Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận tâm lý học giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống cho học viên các trường sĩ quan quân đội trong quá trình giao lưu văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.3 KB, 22 trang )

1

MỞ ĐẦU
Bằng quá trình lao động sáng tạo, cùng với ý chí đấu tranh kiên cường, nhân
dân ta đã xây đắp nên một nền văn hóa kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc
dân tộc, thể hiện sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nhờ
nền tảng và sức mạnh của văn hóa dân tộc, mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch
sử, dân tộc Việt Nam vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, đã vượt qua bao
khó khăn, gian khổ, làm nên những chiến công hiển hách, tô thắm thêm những
trang sử hào hùng của dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc
năm châu trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược,
bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
Văn hóa có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, phát triển toàn diện con người Việt Nam. Như Đảng ta đã xác định: “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”. Ngày nay, trong điều kiện khoa học và công
nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ, tồn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế khách
quan. Việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thu tinh hoa văn hóa,
những thành tựu trí tuệ của nhân loại, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức
lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là việc giáo dục, giữ gìn các
giá trị văn hóa truyền thống trong giới trẻ, nhất là đối với học sinh, sinh viên.
Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nước ta trong những
năm qua, nhất là quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập
quốc tế, đã tạo nên những biến động mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của thế hệ
trẻ. Những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ
phận học sinh, sinh viên, làm thay đổi các quan điểm của họ về giá trị truyền thống
của dân tộc, ảnh hưởng không tốt đến lối sống, nếp sống của thanh niên, sinh viên.
Điều đáng lo ngại là sự sa sút về phẩm chất, đạo đức ở một bộ phận học sinh, sinh
viên, thể hiện ở xu thế chạy theo những giá trị vật chất đơn thuần, có tư tưởng sùng



2

ngoại, văn hóa ngoại lai, từ đó coi thường những thuần phong mỹ tục, hoặc lãng
quên các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, học sinh, sinh viên rất nhạy cảm với cái mới,
chịu ảnh hưởng to lớn của những tác động từ bên ngồi, vì vậy, việc giáo dục giá trị
văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ, trong đó có học sinh, sinh viên, là vấn đề rất
cấp thiết, giúp họ nhận ra giá trị đích thực và sức sống lâu bền của các giá trị văn hóa
truyền thống. Các giá trị đó, được ơng cha ta hun đúc từ xưa đến nay, không chỉ là
bản sắc, cội nguồn, sức mạnh nội sinh, mà còn là động lực cho sự phát triển của dân
tộc ta lên một tầm cao mới.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Giáo dục các giá trị văn
hóa truyền thống cho học viên các trường sĩ quan quân đội trong quá trình giao
lưu văn hóa” làm chủ đề tiểu luận.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về văn hóa
1. Một số quan niệm về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, ra đời cùng với sự xuất hiện
của xã hội lồi người. Thuật ngữ văn hóa đã có từ lâu đời trong ngơn ngữ lồi
người. Nhưng khi bàn về khái niệm văn hóa có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tùy
theo góc độ và phương pháp tiếp cận. Có người xuất phát từ những biến đổi xã hội
mà nhìn văn hóa một cách bản chất và tổng qt. Có người từ góc nhìn một lĩnh
vực hoạt động mà đi sâu vào các khía cạnh của văn hóa. Có người xem xét văn hóa
dưới góc độ hệ thống giá trị tổng quát, vv… Tuy nhiên với cách diễn đạt khái qt
nhất, khơng ai phủ nhận văn hóa là do con người sáng tạo, phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống của con người; nó là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần được tích
lũy trong lịch sử, trong quá trình con người đấu tranh với thiên nhiên, trong các mối
quan hệ xã hội, trong ứng xử để tồn tại và phát triển.
Tại Hội nghị quốc tế do UNESCO tổ chức từ ngày 26 tháng 07 đến ngày 06
tháng 08 năm 1992 ở Mêxicơ, những nhà văn hóa đại diện cho hơn 100 nước đã



3

tính có đến hơn hai trăm định nghĩa về văn hóa; cuối cùng trong tuyên bố chung
định nghĩa sau đây được họ chấp nhận: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hơm nay
có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội; văn hóa
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, nhưng hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa
đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng
ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đốn được những giá trị
và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tự biết mình, là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem
xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và
sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân"1.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được UNESCO quan niệm: văn hóa là một tổng thể
những hệ thống biểu cảm (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng
đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù so với các cộng đồng khác. Có thể nhấn mạnh:
Văn hóa bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp
hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai, …) theo cộng đồng ấy.
Một số nhà nghiên cứu văn hóa khác cho rằng: "Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với mơi trường tự nhiên và xã
hội của mình"2. Với định nghĩa này, họ đã chỉ ra bốn đặc trưng quan trọng nhất của
văn hóa - đó là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc lại cho rằng: "Văn hố là một quan hệ.
Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu
hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc

người khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác
1

2

Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 23-24.
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, 1995, tr.20.


4

nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà
một tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh
vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác"3.
Dưới góc độ tiếp cận tâm lý học, các nhà Tâm lý học văn hóa đã đưa ra định
nghĩa: Văn hóa là phức hợp tâm lý chỉnh thể được hình thành và phát triển cao độ
trong hoạt động của cá nhân, phản ánh dấu ấn của một cộng đồng và là một nhân
tố quan trọng bậc nhất của sự phát triển toàn diện nhân cách con người.
Từ những nội dung ở trên có thể khái qt: “Văn hóa là tồn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra được tích lũy trong q trình
hoạt động thực tiễn”4.
Cấu trúc của văn hóa có 3 lớp
Lớp thứ nhất là các sản phẩm bề ngồi: đó là những gì có thể quan sát được
như: ngôn ngữ, nghệ thuật, ăn ở, kiến trúc... các định kiến hầu hết đều xuất phát từ
cấp độ biểu tượng và những gì quan sát được.
Lớp thứ hai là hành vi ứng xử: Văn hóa là sự chỉ dẫn cho hành động của cá
nhân. Nền văn hóa này phân biệt với nền văn hóa khác bằng những giải pháp riêng
mà nó lựa chọn để giải quyết các vấn đề khác nhau.
Lớp thứ ba là giá trị và chuẩn mực.
Giá trị là tính có ý nghĩa, tính tích cực tốt đẹp, đáng q, có ích của các đối

tượng với các chủ thể. Giá trị là sự thể hiện có tính định hướng mối quan hệ giữa
chủ thể đánh giá và đối tượng của việc đánh giá. Là động cơ, mục đích hoạt động,
là động lực cho sự phát triển con người. Quy định lối sống, cách sống của cá nhân,
quy định sự phát triển văn hóa của cá nhân đó.
Chuẩn mực là cảm nhận chung của một nhóm về cái gì là đúng, cái gì là sai, là
quy tắc tường minh hoặc hàm ẩn nhằm xác định thái độ và kiểu hành vi phù hợp
trong một xã hội hay một nhóm.
3

Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội, 1994, tr.105.
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam (Dùng cho đào tạo sĩ quan cấp phân đội – bậc đại học), Nxb QĐND, Hà Nội,
2003, tr.13.
4


5

Trong bất cứ nền văn hóa nào cũng có một hệ thống các định hướng giá trị
thống trị hay được ưu tiên hơn, trong đó các giá trị văn hóa truyền thống có vai trị
hết sức quan trọng trong việc tạo lập nên tính đặc thù khác biệt hay nói cách khác
đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc.
2. Quan niệm về bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa là sắc thái gốc, là những đường nét, màu sắc riêng biệt
không thể trộn lẫn của một nền văn hóa . Bản sắc làm nên cốt lõi vững chắc giúp
cho nền văn hóa ln giữ được tính duy nhất, tính nhất qn trong q trình phát
triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể sáng tạo văn hóa ln thống nhất cái
riêng của bản thân mình và cái chung của dân tộc và nhân loại. Do vậy, bản sắc văn
hóa ln chứa đựng cả tính nhân loại, cả tính khu vực và tính tộc người.
Bản sắc văn hố được ví như tấm chứng minh thư, thẻ căn cước của một nền
văn hố. Do đó, bản sắc văn hố có vai trị cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và

phát triển của đất nước. Với vai trị là “bệ đỡ”, bản sắc văn hố dân tộc đã giúp cho
dân tộc Việt Nam đứng vững suốt hàng chục thế kỷ trước sự nô dịch cũng như âm
mưu đồng hố của ngoại bang. Và chính sự du nhập của văn hoá ngoại bang đã tạo
nên cốt cách, diện mạo khơng thể bị tiêu diệt của văn hố và con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam là tổng hịa các thuộc tính cơ bản, các
mối liên hệ bản chất với những sắc thái riêng tạo thành những đặc trưng cơ bản của
nền văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa chính là chứng minh thư để nhận dạng,
phân biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác, giữa các cộng đồng văn hóa khác
nhau. Bản sắc văn hóa Việt Nam được nhân dân ta vun trồng, xây đắp qua các thế
hệ, tạo thành cốt cách riêng trong lịch sử dân tộc. Bản sắc đó có sự khác biệt với
bản sắc của các quốc gia trên thế giới về văn hiến, lãnh thổ và phong tục tập quán.
Bản sắc văn hóa là tinh hoa của văn hóa, là tổng hợp những truyền thống quý
báu của dân tộc, nó là cái cốt lõi, là bộ khung, là giá đỡ tồn bộ nền văn hóa. Những
yếu tố cơ bản cấu thành nên bản sắc của văn hóa Việt Nam đó là: “Lịng u nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá


6

nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống”5. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa việt Nam cịn được thể hiện trong các
lĩnh vực như kiến trúc, hội họa, văn chương, âm nhạc, vv…
Nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam, thấy rõ giá trị của nền văn hóa Việt
Nam để bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cơ sở để giáo dục, lưu
giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cho thế hệ trẻ.
3. Giao lưu văn hóa.
Thuật ngữ giao lưu văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong các ngành khoa
học xã hội như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học và tâm lý học,

vv… tức là những ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu là con người và xã hội,
nhân văn. Chúng ta có thể hiểu, giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên của
xã hội, gắn bó với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa,
là sự vận động thường xuyên của văn hóa.
Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa chính là bản thân sự trao
đổi. Có hiểu như vậy mới thấy hết tầm quan trọng của giao lưu văn hóa trong lịch
sử nhân loại, bởi vì sản xuất, trao đổi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử. Nói cách khác, giao lưu văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa từ bên ngồi bởi
chủ thể. Q trình đó đặt mỗi dân tộc nói chung, mỗi con người nói riêng phải xử
lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
Hai yếu tố này ln có khả năng chuyển hóa cho nhau và rất khó tách biệt trong
một thực thể văn hóa. Có yếu tố giai đoạn này là yếu tố ngoại sinh nhưng đến giai
đoạn sau, những tính chất của yếu tố ngoại sinh đó khơng cịn hoặc nhạt dần đến nỗi
người ta tưởng rằng đó là yếu tố nội sinh. Hơn nữa, kết quả của sự tương tác giữa hai
yếu tố này thường diễn ra theo hai trạng thái: một là, yếu tố ngoại sinh lấn át, triệt tiêu

5

Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam (Dùng cho đào tạo sĩ quan cấp phân đội – bậc đại học), sđd, tr.180.


7

yếu tố nội sinh; hai là, có sự cộng hưởng lẫn nhau, yếu tố ngoại sinh dần dần trở thành
yếu tố nội sinh hoặc bị phai nhạt thuộc tính căn bản của yếu tố ngoại sinh.
Xét ở phương diện thái độ của chủ thể, sự tiếp nhận các yếu tố ngoại sinh
cũng có hai dạng thể hiện: tự nguyện tiếp nhận và bị cưỡng bức tiếp nhận. Mức độ
tiếp nhận trong giao lưu văn hóa cũng khác nhau: có sự tiếp nhận đơn thuần và sự
tiếp nhận có sáng tạo. Sự tiếp nhận đơn thuần khi nhìn ở ý nghĩa tương đối là phổ
biến trong mọi cá nhân. Trong khi đó, sự tiếp nhận có sáng tạo lại là sự tiếp nhận có

kiểm sốt của lý trí và sự tiếp nhận có sáng tạo cũng có ba mức: thứ nhất là khơng
tiếp nhận tồn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích hợp cho mình; thứ hai là tiếp
nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm giá trị của chủ thể; thứ ba
là mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa dân tộc khác bởi chủ thể.
Như vậy, mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh,
đặt ra địi hỏi với chính chủ thể tiếp nhận là nội lực của chính nó, hay nói cách khác
là bản sắc và truyền thống văn hóa của chủ thể tiếp nhận.
Dưới góc nhìn của Tâm lý học văn hóa, bản sắc, giá trị và truyền thống
không phải là yếu tố nhất thành bất biến. Sự vận động của mỗi nền văn hóa trong
khơng gian và thời gian luôn luôn là sự vận động của các yếu tố bất biến và khả
biến, giữa cái cố hữu và cái cách tân. Cái khả biến phát triển đến mức độ nào đó sẽ
làm thay đổi chính thực thể văn hóa đó, như quy luật lượng chất. Ngày nay, giao
lưu văn hóa là quy luật phát triển của văn hóa, quy luật tất yếu của đời sống, là nhu
cầu tự nhiên của con người hiện tại.
II. Giao lưu của văn hóa Việt Nam và giáo dục giá trị văn hóa truyền
thống cho học viên các trường sĩ quan quân đội trong q trình giao lưu văn hóa
1. Tính tất yếu của q trình giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và mọi xã
hội từ xưa đến nay. Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
đều sản sinh ra một nền văn hóa kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần của quốc gia,
dân tộc đó. Mỗi nền văn hóa đi qua nhiều chặng đường lịch sử, được bồi đắp thêm những


8

giá trị mới. Văn hóa khơng thể tự nó vận động đi lên mà phải có sự hỗ trợ của các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội, … và có sự giao lưu với các quốc gia, dân tộc khác.
Thực chất, giao lưu văn hóa chính là sự tác động qua lại biện chứng giữa các
yếu tố nội sinh và ngoại sinh của q trình phát triển. Trong đó, các yếu tố nội sinh,
mà trung tâm là con người, giữ vai trị chủ thể, có ý nghĩa quyết định trong việc

định hướng mối quan hệ của chúng với các yếu tố ngoại sinh. Ngược lại, các yếu tố
ngoại sinh cũng ảnh hưởng mạnh mẽ dưới dạng kích thích hoặc kìm hãm sự phát
triển của các yếu tố nội sinh.
Lịch sử các nền văn minh của nhân loại cho thấy: khơng có nền văn hóa nào,
dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu, mà có thể liên tục phát triển trong một
địa bàn khép kín, biệt lập, tách rời sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác.
Trong thời đại ngày nay, nhất là những thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai, có
nhiều nước mới giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh đã hy vọng
vào con đường hiện đại hóa theo mơ hình của các nước Âu – Mỹ. Theo quan điểm đó, có
nghĩa là hiện đại hóa được đồng nhất với phương Tây hóa. Kết quả là sự xâm nhập ồ ạt
những chuẩn mực và hệ giá trị từ bên ngồi vào các nước nói trên, làm cho những chuẩn
mực và giá trị văn hóa truyền thống bị biến dạng và biến chất. Chính sự đứt đoạn về văn
hóa nội sinh đã khiến cho các nước đó khơng những khơng đạt được mục tiêu hiện đại
hóa mà cịn lâm vào rối loạn và suy thoái. Cho đến nay, nhiều nhà khoa học trên thế giới
đã phải thừa nhận sự thất bại của lý thuyết phát triển ngoại sinh, do một số học giả
phương Tây đề xướng trước đây.
Đối với một xã hội và một nền văn hóa, sự phát triển trước hết là sự tự thân vận
động của các yếu tố nội sinh. Nhưng phát triển nội sinh không tách rời ảnh hưởng của các
yếu tố ngoại sinh. Khơng có sự trao đổi hoặc sự trao đổi bị đứt đoạn, thì cả văn hóa và xã
hội của một cộng đồng đều có thể rơi vào trì trệ, suy thoái. Nhưng nếu nhân danh sự trao
đổi để tiếp nhận vô điều kiện các yếu tố ngoại sinh đến mức từ bỏ các giá trị nội sinh, thì
khó tránh khỏi bị mất gốc về văn hóa và đi đến bị đồng hóa về văn hóa, thậm chí bị “diệt


9

gốc” về văn hóa. Với ý nghĩa đó, cho nên có thể nói rằng, mất nước cịn có thể giành lại
được, nhưng nếu để mất bản sắc văn hóa dân tộc thì sẽ mất tất cả.
Chính vì vậy, trong q trình giao lưu văn hóa, điều cốt lõi là làm sao giải quyết
đúng mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát

triển. Cách giải quyết đó, cho phép một xã hội, một nền văn hóa biến đổi mà khơng mất
đi tính độc đáo và bản sắc riêng của mình, vừa biết tiếp nhận những yếu tố mới từ bên
ngồi, mà khơng để bị tha hóa, biến chất, mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc.
2. Q trình giao lưu của văn hóa Việt Nam.
Giao lưu văn hố là sự tiếp nhận văn hố của nước ngồi bởi một dân tộc chủ
thể nói chung và mỗi con người nói riêng với các mức độ khác nhau. Giao lưu văn
hoá là nội dung, là đặc trưng, đồng thời là một trong những quy luật phát triển của
văn hố. Nền văn hóa Việt Nam thống nhất và đậm đà bản sắc dân tộc là vì tính
chất mở và khả năng giao lưu, tiếp biến văn hóa của nó rất rộng.
Xét về vị trí địa lí, Việt Nam nằm trên đường giao lưu từ Bắc xuống Nam, từ
Tây sang Đông. Đồng thời, Việt Nam nằm trong khu vực tiếp xúc của hai nền văn
hóa, văn minh cổ xưa nhất của châu Á đó là: Trung Hoa và Ấn Độ. Nằm ở giao
điểm của các luồng văn hóa. Do đó, trong q trình phát triển lịch sử xã hội, Việt
Nam ln ln có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa rộng rãi trong khu vực Đông
Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Trong q trình giao lưu văn hóa có cả
sự chủ động tiếp nhận, vay mượn, khai hóa, đồng hóa văn hóa. Tuy nhiên, nét chủ
đạo trong q trình giao lưu của văn hoá Việt Nam là tiếp nhận một cách chủ động
và có sáng tạo những thành tựu văn hóa nước ngồi, đồng thời đồng hố những
thành tựu văn hố đó cho phù hợp với mơi trường, truyền thống văn hóa, khẳng
định tính độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngồi nước, khi tìm hiểu văn hóa Việt Nam
đều đặt ra một câu hỏi lớn: Vì sao Việt Nam, từ rất xa xưa đã nằm giữa hai nền văn hóa,
văn minh cổ xưa rực rỡ thuộc hai quốc gia lớn đó là Trung Hoa và Ấn Độ, trong đó cịn
phải trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Sau này còn bị phương Tây xâm chiếm và


10

thống trị trên một thế kỷ, nhưng Việt Nam không bị đồng hóa, mà trái lại vẫn bảo tồn và
phát huy được bản sắc văn hóa riêng của mình?

Điều đó chỉ có thể được giải thích rằng, ngay từ trong q trình dựng nước và
giữ nước, cha ơng ta đã hun đúc, xây dựng được một hệ thống các giá trị văn hóa
truyền thống đặc trưng mà khơng có bất kỳ sự tác động nào có thể làm thay đổi
được. Trong đó, hệ giá trị tinh thần cốt lõi chính là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức
cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương thân”, tinh thần đồn kết,
đức tính cần cù, thiết thực, linh hoạt, sáng tạo trong lao động sản xuất, tổ chức cuộc
sống, xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính các giá trị văn hóa truyền thống đó là “bộ
lọc” và là hệ quy chiếu để ông cha chúng ta lựa chọn, tiếp thu những giá trị mới qua
những lần giao lưu, tiếp xúc văn hóa với bên ngồi.
Tuy nhiên, hiện nay hồn cảnh lịch sử của giao lưu văn hóa đã thay đổi về
nhiều phương diện: thứ nhất, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc
biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin khiến cho văn hóa và các sản phẩm văn
hóa càng đa dạng, phong phú. Nói cách khác, giao lưu văn hóa ở thời đại tin học là
hình thức giao lưu sản phẩm văn hóa mà trước kia chưa từng có, phương tiện giao
lưu văn hóa cũng phong phú, đa dạng. Thứ hai, công cuộc đổi mới và mở cửa hội
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, làm cho việc giao lưu văn hóa là hồn tồn tự
nguyện, chủ động, khơng hề bị áp đặt hay cưỡng bức.
Như vậy, trong quá trình giao lưu với các nền văn hóa khác, dù bị áp đặt hay tự
nguyện, văn hóa Việt Nam khơng những vẫn giữ ngun được bản sắc của mình, mà cịn
trở nên phong phú, đa dạng, nhờ biết tiếp thu và cải biến những tinh hoa văn hóa của
nhân loại thành những giá trị đặc trưng của chính mình, đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử, đồng thời cũng phù hợp với
hệ giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc. Nhờ vậy, “dân tộc ta vẫn giữ được độc lập mà
không hề biệt lập, học hỏi bên ngồi mà khơng sao chép, hội nhập với thế giới mà khơng
bị hịa tan”6.
6

Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, 1998, tr.155.



11

Tóm lại, việc giao lưu văn hóa trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cách
nhanh chóng, phong phú và đa dạng, đồng thời cũng phức tạp hơn về nội dung và hình
thức. Kết quả của quá trình giao lưu văn hóa hiện nay đã làm cho chúng ta thu được
những kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hóa, thơng tin, khoa
học cơng nghệ,… Tuy nhiên, giao lưu văn hóa trong giai đoạn hiện nay cũng đặt cho văn
hóa Việt Nam những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt
là việc giáo dục những giá trị văn hóa truyền thống cho giới trẻ, nhất là đối với học sinh,
sinh viên, những người chủ tương lai của đất nước.
III. Giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học viên các trường sĩ quan
quân đội trong q trình giao lưu văn hóa
1. Những tác động trong giao lưu văn hóa hiện nay
Thế giới ngày nay đang đi vào q trình tồn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực:
tồn cầu hóa thơng tin, tài chính, thương mại, cơng nghệ, kinh tế,… Chúng ta đang
sống trong thời đại bùng nổ thông tin, trong sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
công nghệ, nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ trên tồn thế giới. Bên cạnh
đó, những “siêu lộ” thông tin với mạng lưới Internet đang phát triển để mở rộng sự giao
lưu về nhiều mặt giữa các quốc gia, các cộng đồng nguời và các cá nhân trên thế giới.
Điều đó tạo ra ưu thế chưa từng có trong giao lưu quốc tế. Nó rút ngắn đến mức tối
thiểu thời gian truyền đi những thông tin về mọi mặt và từ nhiều nguồn khác nhau. Bên
cạnh đó, nó mở ra địa bàn rộng lớn để trao đổi hàng hóa, dịch vụ và cả trí tuệ. Nó có tác
dụng tiết kiệm rất lớn về của cải cho thơng tin liên lạc, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ của mỗi quốc gia.
Khi thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại cùng tồn tại hịa bình, hợp tác,
phát triển và tập trung nguồn lực quốc gia cho sự tăng trưởng kinh tế bằng những
phương tiện hiện đại của cuộc cách mạng tin học thì việc giao lưu văn hóa trên thế
giới càng được mở rộng hơn bao giờ hết; các sản phẩm văn hóa kết hợp một cách
tinh vi giữa nghệ thuật - kỹ thuật - kinh doanh tung ra khắp nơi đến mọi ngõ ngách
trên thị trường thế giới đem lại lợi nhuận khổng lồ cho nhiều nước. Hành tinh của



12

chúng ta trở nên nhỏ bé, không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự biệt lập
với thế giới bên ngoài, ngược lại, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng và tác
động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế giới. Hiện tượng cộng
sinh văn hóa là một tất yếu và là một đặc trưng mới của văn hóa thế giới. Mỗi người
đều được sống với bản sắc văn hóa dân tộc mình, vừa được tiếp xúc với nhiều nền
văn hóa khác. Thái độ khoan dung do Unesco đề xướng tạo ra ý thức tôn trọng
những khác biệt của người khác để người khác tơn trọng những khác biệt của mình,
sao cho lồi người chung sống hữu nghị, bình đẳng. Tuy nhiên tình hình đó cũng đặt
ra những vấn đề bức xúc, những nỗi lo không phải chỉ của riêng cá nhân nào: Một là,
trong khi chạy theo tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất trong cơ chế thị
trường, thì phải làm thế nào để những giá trị nhân bản của các nền văn hóa truyền
thống khơng bị xói mòn và mai một. Hai là, trong khi tiếp xúc và giao lưu văn hóa
với các nước khác nhau, nhất là với nền văn hóa phương Tây, thì phải làm thế nào
để hiện đại hóa nền văn hóa đất nước mà khơng đánh mất đi bản sắc dân tộc.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hiểu một cách cặn kẽ những giá trị đích thực
của các nền văn hóa thế giới và những tinh hoa của văn hóa dân tộc trên tinh thần
khoan dung để hội nhập, nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam hiện đại nhưng vẫn giữ được
những giá trị văn hóa truyền thống.
Là nhân tố quan trọng trong nền sản xuất tổng hợp có hàm lượng trí tuệ cao,
văn hố như chất keo dính kết các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội tạo nên
hình hài và bản sắc mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Văn hoá có khả năng
bao quát một cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững xã hội, tính kế thừa lịch sử và
không bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào những cộng đồng lớn hơn. Tính độc đáo
của mỗi nền văn hoá dân tộc, hay là sự khác nhau của các nền văn hố khơng
những bị quy định bởi những điều kiện môi trường, lịch sử xã hội khác nhau, mà

cịn vì con người, ngay cả khi rất gần nhau, vẫn có ý thức khu biệt "ta với người".
Hơn thế nữa, cuộc sống của lồi người khơng phát triển ngang bằng theo một quá


13

trình như nhau mà qua những phương thức đa dạng (trí tuệ, tâm linh, tư duy, hứng
thú thẩm mỹ, giá trị đạo đức...). Vì vậy, trong quá trình hội nhập thế giới, nếu như
khoa học kỹ thuật ngày càng nhất thể hóa bao nhiêu, thì ngược lại, văn hóa mỗi dân
tộc như là tấm căn cước, lại càng được khu biệt bấy nhiêu.
Như những dịng sơng, văn hóa của các dân tộc bền bỉ tích lũy, thu nhận, gạn
lọc tinh hoa từ muôn nẻo, không ngừng chuyển tải và biến đổi, không ngừng giao
lưu và mở rộng để rồi kết tinh lại thành cái của riêng mình và góp phần vào đại
dương mênh mông đầy hương sắc của nhân loại, và đến lượt mình lại được tận
hưởng hương vị xa lạ trong cái đại dương vĩ đại bao la đó. Nếu như chúng ta hiểu
văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra theo quy luật của cái đẹp, là
“thiên nhiên thứ hai” nói theo cách nói của C.Mác: Trong q trình ứng xử với tự
nhiên và xã hội, thì mọi cái liên quan đến con người đều có mặt văn hóa của nó.
Hơn thế nữa, toàn nhân loại đang đứng trước một nghịch lý: Khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, thì ngược
lại đời sống đạo đức của con người ngày càng sa sút, những vấn nạn xã hội ngày
càng gia tăng: đồng tiền lên ngôi, lối sống vụ lợi vị kỷ, thực dụng, tôn thờ các giá
trị vật chất, các tiện nghi tiêu dùng và hưởng lạc, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân
cực đoan… đã lấn át và làm xói mịn các giá trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức,
nhân cách… phát triển có nguy cơ biến thành phản phát triển bởi sự coi thường đạo
đức và các nền tảng của đạo đức xã hội.
Hiện nay, hơn bao giờ hết, việc giao lưu văn hóa trên hành tinh càng trở nên
nhộn nhịp, xơ bồ với tốc độ quay cuồng đến chóng mặt. Trong khi đó con người
phải bình tâm, sáng suốt để nhận diện được cái gì là tinh hoa tốt đẹp, cái gì là phản
văn hóa nhằm lựa chọn và tìm cách thích nghi với những gì phù hợp, đấu tranh

chống lại những gì làm hủy hoại phẩm giá con người.
Bên cạnh rất nhiều thành tựu chúng ta đã đạt được kể từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập đến nay, nhưng chúng ta cũng gặp không ít những
hiện tượng tiêu cực, mà điển hình là sự xuống cấp về đạo đức và lối sống của một


14

bộ phận nhân dân, nhất là trong thanh thiếu niên. Trong giao lưu văn hóa, chúng ta
ít chú trọng đến việc phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ truyền thống văn
hóa dân tộc. Trong q trình giao lưu văn hóa, Đảng ta cũng đã chỉ ra những hạn
chế cịn tồn tại đó là: “Mơi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh,
trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các
sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh thiếu niên,
rất đáng lo ngại”7, vv… Tất cả những vấn đề đó, tác động khơng nhỏ đến việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam hiện nay đặc biệt là việc giữ gìn
và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong q trình giao lưu văn hóa,
góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì mục
tiêu xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
2. Nội dung giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên
2.1. Truyền thống yêu nước và tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Truyền thống yêu nước Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc ta. Truyền thống đó biểu hiện rõ nhất
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Thật hiếm có một dân tộc nào trên thế
giới lại có q trình chống ngoại xâm kiên cường, dũng cảm, bất khuất như dân tộc
Việt Nam. Tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, khơng
chịu làm nơ lệ”, “khơng có gì q hơn độc lập tự do” đã trở thành quyết tâm của
cả dân tộc trong suốt thế kỷ qua. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kế
thừa và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, nâng lên tầm cao mới là chủ
nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi

này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa u nước chính là tinh thần đấu tranh xóa bỏ áp
bức bóc lột, là ý thức chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xã hội dân chủ,
công bằng, bình đẳng, tổ quốc phồn vinh, dân giàu, nước mạnh.
Vấn đề quan trọng hiện nay là giáo dục cho học sinh, sinh viên kế thừa và
phát huy giá trị truyền thống yêu nước trong lĩnh vực chống ngoại xâm bảo vệ đất
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.169.


15

nước, chống nghèo nàn lạc hậu, vươn tới văn minh hiện đại. Hơn lúc nào hết, học
sinh, sinh viên cần nhận thức rõ vai trị vơ cùng quan trọng của chủ nghĩa u nước
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải biết phát huy mạnh mẽ chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam trong tình hình hiện nay, đó là chủ nghĩa yêu nước Xã
hội chủ nghĩa. Tuổi trẻ nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng ln là người kế
tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng. Lý tưởng của Đảng là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là lý tưởng của thế hệ trẻ Việt Nam
hôm nay và mai sau. Lý tưởng chủ nghĩa xã hội của học sinh, sinh viên hiện nay phải
được thể hiện bằng quyết tâm vươn lên trong học tập, lao động, nghiên cứu khoa học, ý
chí tự lực tự cường, phấn đấu xây dựng một xã hội khơng cịn áp bức, bóc lột, bất cơng,
mọi người đều bình đẳng, có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
2.2. Truyền thống nhân ái khoan dung gắn liền với đạo đức xã hội chủ nghĩa
Truyền thống nhân ái khoan dung là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết trong tục ngữ ca dao Việt Nam: “Bầu ơi thương
lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một
miếng khi đói bằng một gói khi no”. Truyền thống nhân ái khoan dung của dân tộc Việt
Nam có lịng từ bi của Phật giáo, lịng nhân ái của Nho giáo, có cả hệ tư tưởng nhân đạo
của chủ nghĩa Mác – Lênin và đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh. Truyền thống tốt đẹp

đó ln được các thế hệ con người Việt Nam kế thừa và phát triển.
Giáo dục truyền thống nhân ái khoan dung cho học sinh, sinh viên sẽ có tác
dụng hình thành ở họ những đức tính căn bản như: kính thày, yêu bạn, giúp đỡ lẫn
nhau trong học tập, sinh hoạt, quý trọng của công, quan tâm đến nỗi bất hạnh của
người khác. Tình yêu thương con người phải gắn với lòng căm thù các thế lực thù
địch con người. Ngày nay học sinh, sinh viên phải biết ngăn chặn cái ác, cái xấu
đang len lỏi vào cuộc sống của họ. Nhiệm vụ đặt ra cho học sinh, sinh viên là trong
bất kỳ hoàn cảnh nào đều phải nêu cao tinh thần đấu tranh, chống mọi cám dỗ, thấp
hèn, chống lại sự lây lan của tệ nạn xã hội. Học sinh, sinh viên ngày nay phải đấu
tranh kiên quyết để nhanh chóng loại trừ ra khỏi cuộc sống của mình tệ nạn ma túy,


16

mại dâm và các tệ nạn xã hội khác đang xâm hại nghiêm trọng tư cách đạo đức,
phẩm giá và sức khỏe của tuổi trẻ. Bên cạnh thái độ dứt khoát tránh xa các tệ nạn
xã hội, học sinh, sinh viên đồng thời phải biết khuyến khích cái thiện, noi gương
người tốt việc tốt, có tinh thần đồn kết, nhiệt tình tham gia các phong trào của
thanh niên, học sinh, sinh viên cả nước, góp phần vào các hoạt động xã hội như
chiến dịch ánh sáng văn hóa, mùa hè xanh, phong trào hiến máu nhân đạo, đền ơn
đáp nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng... Học sinh, sinh viên Việt Nam
cũng phải sát cánh cùng học sinh, sinh viên thế giới chống chiến tranh, chống phân
biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa khủng bố... Tính tích cực của học sinh, sinh viên
trong các phong trào trên chẳng những đem lại hiệu quả kinh tế xã hội mà còn là
mơi trường rèn luyện của chính mình, nâng cao vị thế của bản thân trong xã hội.
Giáo dục truyền thống nhân ái khoan dung cho học sinh, sinh viên sẽ giúp họ
không ngừng nâng cao nhận thức, tự giác sống tốt đẹp hơn, biết lấy lợi ích tập thể,
lợi ích dân tộc làm định hướng cho cuộc sống của mình, góp phần hình thành và
phát triển tồn diện nhân cách sinh viên và khắc phục sự tha hóa của con người.
2.3. Truyền thống đoàn kết cộng đồng gắn liền với đoàn kết quốc tế

Truyền thống đoàn kết cộng đồng là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Truyền thống đó được biểu hiện qua các mối quan hệ cộng đồng lớn nhỏ
khác nhau như gia đình, gia tộc, họ hàng, làng xã và lớn hơn là cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết cộng
đồng của người Việt Nam đã tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần đưa dân tộc ta vượt
qua biết bao thử thách gian nan, giành và giữ vững quyền độc lập, tự do. Nối tiếp
truyền thống của cha ơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đại đoàn kết của
dân tộc Việt Nam dựa trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức vững chắc. Người
đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp,
đưa cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn. Ngọn cờ tư tưởng đại đoàn kết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sức mạnh để dân tộc ta hội nhập và phát triển, mở


17

rộng và nâng khối đại đoàn kết lên một tầm cao mới. Người nêu tấm gương sáng ngời
trong việc kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc.
Truyền thống đồn kết hiệp lực vì nghĩa lớn là nét đẹp truyền thống độc đáo
nhất của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, giáo dục truyền thống đồn kết cộng đồng cho
học sinh, sinh viên phải được xem là một nội dung quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu
của công tác này là từng bước xây dựng cho học sinh, sinh viên ý thức tập thể, đoàn
kết cá nhân với tập thể hòa chung vào các phong trào của tập thể từ lớp học cho đến
nhà trường và rộng ra toàn xã hội, qua đó trang bị cho học sinh, sinh viên phương
pháp hữu hiệu để giải quyết mối quan hệ cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội,
biết đặt lợi ích tập thể, lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng
để phục vụ cái chung. Đây khơng chỉ là tình cảm mà còn là trách nhiệm cao quý
của học sinh, sinh viên. Nó thể hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa học sinh,
sinh viên với các tổ chức Đoàn, Hội, trong tập thể và trong xã hội, đoàn kết bên
nhau, giúp đỡ nhau trong khó khăn hoạn nạn với ý thức tình nguyện. Chính sự đồn
kết thống nhất này là động lực quan trọng để học sinh, sinh viên từng bước trưởng

thành, là cơ sở để gắn kết họ với tập thể và với xã hội trong học tập và trong cơng
tác sau này. Trong thời đại ngày nay, đồn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trở thành
nhân tố của sự ổn định, động lực của sự phát triển. Xây dựng và củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc và quốc tế trên lập trường của giai cấp vô sản là định hướng giá trị
và lý tưởng sống của tuổi trẻ.
2.4. Tuyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo
Truyền thống lao động cần cù, thông minh sáng tạo là một truyền thống quý
giá của dân tộc Việt Nam. Trải qua biết bao thế hệ, nhờ được phát huy, dân tộc Việt
Nam đã tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần phong phú. Nhờ đó, dân
tộc ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt của tự nhiên để xây dựng
và phát triển đất nước.
Ngày nay, học sinh, sinh viên cần phải được giáo dục truyền thống quý báu
đó. Cần có các biện pháp giúp học sinh, sinh viên nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của


18

lao động trong sự phát triển xã hội, giúp họ có thái độ đúng đắn và tình u đối với
lao động. Lao động là niềm vui, niềm hạnh phúc của tuổi trẻ, lao động với tinh thần
hăng say, sáng tạo. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng
tạo, hăng say chịu thương chịu khó, khơng ngại gian khổ làm việc với năng suất
cao, chất lượng tốt. Những trí thức trẻ ln sẵn sàng nhận và hồn thành mọi nhiệm
vụ vì lợi ích chính đáng của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Quá trình học tập của học sinh, sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường
hay giảng đường đại học là quá trình hình thành sự hiểu biết về nghề nghiệp mà
mình đảm nhận trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần phải nhận thức được rằng
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là tôn vinh người lao động và mọi giá trị của lao động, kể
cả lao động trí óc và lao động chân tay. Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về giá trị của lao động,
về vai trị và trách nhiệm của mình trong tình hình hiện nay, mỗi học sinh, sinh viên ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường phải nung nấu cho bản thân một hoài bão lớn, trong sáng, chuẩn

bị tốt hành trang vào đời. Phải là người có đủ bản lĩnh để trong bất cứ hồn cảnh nào, phân
cơng đi bất cứ nới đâu, làm bất cứ việc gì, cũng sẵn sàng cống hiến một cách xứng đáng. Phải
là những người tình nguyện cống hiến sức trẻ cho mọi miền đất xa xơi, cho những cơng trình
lớn của tổ quốc. Hơn lúc nào hết, học sinh, sinh viên cần phấn đấu trở thành người lao động
giỏi, lực lượng xung kích quan trọng trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, chuyển giao, làm chủ và sáng tạo ra công nghệ mới. Bài học kinh nghiệm của các
nước phát triển cho thấy không thể trở thành một quốc gia giàu mạnh với một nền sản xuất
hiện đại nếu ở đó thiếu những con người trẻ tuổi yêu lao động và lao động sáng tạo, có ý thức
tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
2.5. Truyền thống hiếu học, tơn sư trọng đạo
Hiếu học, tôn sư trọng đạo là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống hiếu học đã tạo ra nhiều vùng đất học nổi tiếng, với những con người
nỗ lực, quyết tâm vươn lên bằng con đường học hành. Đó cũng chính là nét đẹp
truyền thống của dân tộc Việt Nam.


19

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông cha ta đặc biệt đề cao
vai trò của giáo dục đối với việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhà bác học lớn của Việt Nam
thời phong kiến, Lê Quý Đôn ( 1726 – 1784 ) đã nhận thấy 5 yếu tố dẫn tới họa mất nước,
trong đó có hai yếu tố thuộc lĩnh vực giáo dục. Đó là “trị khơng trọng thầy”, “sĩ phu ngoảnh
mặt”. Từ đó, ơng đã đi đến kết luận: “Phi trí bất hưng”. Nhiều ơng vua đã lấy việc bồi dưỡng
nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Vào thế kỷ XV, Đông các đại
học sỹ Thân Nhân Trung (1419 – 1499 ) đã viết: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên
khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì
thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ
sỹ, vun trồng ngun khí quốc gia làm cơng việc cần thiết…
Ngọn lửa truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam lại được thắp sáng lên
trong tất cả mọi người dân yêu nước, nhất là thế hệ trẻ. Họ đang ngày đêm rèn đức

luyện tài vì ngày mai tươi sáng, vì hạnh phúc của tuổi trẻ. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước địi hỏi con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, phát huy truyền
thống hiếu học. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung mọi cố gắng,
dành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng đòi hỏi nhân tài
nhiều hơn trên tất cả các lĩnh vực. Đó là những con người có tri thức, có phẩm chất
đạo đức cao đẹp. Người lao động phải có trí tuệ cao, óc sáng tạo và bàn tay vàng để
có năng suất chất lượng hiệu quả cao.
Vấn đề đặt ra là phải giáo dục cho học sinh, sinh viên nhận thức rõ vai trị
khơng thể thay thế của tri thức, tầm quan trọng sống còn của tri thức với sự tồn tại
và phát triển của cả loài người và của từng cộng đồng quốc gia, dân tộc. Phải khơi
dậy trong học sinh, sinh viên tinh thần hăng say miệt mài học tập, học tập với động
cơ và thái độ đúng đắn, với tinh thần kiên trì và tích cực nhất để có được tay nghề
cao trong cơng việc của mình, từ đó phấn đấu vươn lên làm chủ khoa học và công
nghệ tiên tiến. Hơn ai hết, học sinh, sinh viên ngày nay phải học tập, thấm nhuần tư


20

tưởng Hồ Chí Minh: Học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân
giàu, nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người làm chủ nước nhà.
Kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo
của dân tộc vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là vinh dự lớn lao của học sinh, sinh
viên, góp phần làm giàu tiềm năng trí tuệ cho đất nước. Đây là một trong những
nhân tố đảo bảo cho sự nghiệp đổi mới đất nước đi đến thắng lợi.

KẾT LUẬN
Những giá trị văn hóa truyền thống q giá của dân tộc ta có một vị trí và vai
trò rất quan trọng trong việc giáo dục, dào tạo thế hệ trẻ, nhất là thanh niên, học sinh,
sinh viên hiện tại và tương lai. Do vậy, giáo dục giá trị văn hóa truyền thống dân tộc

cho học sinh, sinh viên là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội
Giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên, suy cho cùng
chính là thực hiện chiến lược con người, xây dựng con người mới với những phẩm
chất mới nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Làm tốt cơng tác
giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên sẽ có tác dụng chuyển


21

hóa sức mạnh tinh thần, năng lực trí tuệ của tuổi trẻ thành sức mạnh vật chất, để phát
huy tối đa sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh hiện đại, vừa giữ gìn
các giá trị văn hóa dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững cho đất
nước trong thế kỷ mới.
Hiện nay, đất nước ta đang mở rộng giao lưu quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong q trình đó, nước ta tiến hành giao lưu, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, nhưng phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc
văn hóa dân tộc, quyết khơng để tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ, sao chép
của người khác. Có như vậy, văn hóa dân tộc Việt Nam mới trở thành nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước, góp phần hun đúc, xây dựng và phát triển cốt cách, tâm hồn con người Việt
Nam, làm cho mọi hoạt động của chúng ta đều có cách tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại vừa mang sắc thái riêng của văn hóa và con người Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb. CTQG-ST, Hà Nội, 2011.
4. Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam (Dùng cho đào tạo sĩ quan cấp phân
đội – bậc đại học), Nxb QĐND, Hà Nội, 2003.
5. Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, 1998.


22

6. Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hóa thơng
tin, Hà Nội, 1994.
7. Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb. Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1996.
8. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998.



×