Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bình luận quy định của pháp luật việt nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.17 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong quan hệ thương mại luôn tồn tại những nguy cơ xảy ra tranh chấp giữa các
chủ thể hoặc nhóm chủ thể tham gia quan hệ. Những chủ thể này lại không thể tự giải
quyết được với nhau, vì lẽ đó họ giao vụ việc tranh chấp cho người thứ ba là các trọng tài
viên. Trọng tài viên sẽ là người xét xử và ra quyết định cuối cùng trong trường hợp này
và họ đồng thời không muốn đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Tòa án. Mặc dù, phương
pháp giải quyết bằng trọng tài đã có từ lâu đời trên thế giới và du nhập vào nước ta từ
khá sớm (cuối thế kỷ XIX)1 song, trên thực tế thì nó đã tác động không đáng kể đến xã
hội Việt Nam. Trong nền thương mại đang không ngừng biến động như hiện nay thì vị
thế của trọng tài thương mại ở nước ta đang dần được nâng cao cũng như các quy định
của pháp luật về trọng tài cũng vẫn sẽ hoàn thiện hơn trong tương lai. Bên cạnh đó, quan
hệ thương mại được thực hiện là hoàn toàn dựa trên ý chí của các bên chủ thể, cho nên
việc các bên có thể thỏa thuận về trọng tài thương mại là hoàn toàn hợp lý. Em chọn đề
bài sớ 09: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng
tài thương mại.” để giải quyết và nhằm đưa ra những nhận định của bản thân về vấn đề
này.

1 />Trọng tài thương mại: Quá trình hội nhập và pháp triển

2


NỘI DUNG

I)


Lịch sử phát triển trọng tài thương mại ở Việt Nam
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, trọng tài thương mại, với tư cách là một cơ chế

giải quyết tranh chấp ngoài toà án, đã và đang góp phần không nhỏ vào sự ổn định của
hoạt động thương mại trên thế giới. So với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
trọng tài thương mại Việt Nam trải qua quá trình phát triển đặc thù. Những sự kiện lịch
sử diễn ra giữa thế kỷ XX đã làm thay đổi vận mệnh quốc gia, trong đó có hệ thống pháp
luật. Cùng với đó, các tổ chức trọng tài kinh tế được hình thành. Ngoài ra, còn song song
tồn tại trọng tài phi chính phủ với hai cơ quan là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội
đồng trọng tài hàng hải Việt Nam, sau này được sáp nhập thành Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo Quyết định số
204/TTg ngày 28/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1995, Việt Nam gia nhập
Công ước New York, đánh dấu sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý nhằm tạo thuận
lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong giai đoạn sơ khai, không có
một luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và trọng tài
quốc tế. Thêm vào đó, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được bảo
đảm thi hành. Vì thế, mô hình trọng tài thương mại chưa thực sự đạt được những thành
tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của trọng tài thương mại hiện đại.
Ngày 25/02/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Trọng tài
thương mại, thể hiện nỗ lực hội nhập to lớn của Việt Nam cũng như đánh dấu giai đoạn
chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật trọng tài ở nước ta. Pháp lệnh mang ý
nghĩa quan trọng về mặt điều chỉnh pháp luật, là nền tảng pháp lý cho trọng tài Việt Nam
tiếp cận, hoà nhập với xu hướng chung của nền tài phán trọng tài quốc tế. Tiêu biểu,
Pháp lệnh đã xác định phạm vi cụ thể thẩm quyền của trọng tài bằng cách liệt kê các loại
việc trọng tài được giải quyết, đưa ra cơ chế xác định hiệu lực pháp lý của thoả thuận
trọng tài, quy định chặt chẽ quy trình tố tụng, xác định rõ những nguyên tắc quan trọng
nhất phù hợp với thông lệ trọng tài trên thế giới cũng như quy định sự hỗ trợ của toà án
đối với trọng tài và xác lập giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài.
Bước vào giai đoạn mới, Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội thông
qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011, gồm 13 chương


3


và 82 điều, thể hiện sự đột phá của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam, cụ thể như
đã khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các
tranh chấp thương mại, giới hạn các tình huống làm thoả thuận trọng tài vô hiệu đồng
thời quy định hướng giải quyết khi thoả thuận trọng tài không rõ ràng, lần đầu tiên có
điều khoản bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp, cho phép trọng tài viên là người nước ngoài cũng như nội luật hoá các cam kết
quốc tế của Việt Nam về dịch vụ trọng tài. Ngoài ra, luật cũng xác định rõ mối quan hệ
giữa trọng tài với toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp, mở rộng thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài và tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng. Từ đó,
Luật Trọng tài thương mại 2010 bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện
hành, nâng cao khả năng tính khả thi trong thực tế và tiến đến gần hơn các tiêu chuẩn
quốc tế.
Chính nhờ những cải cách rõ rết đó mà trong những năm qua, số vụ tranh chấp
thương mại được giải quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC tăng liên tục, từ 18
vụ / năm trong giai đoạn 1993 – 2003 lên 42 vụ / năm trong giai đoạn 2004 – 2010. Đội
ngũ trọng tài viên cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài
thương mại tại Việt Nam chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết
khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý trong năm
2015 là 146, vẫn rất khiêm tốn nếu so với 271 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Singapore (SIAC) giải quyết hay như Uỷ ban trọng tài Bắc Kinh là hơn 1.500 vụ. 2
Như vậy, mặc dù Việt Nam đã xây dựng thành công đạo luật riêng về trọng tài
thương mại, đây chỉ là bước khởi đầu. Chuyển tải thành công pháp luật trọng tài vào
cuộc sống, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, là nhiệm
vụ không hề dễ dàng. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực và quyết tâm của toàn xã hội.

II)

Khái quát chung về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài
1. Khái niệm về trọng tài thương mại
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp bằng cách giao vụ
việc tranh chấp cho người thứ ba là các trọng tài viên để họ xét xử và ra quyết định cuối
cùng trong trường hợp các bên không tự dàn xếp được với nhau bằng con đường thương
2 />
4


lượng trực tiếp đồng thời không muốn đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án thương
mại.”3
Phương pháp trọng tài phải được thực hiện theo một thủ tục nhất định được theo
quy định của pháp luật4 và được kết thúc bằng phán quyết trọng tài. Thẩm quyền xét xử
của trọng tài không đương nhiên mà có, nó được các bên trong tranh chấp trao cho,
thường được quy định cụ thể trong hợp đồng hoặc dưới hình thức một thỏa thuận riêng
lẻ. Bên cạnh đó, tuy phán quyết của trọng tài có hiệu lực pháp lí tương tự quyết định của
tòa án trừ khi quyết định đó có những sai sót làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nó nhưng
cũng có sự khác biệt căn bản là về giá trị chung thẩm và sự ràng buộc các bên.

2. Khái quát về thỏa thuận trọng tài thương mại
“Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”5
Trên thực tế có thể hiểu, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận của các bên về việc giải
quyết tất cả hoặc một tranh chấp cụ thể phát sinh giữa các chủ thể trong liên quan đến
những quan hệ pháp lý xác định theo hoặc không hợp đồng. Nó có thể được thể hiện
dưới dạng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới dạng một thỏa thuận riêng
biệt.6 Thỏa thuận trọng tài thường mang một số đặc điểm như:
Việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên
liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp
đồng chính. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu

cầu của pháp luật về nội dung.
Về hình thức của thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức văn bản: Có thể các
bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương mại việc sẽ đưa ra
trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương lai. Sự thỏa thuận này thường
được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập quan hệ thương mại
3 Trang 409, Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế - 2014, NXB Công an nhân dân
4 Điều 3.1 Luật trọng tài thương mại 2010: “1. Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.”
5 Điều 3.2 Luật Trọng tài thương mại 2010
6 />
5


giữa hai bên. Hoặc nếu không, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa
tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn
bản thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hay còn gọi là thỏa
thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra giải quyết theo phương thức trọng tài.
Trong mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng chính, dù thỏa thuận
trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay
dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất
chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính.
Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng
tài vẫn có giá trị.
Hơn nữa, thỏa thuận chỉ có hiệu lực khi nó đáp ứng đủ các điều kiện như:
Về hình thức thì phải bằng văn bản. Về thẩm quyền của cơ quan trọng tài, không
phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài, ngay cả khi giữa các bên
tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự tự nguyện thỏa thuận. Đó là khi pháp luật nơi diễn ra
trọng tài không cho phép giải quyết loại tranh chấp đó thông qua hình thức trọng tài.
Năng lực chủ thể là vấn đề đầu tiên mà các bên cần quan tâm khi tiến hành đàm
phán thỏa thuận trọng tài vì nếu một bên không có năng lực chủ thể sẽ khiến điều khoản

này vô hiệu. Bên cạnh đó, thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu nó không
phải là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể hay là sự áp đặt ý chí của bất kì
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

III)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận

trọng tài thương mại
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại và ưu
điểm
Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2011 thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 là một
bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động trọng tài ở
Việt Nam. Luật trọng tài thương mại đã tiếp thu được những nguyên tắc cơ bản nhất về
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật Mẫu UNCITRAL đặc
biệt nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận (principle of respecting arbitration agreement)

6


Thứ nhất, Luật trọng tài thương mại tại Điều 6 đã quy định "Trong trường hợp các
bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải
từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được". Luật Trọng tài thương mại đã giải quyết được vấn đề thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được cũng như Luật Mẫu và pháp luật trọng tài các
nước đều quy định rõ về vấn đề này. Việc pháp luật trọng tài ghi nhận đối với trường hợp
này một mặt tạo điều kiện cho trọng tài được phát triển vì Tòa án sẽ không can thiệp vào
vụ việc nếu như các bên đã có thỏa thuận trọng tài, mặt khác còn tạo điều kiện cho việc
hỗ trợ nếu như thỏa thuận trọng tài đó có sai sót khiến cho thỏa thuận trọng tài không thể

thực hiện được.
Thứ hai, nếu như trước đây, quy định về hình thức thể hiện của thỏa thuận trọng
tài thương mại chỉ được coi là giống văn bản như thư, điện báo, telex, thư điện tử hoặc
hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên 7 và cũng thiếu chi tiết, rõ ràng. Luật
trọng tài thương mại hiện hành đã mở rộng và quy định cụ thể, chi tiết hình thức thỏa
thuận trọng tài, khắc phục được sự khác biệt về các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài
trong pháp luật trọng tài của Việt nam 8 và Luật mẫu về trọng tài thương mại của Liên hợp
quốc cũng như các nước trên thế giới.
Một điểm nổi bật khác về thỏa thuận trọng tài được quy định trong Luật trọng tài
thương mại là đã công nhận quyền của người tiêu dùng trong điều khoản trọng tài đã
được quy định trong điều kiện chung về cung cấp hàng hóa dịch vụ do nhà cung cấp soạn
sẵn, thì người tiêu dùng được quyền lựa chọn hoặc Tòa án hoặc trọng tài để giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Lần đầu
7 Điều 9.1 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
8 “Điều 16. Hình thức thoả thuận trọng tài
1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức
thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác
lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác
theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu
của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ,
điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và
bên kia không phủ nhận.”

7



tiêu, pháp luật về trọng tài có quy định tranh chấp liên quan đế một bên là người tiêu
dùng. Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng luôn bị đặt ở
một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều khoản in sẵn (trong hợp đồng mẫu)
của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ. Bởi cứ có lợi nhuận thì các nhà tư bản
sẵn sàng khuyến mại cho khách hàng những cạm bẫy pháp lý, do đó, không thể không có
những quy định bảo vệ người tiêu dùng trong các tình huống cần thiết. Đặc biệt, nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện nếu được người tiêu dùng chấp
thuận.9 Bên cạnh đó, tại Điều 7 Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao10 còn cụ thể hóa, bổ sung thêm về quy định tại Điều 16 Luật trọng tài
thương mại, qua đó làm căn cứ để áp dụng luật một cách chính xác hơn.
Ngoài ra, nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật về trọng tài
thương mại trước đây về quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên
tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Luật trọng tài thương mại đã loại
bỏ quy định trên bởi vì nguyên tắc giải quyết bằng trọng tài là phải dựa trên ý chí của các
bên. Cũng từ việc loại bỏ quy định này mà Luật trọng tài thương mại đã loại bỏ rất nhiều
trường hợp xác định thỏa thuận trọng tài là vô hiệu về hình thức và hòa nhập với xu thế
chung của thế giới. Luật đã gói gọn thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong 06 trường hợp: “1.
Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định
tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự.
9 Điều 17 Luật trọng tài thương mại 2010
10 “Điều 7. Về thỏa thuận trọng tài quy định tại Điều 16 Luật TTTM
1. Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng
tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian có giá trị áp dụng.
2. Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng

quy định của Bộ luật dân sự để giải thích.
3. Khi có sự chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao dịch, hợp đồng đó các bên
có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với
bên được chuyển giao và bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Việc gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện được thực hiện khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên thỏa thuận đồng ý gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ kiện;
b) Quy tắc tố tụng trọng tài cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ
kiện.”

8


4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.” 11 Cũng như các quan hệ
hợp đồng, khi một bên không có thẩm quyền, không đầy đủ năng lực hành vi dân sự hoặc
không đảm bảo các tiêu chuẩn về mặt hình thức thì rõ ràng, thỏa thuận trọng tài đó không
thể mang đầy đủ hiệu lực. Hơn nữa, xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận dựa trên
quy định của pháp luật thì các bên không thể bị cưỡng ép, đe dọa hoặc bị lừa dối hoặc vi
phạm các quy định của pháp luật, nếu điều đó xảy ra, thì tất nhiên thỏa thuận sẽ vô hiệu.
Bên cạnh đó, giải quyết vấn đề thỏa thuận trọng tài không rõ ràng, Luật còn cho
phép các bên có quyền thỏa thuận lại. Trong trường hợp không thể thỏa thuận được thì
bên khởi kiện có quyền yêu cầu tổ chức trọng tài mà mình cho là phù hợp để đưa vụ việc
ra giải quyết. Quy định này nằm ngăn chặn tình trạng mà thỏa thuận vô hiệu hoặc tình
trạng không tìm được cơ quan giải quyết tranh chấp.
Với tính độc lập của thỏa thuận trọng tài thương mại, dù các bên có tiến hành thay
đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng hay hợp đồng vô hiểu hoặc không thể thực hiện được cũng

không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Thực tế cho thấy, các bên
tham gia vào một hợp đồng thường lựa chọn luật áp dụng cho việc thực hiện hợp đồng và
luật áp dụng để trọng tài giải quyết khi xảy ra tranh chấp là khác nhau đặc biệt với những
hợp đồng thương mại quốc tế. Điều này càng thể hiện tầm quan trọng của việc thỏa thuận
trọng tài thương mại.

2. Hạn chế và giải pháp
Thứ nhất, về Điều 6 Luật Trọng tài thương mại, theo đó, Điều 6 của Luật này có
quy định: “Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài. Trong trường
hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà
án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng
tài không thể thực hiện được.” Vậy trường hợp nào được hiểu là thỏa thuận trọng tài
11 Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010

9


không thể thực hiện được? Ngay cả văn bản dưới luật liên quan đến lĩnh vực này cũng
không hướng dẫn rõ khái niệm này. Thiếu sót này thật sự là sự cản trở cho các bên trong
việc áp dụng pháp luật trường hợp nào thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, để
cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận trọng tài dù cho Điều 5 Nghị quyết 01/2014 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra các trường hợp mà thỏa thuận
trọng tài bị coi là không thể thực hiện được.
Thứ hai, tuy trong quan hệ mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thì người bán,
bên cung ứng dịch vụ “nắm đằng chuôi” nhưng họ chỉ được quyền khởi kiện để giải
quyết bằng trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận thì có bất bình đẳng hay
không? Liệu người tiêu dùng có đang nhận được quá nhiều sự bảo vệ từ luật pháp hay
không? Các nhà làm luật nên giải thích cụ thể về trường hợp này.
Thứ ba, cần hoàn thiện quy định của pháp luật trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu. Luật trọng tài thương mại cần được xem xét bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu

Tòa án xem xét quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng
tài. Cụ thể, trong thời gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài có vô
hiệu không, Hội đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng, vì trong thời gian này dù có tiến
hành tố tụng thì các bên cũng khó đạt được kết quả như mong đợi vì một trong các bên
đã không thiết tha với giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài, điều này được
chứng minh họ đã yêu cầu Tòa án xem xét tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa,
dù có đạt được kết quả giải quyết tranh chấp trong thời gian này đi chăng nữa, mà sau đó,
Tòa án tuyên thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu thì đương nhiên phán quyết của trọng tài
sẽ không có giá trị thi hành trên thực tế và kể từ đó các bên tranh chấp chuẩn bị tâm thế
đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án để giải quyết.

KẾT THÚC
Ngày nay, trong nền kinh tế thế giới với đặc điểm chủ yếu là toàn cầu hóa và tự do
hóa, trọng tài càng được giới kinh doanh quốc tế thường xuyên sử dụng. Họ tăng cường
khai thác những ưu thế truyền thống của phương thức giải quyết tranh chấp này đồng
thời kết hợp với việc sử dụng các phương tiện hiện đại của kỹ thuật thông tin điện tử để
nâng cao hiệu quả của nó. Pháp luật về trong tài của các quốc gia trong đó có Việt Nam

10


cũng đã thường xuyên sửa đổi để phù hợp hơn với xu thế phát triển kinh tế như hiện nay.
Có rất nhiều nhiều vấn đề còn nằm trong phạm vi tranh luận gay gắt trong các quy định
về thỏa thuận trọng tài nhưng qua đó cũng nhằm giúp chế định này ngày càng hoàn thiện
và đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của các quan hệ kinh tế trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.


Giáo trình Luật Thương Mại Tập II, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.

2.
3.
4.

CAND
Luật trọng tài thương mại 2010
Model Law on International Commercial Arbitration
/>
Trọng tài thương mại: Quá trình hội nhập và pháp triển

5.
6.
7.

/>Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế - 2014, NXB Công an nhân dân
Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

11



×