại, Luật Quảng cáo...gây nên sự trùng lặp, chồng chéo làm giảm
hiệu quả tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế.
Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 được Quốc hội thơng qua ngày 12/6/2018 sẽ
có hiệu lực từ 1/7/2019 đã bỏ quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh mà quy định về hành vi lôi k o khách hàng ất chính ằng các


2

hình thức tại Khoản 51 và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác ị cấm theo
quy định của luật khác tại Khoản 7. Như vậy có sự thay đổi rất lớn là việc nhận
diện, xử l hành vi này chủ yếu sẽ được thực hiện theo Luật Thương mại năm 2005,
Luật Quảng cáo năm 2012 và các văn ản pháp luật chuyên ngành khác có liên
quan.
Nhằm đánh giá thực tiễn áp dụng, đề xuất hoàn thiện pháp luật và ước đầu
đưa ra nh ng giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, tác giả chọn đề tài
“Thực tiễn áp dụng pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh”
để làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã được
nhiều tác giả đã quan tâm, nghiên cứu với các cơng trình tiêu biểu như:
Sách chuyên khảo “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, (2009), NXB Chính trị quốc gia;
Bài viết “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh
năm 2004” của tác giả Phùng Bích Ngọc, (2013), đăng trên Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật số 6/2013;
Bài viết “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh – Nh ng vấn đề
pháp l có liên quan” của tác giả Phạm Đức Hịa (2014), đăng trên Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Số 1 Chuyên đề về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
Bài viết “Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh – Một số vấn
đề lý luận” của tác giả Hồ Thị Duyên, (2015), Tạp chí Thanh tra số 05 – 2015 ;
Liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh đã có
một số luận văn cao học, luận án tiến sỹ đã được thực hiện như:

1

Lơi kéo khách hàng ất chính ằng các hình thức sau đây: a) Đưa thơng tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho
khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng
hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu h t khách hàng của doanh nghiệp khác; b) So sánh hàng
hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ c ng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh
được nội dung.


3

Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Đức Hòa bảo vệ năm 2017 tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay” của Hồ Thị Duyên bảo vệ năm 2016 tại
Học viện Khoa học xã hội Việt Nam;
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại” của tác giả Đặng Quốc
Chương ảo vệ năm 2011 tại Trường Đại học Luật Tp.HCM;
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không

lành mạnh ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện từ việc so sánh với
pháp luật của một số nước điển hình” của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Như ảo vệ
năm 2013 tại Trường Đại học Luật Tp.HCM;
Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm
lẫn theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Linh ảo
vệ năm 2014 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh đối với quảng cáo so sánh” của tác giả Nguyễn Châu Bảo Ngọc bảo vệ
năm 2015 tại Trường Đại học Luật Tp.HCM;
Hầu hết các cơng trình nêu trên chủ yếu là từ góc độ nghiên cứu và theo Luật
Cạnh tranh năm 2004. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thực tiễn về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh để đánh giá và đưa ra đề xuất
hoàn thiện pháp luật về quảng cáo cạnh tranh khơng lành mạnh từ góc độ Luật
Cạnh tranh năm 2018 hết sức cần thiết để triển khai áp dụng trong thực tế thời gian
tới.
Nh ng nội dung như cơ sở lý luận về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, nguồn gốc và quá trình phát triển của quảng cáo, sự cần thiết phải
điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và của người tiêu d ng, đánh giá quy định pháp


4

luật liên quan…trong các cơng trình nêu trên được tác giả Luận văn này tham khảo
và sử dụng để so sánh, đối chiếu.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt mục đích nghiên cứu là (i) xác định rõ hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2018; (ii) đánh giá thực tiễn
thi hành, áp dụng quy định pháp luật để đánh giá, dự áo tác động của Luật Cạnh

tranh năm 2018; (iii) đề xuất hoàn thiện pháp luật và giải pháp để thực hiện hiệu
quả quy định pháp luật về quảng cáo.
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả xác định nh ng nhiệm vụ sau:
- Nêu và phân tích các quy định của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2018, theo Luật Thương
mại năm 2005, Luật Quảng cáo năm 2012;
- Phân tích thực tiễn điều tra, xử lý các vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh cụ thể để chỉ ra nh ng bất cập của quy định pháp luật liên quan và
đối chiếu, so sánh trong trường hợp áp dụng Luật Cạnh tranh năm 2018;
- Đánh giá tác động của Luật Cạnh tranh năm 2018 liên quan đến các luật
chuyên ngành c ng điều chỉnh về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh và thực tiễn thực thi pháp luật;
- Đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật cụ thể và giải pháp để thực hiện
hiệu quả quy định pháp luật về quảng cáo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tác giả xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Quy định pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 và Luật Thương
mại năm 2005, Luật Quảng cáo năm 2012 và các văn ản hướng dẫn thi hành;
- Thực tiễn áp dụng pháp luật qua các vụ việc quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh cụ thể trong thực tiễn đã được điều tra, xử lý.


5

Đề tài không đi sâu nghiên cứu về thủ tục điều tra, iện pháp xử l hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Luận văn cũng không nghiên cứu quy định
về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật chuyên ngành như
pháp luật ngân hàng, pháp luật viễn thông
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Về nền tảng lý luận, tác giả sử dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết
học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, và các quan
điểm của Đảng và nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị trường.
Về các phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân
tích (bao gồm phân tích luật và phân tích vụ việc), phương pháp tổng hợp. Phương
pháp phân tích luật chủ yếu được sử dụng ở Chương 1, phương pháp phân tích vụ
việc được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 của Luận văn nhằm đưa ra nh ng nhận xét,
kết luận đối với các vấn đề luận văn nêu ra; từ đó sử dụng phương pháp tổng hợp để
rút ra các vấn đề, đưa ra đề xuất hoàn thiện quy định về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được chia thành
2 chương như sau:
Chương I: Khái quát quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh
Chương II: Thực tiễn áp dụng pháp luật và đề xuất hoàn thiện pháp luật về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
7. Địa chỉ ứng dụng
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan, cá nhân trong tham gia xây dựng văn ản quy pháp pháp luật; các cơ
quan chức năng liên quan trong việc áp dụng các quy định pháp luật về hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như các cơ quan của Ủy ban Cạnh
tranh quốc gia, Thanh tra Bộ Văn hóa, thể thao, Du lịch; Bộ Thông tin và truyền


6

thơng; Thanh tra Sở Văn hóa, thể thao, Du lịch; Thanh tra Sở Thông tin và truyền
thông.



7

CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1 Khái niệm quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
uất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, hoạt động quảng
cáo2 không chỉ đơn giản là hành vi quảng cáo cho sản phẩm hay doanh nghiệp mà
còn là sự cạnh tranh gi a các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động
kinh doanh. Pháp luật Việt Nam tồn tại hai khái niệm quảng cáo đó là quảng cáo
và quảng cáo thương mại, nhưng do xuất phát từ bản chất của tính chất cạnh tranh,
nên hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp là hành
vi thực hiện nhằm x c tiến thương mại được hiểu theo khái niệm Luật Thương mại
năm 20053.
Thông qua hoạt động quảng cáo, thương nhân muốn tác động đến tâm lý,
thói quen và hành vi của người tiêu dùng nhằm thuyết phục người tiêu dùng mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ, từ đó th c đẩy tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng, nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bản chất chủ yếu của hoạt động quảng
cáo là nhằm xúc tiến thương mại hay nói cách khác là nhằm đưa thương hiệu của
doanh nghiệp mình ăn sâu vào tâm trí khách hàng, th c đẩy việc tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ để thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, bên cạnh việc các doanh
nghiệp cạnh tranh bằng thực chất chất lượng hàng hóa, dịch vụ của mình thơng qua
hoạt động quảng cáo ấn tượng để thu hút khách hàng thì trong thực tiễn cũng đã
xuất hiện nh ng hành vi hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và
các hành vi này đều được pháp luật của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát

2

Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo năm 2012, quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới

thiệu đến công ch ng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ khơng có mục
đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính
sách xã hội; thơng tin cá nhân.
3
Theo Điều 102 Luật Thương mại năm 2005, quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hố, dịch vụ của mình.


8

triển trên thế giới nghiên cứu và xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
quy định thành điều cấm4.
Trong khoa học pháp l , khi xác định hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
người ta thường đặt nó trong mặt đối lập với hành vi cạnh tranh lành mạnh và pháp
luật quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một trong nh ng hành vi cụ thể
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cho nên, khi tiếp cận hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng phải dựa trên nh ng quan điểm, nguyên tắc
chung của pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật cạnh tranh khơng lành mạnh
nói riêng. Theo một trong nh ng định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh được
phổ iến rộng rãi tại Điều 10 is Công ước Paris 1883 về ảo hộ quyền sở h u công
nghiệp, được ổ sung vào Công ước năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo Văn
ản Stockholm năm 1967, thì bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thơng
lệ trung thực, thiện chí trong cơng nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Việt Nam là thành viên của Công ước Paris, do đó
định nghĩa tại Điều 10 is có thể coi là nguồn đầu tiên của pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam và Luật Cạnh tranh 2004 đã đưa ra khái niệm và liệt
kê các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, đó là các hành vi của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng5.

Luật Cạnh tranh năm 2018 đã có thay đổi đáng kể trong định nghĩa hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh, xác định rõ đó là hành vi của doanh nghiệp (i) trái với
nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong
kinh doanh; (ii) gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
4

Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ điều 19 đến
điều 24, bao gồm các dạng hành vi: hành vi làm hàng giả, quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc quảng cáo sai sự
thật, hành vi gièm pha/nói xấu doanh nghiệp khác, và các hành vi giả dối hoặc hành vi không lành mạnh gây
ảnh hưởng tới trật tự thương mại trên thị trường một cách rõ ràng; trong các văn ản khác nhau của pháp luật
Hoa Kỳ có đưa ra khái niệm về hành vi quảng cáo gian dối (Điều 14 Luật về Ủy an Thương mại liên bang),
hay các dấu hiệu của hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn (điều 43a Luật về Ủy an Thương mại liên bang); Luật
chống cạnh tranh không lành mạnh của CHLB Đức cũng dành phần 5, phần 6 để quy định về hành vi quảng
cáo gian dối, gây nhầm lẫn và quảng cáo so sánh;....
5
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004.


9

pháp của doanh nghiệp khác6. Luật Cạnh tranh năm 2018 không quy định nhưng
chúng ta cần hiểu doanh nghiệp khác ở đây phải là đối thủ cạnh tranh.
Nhìn chung, cách tiếp cận và định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh của
pháp luật Việt Nam cơ ản là phù hợp với Điều 10 is Công ước Paris và pháp luật
các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới. Có thể thấy, có nhiều quan niệm
khác nhau về cạnh tranh không lành mạnh nhưng đều coi cạnh tranh không lành
mạnh là nh ng hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích của các chủ thể kinh doanh
khi thực hiện hành vi là không lành mạnh (chứ không chỉ là tính bất hợp pháp), mà
hậu quả của nó gây ra sự bất lợi hay thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh trong kinh
doanh.

Quy định mới của Luật Cạnh tranh năm 2018 làm thay đổi hoàn toàn cách
tiếp cận với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là về hậu quả của hành
vi, theo đó chỉ nh ng hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác, thể hiện rõ tính cạnh tranh mới có thể ị
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm 2018 được xếp trong nhóm hành vi lơi
kéo khách hàng bất chính, được nhấn mạnh đó phải là nh ng hành vi quảng cáo gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác.
Qua nghiên cứu, cho thấy hầu hết pháp luật các quốc gia chưa có khái niệm
cụ thể về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, việc quy
định điều chỉnh và xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
của các quốc gia có các đặc thù và các tiếp cận phù hợp quan điểm điều tiết nền
kinh tế thị trường, từng thời kỳ nhất định. Ở Việt Nam, Luật quảng cáo năm 2012
khơng đưa ra giải thích thế nào là cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo mà chỉ quy định các hành vi ị cấm trong hoạt động quảng cáo tại Điều 8 gồm
16 nhóm hành vi, trong đó có hành vi “Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không
lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”. Như vậy, để hiểu thế nào là
6

Tác giả Luận văn nhấn mạnh. Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2018.


10

hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, cần xem x t dựa trên
quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018, theo đó có thể hiểu quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công
ch ng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh
doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu trái với nguyên tắc thiện chí,

trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.
Để nhận diện quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh có thể dựa trên
các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh
tranh do các chủ thể kinh doanh sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công
chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp
cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan lợi ích với các doanh nghiệp đối
thủ. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với đối thủ
hoạt động trong c ng lĩnh vực để có thể lơi kéo, thuyết phục lượng khách hàng về
phía mình nhằm tăng doanh thu và tối đa hóa lợi nhuận. Chủ thể thực hiện hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp7 thực hiện hoạt
động quảng cáo trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên,
chuyên nghiệp.
Thứ hai, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh
nghiệp kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu trái với nguyên tắc
thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh
doanh.
Nguyên tắc trung thực, thiện chí là nền tảng của mọi giao dịch dân sự, bởi lẽ
một giao dịch dân sự dù đơn giản hay phức tạp, mức độ dù lớn hay nhỏ thì khi thực

7

Khoản 1 Điều 2 Luật cạnh tranh năm 2018 quy định áp dụng với tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi
chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích, doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.



11

hiện các quyền và thi hành các nghĩa vụ, sự trung thực, thiện chí ln được đặt lên
vị trí hàng đầu. Mục đích của quảng cáo là nhằm thuyết phục người tiêu dùng mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ, từ đó th c đẩy tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng cho
nên nó ln gắn liền với lợi ích của cá nhân, pháp nhân khác khi c ng tham gia giao
dịch. Đồng thời, đây cũng chính việc nội luật hố quy định nội dung Điều 10 is
Cơng ước Paris 1883 về ảo hộ quyền sở h u công nghiệp vào pháp luật trong nước
để bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
Tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh có thể hiểu là
các quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh
doanh trên thị trường. Để có thể phân định một hành vi có đi ngược lại nh ng quy
tắc xử sự chung trong kinh doanh hay khơng thì địi hỏi các cơ quan lập pháp phải
nghiên cứu, khảo sát và đánh giá sâu sắc về thực tiễn xã hội để từ đó xây dựng nội
dung văn ản hướng dẫn phù hợp với thực tế cuộc sống.
Thứ ba, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.
Trong lĩnh vực quảng cáo, hoạt động canh tranh chủ yếu là việc các doanh
nghiệp đưa ra sản phẩm quảng cáo nhằm khuếch trương thương hiệu hàng hóa, dịch
vụ để thu hút khách hàng. Với mục tiêu này, nếu doanh nghiệp có các hành vi
quảng cáo cạnh tranh khơng lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác nhằm các mục đích như: so sánh
để khẳng định tính ưu điểm trong hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình với
hàng hóa, dịch vụ cùng lồi của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được
nội dung; đưa ra thông tin quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về
doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan
đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của
doanh nghiệp khác... Thiệt hại ở đây được hiểu là nh ng thiệt hại về vật chất như
ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lời và nh ng tổn hại về uy tín của đối thủ

cạnh tranh trên thị trường.


12

Hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại nhất
định dù thiệt hại này đã xảy ra hay chưa xảy ra thì cũng cần được ngăn chặn. Nh ng
thiệt hại cũng gắn liền với trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền lợi
cho các ên. Đặc điểm này mang

nghĩa về tố tụng và gắn liền với yêu cầu bồi

thường thiệt hại khi doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh.
1.2 Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Hoạt động quảng cáo ở Việt Nam được điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực pháp luật
và trong nhiều văn ản luật khác nhau. Điều chỉnh trực tiếp hoạt động quảng cáo là
Luật Quảng cáo năm 2012 và các văn ản hướng dẫn thi hành, triển khai thực hiện8.
Tuy nhiên, để xác định hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trước
tiên phải dựa trên quy định của Luật Cạnh tranh.
Trước đây, Điều 45 của Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định liệt kê hành vi
quảng cáo của doanh nghiệp bị cấm thực hiện nhằm cạnh tranh không lành mạnh
“1. So sánh trực tiếp hàng hố, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác; 2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm
lẫn cho khách hàng; 3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng”. Cũng như nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác, pháp luật Việt
Nam quy định mang tính chất liệt kê thay cho việc xây dựng một khái niệm cụ thể.
Việc liệt kê nh ng hành vi ị coi là quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
này có ưu điểm là có thể làm rõ hơn iểu hiện cụ thể của các hành vi thuận lợi cho
việc thực hiện và kiểm tra hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp.

8

Nghị định 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Quảng cáo; Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; Thơng tư 10/2013/TT-BVHTTDL ngày
6/12/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của
Luật Quảng cáo. Quản l nhà nước đối với hoạt động quảng cáo hiện nay được quy định ở các văn ản: Nghị
định số 189/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/12/007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ công thương; Nghị định 187/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và Truyền thông; Nghị định 185/2007/NĐ-CP ngày
25 tháng 12 năm 2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch.


13

Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã ỏ quy định về hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh mà quy định về hành vi lôi k o khách hàng ất
chính tại Khoản 5 ao gồm các hình thức: a) Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện
giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút
khách hàng của doanh nghiệp khác; ) So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với
hàng hóa, dịch vụ c ng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được
nội dung.
Việc đưa thơng tin ở đây có thể hiểu đó ao gồm nhưng khơng giới hạn ở
việc quảng cáo (khái niệm đưa thông tin rộng hơn khái niệm quảng cáo). Việc đưa
thông tin này ị cấm nếu là thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về
doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan
đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
Đưa thơng tin gian dối có thể hiểu bao gồm quảng cáo có nội dung thơng tin

sai lệch, khơng đ ng hay khơng có trên thực tế nhằm lừa dối người tiêu dùng để
trục lợi cho mình9. Đưa thơng tin gây nhầm lẫn bao gồm hình thức quảng cáo mặc
d không đưa ra thông tin sai sự thật như quảng cáo gian dối nhưng nội dung thông
tin đưa ra lại lập lờ, không đầy đủ rõ ràng nhằm tạo sự hiểu lầm cho người tiêu
dùng, lợi dụng điều đó thu lợi nhuận về cho doanh nghiệp10. Đây là loại hình quảng
cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh phổ biến và thường gặp nhất trong đời sống
thực tiễn.
Doanh nghiệp có hành vi vi phạm có thể thực hiện quảng cáo sai sự thật,
quảng cáo gây nhầm lẫn bằng việc sử dụng tiếng nói, ch viết, hình ảnh trên các
loại phương tiện quảng cáo như áo chí ( áo in, áo hình, áo điện tử…), ăng đĩa
hoặc thơng qua hội chợ, triển lãm, ăng rơn… mà về hình thức nhìn chung cũng
khơng có sự khác biệt với quảng cáo bình thường. Thực tế cho thấy chủ thể của
9

Ví dụ trước đây có cơng ty s a quảng cáo s a của mình là s a tươi nguyên chất 100% mặc dù s a này được
pha ra từ s a bột.
10
Ví dụ trước đấy có doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện ở Việt Nam với công nghệ Đài Loan nhưng đưa ra
quảng cáo “Hàng Mỹ không đắt như ạn vẫn nghĩ” khiến khách hàng hiểu lầm rằng sản phẩm của doanh
nghiệp này là hàng Mỹ.


14

hành vi quảng cáo gian dối thông thường là thương nhân quảng cáo (chứ không
phải thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo), bởi vì chính thương nhân quảng
cáo biết rất rõ chất lượng sản phẩm nhưng lại cố tình đưa ra nh ng thơng tin sai lệch
để có thể án được nhiều hàng hóa hơn. Thương nhân quảng cáo phải có trách
nhiệm chứng minh chất lượng của sản phẩm và chịu trách nhiệm về nh ng thông tin
đưa ra.

Nội dung thông tin quảng cáo đưa ra là về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch
vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh
nghiệp cung cấp.
Đặc iệt, Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định dấu hiệu mục đích của hành vi
là nhằm thu h t khách hàng của doanh nghiệp khác. Theo tác giả Luận văn, quy
định này chưa minh ạch và không khả thi vì chưa nêu rõ ràng thế nào là thu h t
khách hàng của doanh nghiệp khác, hành vi của doanh nghiệp đưa thông tin gian
dối hoặc gây nhầm lẫn để thu h t khách hàng về doanh nghiệp mình thì có phải là
thu h t khách hàng của doanh nghiệp khác hay khơng? Và nếu chưa minh ạch thì
khó khả thi vì khi áp dụng trên thực tế, doanh nghiệp có thể giải trình rằng hành vi
của mình chỉ là để thu h t khách hàng đơn thuần nên khơng vi phạm vì Luật quy
định rằng phải có dấu hiệu thu h t khách hàng của doanh nghiệp khác. Dấu hiệu này
mang tính chủ quan, rất khó có thể xác định đối với doanh nghiệp là pháp nhân mục
đích khi thực hiện hành vi là gì.
So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ c ng loại của
doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung là hành vi đưa ra thơng
tin có chứa đựng yếu tố so sánh (luật không quy định rõ là so sánh trực tiếp hay
gián tiếp) đáp ứng dấu hiệu: (i) so sánh với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
khác (luật cũng không quy định rõ doanh nghiệp này có phải là đối thủ cạnh tranh
hay khơng); (ii) không chứng minh được nội dung (luật cũng không quy định là cần
chứng minh thế nào, dưới hình thức gì, chứng minh với ai). Quy định của Luật
Cạnh tranh như vậy, theo các tiêu chí đánh giá quy định pháp luật vẫn chưa minh
ạch, gây khó khăn trong q trình áp dụng pháp luật.


15

Khoản 7 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh ị cấm cịn là các hành vi ị cấm theo các luật khác. Như vậy về
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ên cạnh quy định của Luật

Cạnh tranh còn được quy định trong các luật khác và là hành vi đáp ứng đầy đủ các
dấu hiệu: (i) là hành vi quảng cáo; (ii) là hành vi ị cấm trong các luật khác; (iii) là
hành vi có dấu hiệu cạnh tranh khơng lành mạnh – gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại cho doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh.
Hành vi quảng cáo ị cấm được quy định trong các luật khác cụ thể là Luật
Thương mại năm 2005, Luật Quảng cáo năm 2012.
Điều 109 Luật Thương mại 2005 quy định về các quảng cáo thương mại ị
cấm, trong đó có Khoản 9 quy định trực tiếp cấm quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh theo quy định của pháp luật và có hai hành vi quảng cáo bị cấm đáp ứng
điều kiện gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác là đối thủ
cạnh tranh quy định ở Khoản 6, Khoản 7.
Khoản 7 Điều 109 Luật Thương mại năm 2005 quy định cấm quảng cáo sai
sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng,
xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của
hàng hoá, dịch vụ.
Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012 liệt kê hành vi bị cấm trong hoạt động
quảng cáo, ở Khoản 12 quy định cấm quảng cáo có nội dung cạnh tranh khơng lành
mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh và có 3 hành vi quảng cáo bị cấm
đáp ứng điều kiện gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác là
đối thủ cạnh tranh quy định ở Khoản 9, Khoản 10, Khoản 11.
Khoản 9 Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012 quy định cấm quảng cáo không
đ ng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về
số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng
loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hố, dịch vụ đã
đăng k hoặc đã được cơng bố.


16


Hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
là một dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến tồn tại trong mọi lĩnh vực
của nền kinh tế, được quy định trong hầu hết pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh của các quốc gia. Mục đích của quảng cáo là đưa nh ng thông tin về sản
phẩm, dịch vụ đến gần hơn với người tiêu dùng. Trong kinh doanh, doanh nghiệp sử
dụng nhiều cách thức khác nhau để lôi kéo khách hàng, quảng á thương hiệu và
sản phẩm, khẳng định sự nổi trội, đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ do mình cung
cấp, nhưng khơng thể vì thế mà doanh nghiệp có thể đưa ra các thơng tin khơng
trung thực, gian dối hoặc gây nhầm lẫn để lôi kéo khách hàng. Tuy nhiên, trong
thực tế vì lợi nhuận nên vẫn có doanh nghiệp đã không ngần ngại đưa vào trong các
sản phẩm nh ng thông tin gian dối, không trung thực hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng. Có thể nói, giá cả, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, nguồn gốc xuất xứ của
hàng hoá, sản phẩm là nh ng yếu tố có tác động rất lớn quyết định lựa chọn hàng
hóa của khách hàng. Nếu người bán hàng cung cấp các thông tin bị sai lệch sẽ làm
cho sự lựa chọn khơng chính xác, xâm phạm quyền tự do giao kết hợp đồng của
người tiêu dùng. Gian dối trong quảng cáo bằng cách làm sai lệch nhận thức, gây
nhầm lẫn trong ý thức lựa chọn của khách hàng là dấu hiệu xác định tính khơng
lành mạnh của hành vi.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều quốc gia đều đưa ra nguyên
tắc trung thực trong việc quảng cáo, cấm các hành vi quảng cáo gian dối. Dưới góc
độ cạnh tranh, Luật Cạnh tranh điều chỉnh trực tiếp vào hành vi cụ thể ở đây là
quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn. Cũng giống như điều chỉnh quảng cáo bắt
chước, quảng cáo so sánh, pháp luật cũng hiện hành chưa quy định thế nào là quảng
cáo gian dối hay quảng cáo gây nhầm lẫn, cũng không liệt kê các hành vi quảng cáo
gian dối cụ thể. Thực tiễn pháp lý ở nhiều nước cho thấy mỗi ngành kinh tế phải có
nh ng chế định chống quảng cáo gian dối và quảng cáo gây nhầm lẫn đặc thù.
Trong ngành hàng không, quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối thường
liên quan giá vé máy bay, trong ngành kinh doanh bất động sản quảng cáo gây
nhầm lẫn và quảng cáo gian dối thường liên quan đến diện tích bất động sản được



17

bán, dịch vụ kèm theo…Trong ngành ảo hiểm quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng
cáo gian dối thường liên quan các ưu đãi dịch vụ bảo hiểm, cam kết trả bảo hiểm…
Điểm mới của Luật Cạnh tranh năm 2018 là chỉ cấm hành vi so sánh hàng
hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ c ng loại của doanh nghiệp khác
nhưng không chứng minh được nội dung. Như vậy dường như Luật Cạnh tranh năm
2018 cho ph p có thể so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ
c ng loại của doanh nghiệp khác, chỉ cần chứng minh được nội dung11. Quy định
như vậy có thể là khơng thống nhất với quy định của Luật Thương mại năm 2005,
Luật Quảng cáo năm 2012. Quảng cáo so sánh nằm trong danh mục quảng cáo
thương mại bị cấm theo quy định tại khoản 6 Điều 109 Luật Thương mại năm 2005
là: “Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác”12. Khoản 10 Điều 8
Luật Quảng cáo năm 2012 có quy định cấm “Quảng cáo bằng việc sử dụng phương
pháp so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác”.
Mặc dù pháp luật về quảng cáo so sánh đã có từ lâu đời, nhưng vẫn chưa có
một khái niệm nhất quán cho tất cả các quốc gia về quảng cáo so sánh. Trong Luật
Thương mại năm 2005, Luật Quảng cáo năm 2012 đều không định nghĩa quảng cáo
so sánh. Hiểu theo cách thông thường thì quảng cáo so sánh là việc thương nhân
trong q trình quảng cáo đã đưa ra nh ng thơng tin về sản phẩm của mình có nội
dung so sánh với sản phẩm c ng loại của thương nhân khác. Hay nói cách khác,
quảng cáo so sánh là đưa ra thơng tin về sản phẩm, dịch vụ của mình nhưng lại làm
11

Luật Cạnh tranh năm 2004 trước đây coi quảng cáo so sánh trực tiếp là hành vi cạnh tranh không lành

mạnh và cấm thực hiện tại Khoản 1 Điều 45 của Luật này thì: “Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
quảng cáo sau đây: 1. So sánh trực tiếp hàng hố, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác…”
12
Trước đây, Điều 22 Nghị định 37/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương
nhân có quyền so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi phạm quyền sở h u trí tuệ trong sản phẩm
quảng cáo thương mại sau khi có xác nhận của cơ quan quản l nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng
hàng giả, hàng vi phạm quyền sở h u trí tuệ để so sánh”. Nghị định 37/2006/NĐ-CP đã hết hiệu lực và được
thay thế bằng Nghị định 81/2018/NĐ-CP


18

công ch ng nhận ra một hoặc một vài đối thủ cạnh tranh hoặc các sản phẩm hay các
dịch vụ c ng loại mà đối thủ cạnh tranh sản xuất, cung ứng hay phân phối và đáp
ứng được một số điều kiện khác do pháp luật quy định.
Như vậy, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh sẽ phát sinh vấn đề liệu tổ chức, cá nhân kinh doanh có được so
sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của tổ chức, cá nhân khác? Theo người viết Luận văn, d hiểu theo quy
định của Luật Ban hành văn ản quy phạm pháp luật năm 2012 thì luật nào ban
hành sau sẽ có hiệu lực cao hơn tức là sẽ áp dụng theo quy định của Luật Cạnh
tranh năm 2018 nhưng vẫn cần có hướng dẫn cụ thể, trực tiếp so sánh hàng hóa,
dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ c ng loại của doanh nghiệp khác, chỉ cần
chứng minh được nội dung. Tuy nhiên cũng cần hướng dẫn minh bạch về điều kiện
khi nào nội dung được coi là được chứng minh.
Trong các văn ản chuyên ngành cũng có các quy định về hoạt động quảng
cáo như Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nhiều quy định nghiêm cấm các
hành vi thông tin, quảng cáo sai sự thật và các hành vi khác nhằm lừa dối người tiêu

d ng. Điều chỉnh quảng cáo về chất lượng hàng hóa, Khoản 2 Điều 9 Luật Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quy định nghiêm cấm hành vi - Thông tin, quảng cáo
sai sự thật và các hành vi gian dối khác trong hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và
lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật. Điều chỉnh về quảng cáo trong lĩnh vực kinh doanh
bảo hiểm, Điểm a, Khoản 2, Điều 10 Luật kinh doanh bảo hiểm cấm hành vi thông
tin, quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều kiện bảo hiểm làm
tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm. Trong lĩnh vực dược
phẩm, Khoản 5 Điều 9 Luật dược cũng có quy định nghiêm cấm hành vi thông tin,
quảng cáo thuốc sai sự thật, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Có thể thấy, trong từng lĩnh vực cụ thể, Nhà nước đã an hành các quy định
liên quan đến hoạt động quảng cáo. Các quy định vi phạm hoạt động quảng cáo
trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ là nguồn của pháp luật cạnh tranh khi điều chỉnh cũng


19

như nhận dạng, xác định từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo khi nh ng hành vi đó được chủ thể thực hiện vì mục đích cạnh tranh gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác. Với tư cách là “Hiến pháp” của nền kinh tế thị trường, Luật Cạnh tranh đã
đưa ra khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo cơ sở để xác định các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung.


20

KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một trong các hành vi của
cạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động quảng cáo của nước ta được điều chỉnh ở
nhiều lĩnh vực pháp luật và trong nhiều văn ản luật khác nhau. Hành vi quảng cáo

nhằm cạnh tranh không lành mạnh được phân biệt với các hành vi quảng cáo so
sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho
khách hàng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại, Luật Quảng cáo
thông qua việc việc xác định cấu thành của hành vi này.
Nội dung của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh là tổng thể quy phạm pháp luật nhằm xác định hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh, làm cơ sở để xác định trách nhiệm, chế tài đối với chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm và bảo về quyền và lợi ích cho các chủ thể bị xâm hại.
Các quy định vi phạm hoạt động quảng cáo trong từng lĩnh vực cụ thể là nguồn của
pháp luật cạnh tranh khi điều chỉnh cũng như nhận dạng, xác định từng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo khi nh ng hành vi đó được
chủ thể thực hiện vì mục đích cạnh tranh.
Thực tế các quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã
giải quyết khá tốt mối quan hệ gi a luật chung và luật chuyên ngành; đã xây dựng
được khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và liệt kê ra được các hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. Tuy nhiên, hiện nay để xác
định dấu hiệu cụ thể các hành vi này chưa được rõ trong nhiều trường hợp; một số
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh mới xuất hiện chưa được điều
chỉnh trong các quy phạm pháp luật


21

CHƢƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÀNH VI QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh

Qua nghiên cứu các áo cáo13, ài viết của các tác giả và khảo sát thực tế tại
Tp. HCM, Quảng Ngãi, Bình Định....ở các địa phương hầu như chưa có vụ việc
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được xử l .
Luật Cạnh tranh 2018 được thơng qua và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2019 đã
bỏ quy định về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như vậy việc
điều tra, xử l hành vi này chủ yếu sẽ được chuyển giao từ Cục Quản l cạnh tranh
Bộ Công thương sang các Bộ, ngành liên quan. Theo quy định của pháp luật, trong
lĩnh vực quảng cáo nói chung thì Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có là cơ quan có
chức năng thực hiện quản l nhà nước; Các Bộ, cơ quan ngang ộ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch thực hiện quản l nhà nước về hoạt động quảng cáo; Ủy ban nhân dân
các cấp thực hiện quản l nhà nước về hoạt động quảng cáo trong phạm vi địa
phương theo thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tế, đối với lực lượng thanh tra văn hố đơn vị chịu trách nhiệm chính trong quá trình thực thi quy định về quảng cáo nói
chung và quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh nói riêng quá mỏng. Theo
thống kê, một tỉnh/thành phố trung ình có khoảng 5-15 thanh tra thuộc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, trong đó chỉ có khoảng 1/3 phụ trách mảng văn hóa, cịn
lại là các thanh tra thể thao, thanh tra du lịch....Nhân lực mỏng, kinh phí hạn hẹp,
rồi quy trình xử phạt phức tạp, khó nhận diện hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh

13

Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Quảng cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Báo cáo sơ kết 5
năm thực hiện Luật Quảng cáo và các áo cáo định kỳ hàng năm của Sở Văn hóa và Thể thao Bình Định,
Quảng Ngãi, Thành phố Hồ Chí Minh; và các Báo cáo cơng tác ngành tịa án của TAND tỉnh Bình Định từ
năm 2012 đến năm 2017.


×