Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Truyện ngắn Tống Ngọc Hân từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN MINH TRƯỜNG

TRUYỆN NGẮN TỐNG NGỌC HÂN
TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA
(Qua hai tập truyện “Bức phù điêu mạ vàng” và “Hồn xưa lưu lạc”)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH

THÁI NGUYÊN – 2020


i

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Trường




ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thơng và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Trường


iii

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 3
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .......................................................................... 6
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................... 7

5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................ 9
7. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................................... 9
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA TỐNG NGỌC HÂN .............................................................................. 10
1.1. Văn hóa và nghiên cứu văn hóa.........................................................................10
1.1.1. Khái niệm văn hóa ....................................................................................... 10
1.1.2. Nghiên cứu văn hóa ...................................................................................... 13
1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ................................................................17
1.3. Một số khuynh hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa .....................24
1.3.1. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa - hướng thực hành .................... 25
1.3.2. Nghiên cứu văn học trong không gian văn hóa .......................................... 25
1.3.3. Khuynh hướng nghiên cứu văn bản văn học – văn hóa ............................. 26
1.4. Vài nét về nhà văn Tống Ngọc Hân và các phương diện văn hóa trong truyện
ngắn Tống Ngọc Hân...................................................................................................27
1.4.1. Vài nét về nhà văn Tống Ngọc Hân ............................................................ 27
1.4.2. Một số phương diện văn hóa miền núi trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân 29
Chương 2 MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA MIỀN NÚI TÂY BẮC
TRONG TRUYỆN NGẮN TỐNG NGỌC HÂN ........................................... 33
2.1. Văn hóa gia đình trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân .......................................33


iv

2.2. Văn hóa cộng đồng trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân ...................................44
2.3. Văn hóa nghệ thuật truyền thống trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân .....50
2.4. Hội tụ văn hóa trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân ...........................................54
Chương 3 NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN DẤU ẤN VĂN HÓA MIỀN NÚI
TRONG TRUYỆN NGẮN TỐNG NGỌC HÂN ........................................... 61
3.1. Nghệ thuật mô tả không gian văn hóa miền núi trong truyện ngắn Tống

Ngọc Hân......................................................................................................... 61
3.1.1. Không gian thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt ..................................... 62
3.1.2. Không gian bản làng trong lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. 65
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân.......... 69
3.3. Nghệ thuật mô tả tâm lý nhân vật trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân .... 74
3.4. Biểu tượng nghệ thuật và chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn Tống
Ngọc Hân......................................................................................................... 81
3.5. Giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân...................... 93
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 102


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau Đổi mới 1986, văn học Việt Nam nói chung và văn xi Việt
Nam nói riêng chính thức thay đổi một cách mạnh mẽ với nhiều giọng điệu,
phong cách nổi bật. Văn học di chuyển từ phạm vi “Lịch sử dân tộc” sang
phạm vi “Thế sự - đời tư” và phản ánh nhiều khía cạnh của đời sống cá nhân
của con người. Đây cũng là giai đoạn mà văn học Việt Nam xuất hiện nhiều
tác giả xuất sắc như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Xuân Khánh, Hồ
Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Cao Duy Sơn… Vượt qua những khó khăn
của một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, vượt qua những “Quán tính” của
văn học Sử thi trước 1975, văn học Việt Nam giai đoạn này không chỉ phản
ánh một thời đại đầy biến động mà cịn góp phần nâng niu những giá trị nhân
văn, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Và hơn tất
cả, nó phát huy dịng chảy giá trị nhân đạo khi hướng tới những bất hạnh trong
cuộc đời. Về mặt nghệ thuật, văn học sau Đổi mới cũng đánh dấu những cách
tân, thử nghiệm, khám phá đáng kể trong sự hòa nhập với nền văn học thế giới.

Bởi vậy, tuy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu nhưng khảo sát diện mạo của
nền văn học đương đại vẫn là một việc làm cần thiết trong nghiên cứu và phê
bình văn học.
1.2. So với lực lượng các nhà văn nam giới, số lượng các cây bút nữ có
lẽ ít hơn nhưng đủ làm nên một diện mạo riêng cho văn học Việt Nam đương
đại. Đặc biệt, giai đoạn sau 1986, một loạt các nhà văn nữ xuất hiện trên văn
đàn với vị thế đáng kể của họ như: Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phong Điệp,
Kiều Bích Hậu, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Quỳnh Trang, Đỗ Hồng Diệu …
Họ thổi một “luồng gió” mới vào văn học Việt Nam với những góc nhìn riêng,
những mối bận tâm riêng. Đặc biệt là những nhà văn nữ viết về mảng đề tài
miền núi đã mang đến những tác phẩm không chỉ đằm thắm, nhân hậu mà cịn
đau đáu xót thương cho những giá trị văn hóa đang lụi tàn bởi sự xâm lấn từ


2

“Mặt trái” của văn minh đô thị. Trong những nhà văn đó, chúng ta phải kể đến
tác giả Tống Ngọc Hân.
Tác giả Tống Ngọc Hân tiếp nối dòng chảy của văn học nữ và đề tài miền
núi nhưng chị đã cho thấy sự bứt phá của mình bằng một loạt các tập truyện
ngắn và giải thưởng văn chương như giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam, giải thưởng Văn học nghệ thuật Phan Si Păng
của UBND tỉnh Lào Cai, giải thưởng Văn nghệ Quân đội, giải thưởng của Bộ
Công an và Hội nhà văn Việt Nam về đề tài Vì an ninh tổ quốc và bình n
cuộc sống, giải thưởng Nơng thơn đổi mới của Bộ Nông nghiệp và nông thôn
phối hợp với Hội nhà văn tổ chức.. Truyện ngắn của Tống Ngọc Hân cho thấy
một nền tảng văn hóa phong phú cùng một khiếu kể truyện thông minh. Thăm
thẳm đằng sau những số phận người vùng cao là sự băn khoăn của chị về thời
đại. Buồn bã sau những kiếp người là tình người ấm áp chị gửi gắm vào tác
phẩm.

1.3. Nghiên cứu văn học đương đại gần đây cho thấy xu hướng khảo sát
tác phẩm không chỉ dừng lại ở phạm vi văn bản mà trong xu hướng liên ngành,
liên văn hóa. Văn bản khơng cịn là “Một hịn đảo cơ độc” mà nó phản ánh,
can thiệp vào đời sống con người. Đặc biệt, mảng văn học về đề tài miền
núi cho thấy một mối lo ngại về sự biến mất của các giá trị truyền thống của
các dân tộc ít người, sự xâm lấn thô bạo của văn minh đô thị đến môi trường
sống bản địa và những bi kịch của con người thời đại mới. Đây là một hướng
đi giá trị cần có những nghiên cứu sâu hơn cả về mặt lý thuyết lẫn thực
hành.
Dựa trên tình hình sự phát triển của văn học Việt Nam và những vấn đề
lí luận và thực tiễn kể trên, chúng tơi thực hiện đề tài: “Truyện ngắn Tống
Ngọc Hân từ góc nhìn văn hóa” với mong muốn đóng góp, bổ sung thêm cho
hướng nghiên cứu văn hóa – văn học cũng như góp phần khái quát diện mạo
của văn học đương đại Việt Nam nói chung cũng như văn học miền núi nói


3

riêng. Đặc biệt chúng tơi mong muốn góp phần khám phá, khẳng định giá trị
văn học của tác phẩm, đóng góp của nhà văn Tống Ngọc Hân vào cơng cuộc
bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào vùng cao trước nguy
cơ mai một dần trong quá trình Đơ thị hóa.
1.4. Là một giáo viên dạy văn tại trường phổ thông ở miền núi, khi thực
hiện đề tài này chúng tơi hi vọng sẽ có thêm tư liệu bổ ích cho việc giảng dạy
phần Văn học Việt Nam hiện đại trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Nhà văn Tống Ngọc Hân gắn bó phần lớn cuộc đời chị với mảnh đất
Sa Pa nên hình ảnh miền núi in đậm trong các sáng tác của chị. Chị viết
nhiều và ấn tượng với một loạt các truyện ngắn, thơ và tiểu thuyết. Trong
khuôn khổ của đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến bộ phận truyện ngắn trong

sáng tác của chị. Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm
đến các truyện ngắn đặc sắc của Tống Ngọc Hân.
Gần đây nhất, luận văn “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân” do Nguyễn Thị Huyền thực hiện cũng đã làm nổi bật lên những đặc
trưng của nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn. “Họ là những con người bất
hạnh trong tình u, hơn nhân không trọn vẹn, trong gánh nặng cuộc sống mưu
sinh, nạn nhân của những giá trị văn hóa truyền thống đã lỗi thời, của sự tha
hóa hóa về phẩm chất đạo đức, hành vi lối sống… nhưng trên hết ở họ, dù trong
hồn cảnh khó khăn nào, họ vẫn ln giàu đức hi sinh thủy chung, giữ trọn bổn
phận với q hương và gia đình. Đó cũng là niềm tin, sự lạc quan của người
trước những khó khăn, sóng gió của cuộc đời.” [48]. Định hướng của luận văn
là khai thác thế giới nhân vật và từ đó làm sáng tỏ cuộc sống của những hình
tượng nhân vật ấy trong các tác phẩm của Tống Ngọc Hân.
Trong luận văn “Nhân vật nữ trong văn xuôi của Tống Ngọc Hân” của
tác giả Phạm Thị Thu Hường đã khảo sát một cách kỹ lưỡng các kiểu nhân vật
nữ và nghệ thuật xây dựng các nhân vật nữ trong văn xuôi Tống Ngọc Hân,


4

và đưa ra kết luận: “Viết về người phụ nữ, các nhà văn nữ, bên cạnh việc kế
thừa những thành tựu của văn học truyền thống, đồng thời họ cũng đã tạo
cho mình một dấu ấn riêng rất đặc sắc khơng trộn lẫn. Cùng với sự tìm tịi,
khám phá các nhà văn nữ đương đại đã dần hình thành lối viết nữ thể hiện
vẻ đẹp hình thể, tự do bản ngã trong khát vọng của người phụ nữ.” [52; 103].
Tuy luận văn đã khảo sát khá kỹ những khía cạnh nội dung và nghệ thuật
trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân nhưng những tầng vỉa văn hóa trong
mối liên hệ với văn học cần có sự khai thác theo chiều hướng phù hợp hơn.
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn của Hà Thị Biên đã nghiên cứu
truyện ngắn Tống Ngọc Hân và Đỗ Bích Thúy ở khía cạnh thân phận người

phụ nữ miền núi. Tương tự Phạm Thị Thu Hường, Hà Thị Biên cũng khảo sát
truyện ngắn của Tống Ngọc Hân dưới góc độ thi pháp truyền thống qua nghệ
thuật xây dựng hình ảnh người phụ nữ miền núi.
Truyện ngắn Tống Ngọc Hân, bên cạnh là đối tượng nghiên cứu của
một số luận văn thì cũng được nhiều cây bút phê bình và đồng nghiệp đánh
giá cao. Tác giả Hoàng Thụy Anh đã khái quát những dấu ấn về thân phận con
người trong sáng tác của Tống Ngọc Hân qua bài viết: “Tình người trong
truyện ngắn của Tống Ngọc Hân”, “Cái đói, cái nghèo xuất hiện khá nhiều
trong các tác phẩm viết về đề tài miền núi. Chủ đề này cũng được Tống Ngọc
Hân khai thác, một mặt phản ánh đúng thực trạng cuộc sống, mặt khác, thể
hiện khá rõ số phận nghiệt ngã, sự tồn tại chông chênh của người dân vùng
cao. Cái nghèo như là số mệnh truyền kiếp của người dân nơi đây.” [75]. Đặc
biệt, qua tập truyện ngắn Tam khơng, tình u thương con người và xót xa cho
sự lụi tàn của văn hóa miền núi được Tống Ngọc Hân gửi gắm vào từng trang
viết. Nó cho thấy một tâm hồn nhân hậu và tinh tế, đầy trách nhiệm của nhà
văn trước những biến động của thời đại.
Cũng bày tỏ sự ấn tượng về văn hóa miền núi trong sáng tác của Tống
Ngọc Hân, tác giả Hồng Sơng Gianh viết: “Hình ảnh ơng khách miền xuôi


5

sau cuộc mua bán mãn nguyện ra về với Tiếng xe nổ giịn giã, khói phụt đen
ngỏm cả con dốc đá dài chênh vênh. Khói nhuộm đen cả những chùm mây
trắng nõn đang dùng dằng dắt nhau lên núi Rồng trong truyện ngắn Hồn xưa
lưu lạc của Tống Ngọc Hân vừa là hình ảnh thực, vừa là hình ảnh biểu tượng.
Văn hóa miền xi, văn hóa ngoại quốc như một con ác thú khổng lồ đang tấn
công, phụt cái nọc độc của nó phá hủy, làm vẩn đục bầu sinh quyển hoang sơ,
thuần khiết của văn hóa tộc người…” [76]. chúng tôi đồng ý với ý kiến này
nhưng cũng muốn bổ sung thêm: Chỉ có “Mặt trái” của q trình Đơ thị hóa

của văn hóa miền xi, văn hóa ngoại quốc mới gây ra những hệ lụy đau buồn
như thế. Cịn phải khẳng định những đóng góp tốt đẹp của văn hóa miền xi,
văn hóa ngoại quốc mới thật sự khoa học, khơng cực đoan.
Trong Lời bình truyện ngắn Lửa cười lửa khóc của Tống Ngọc Hân,
Mai Thùy Nhung: “Phải chăng giọt nước mắt âm thầm của mẹ, giọt nước mắt
vo trịn lăn nhanh qua đơi gị má rám nắng của cha, giọt nước mắt rỉ ra loang
lống của ơng, câu hỏi đau đáu của bà và hình ảnh ngọn lửa khóc chính là
biểu hiện xót xa cho những giá trị truyền thống đành phải lui bước, đầu hàng
trước đổi thay của con người và thời cuộc?” [86].
Khai thác tác phẩm của Tống Ngọc Hân ở khía cạnh ngơn từ, tác giả
Ngô Khiêm lại cho rằng: “Thế mạnh của Tống Ngọc Hân là tự sự và chị kể
những câu chuyện theo cách của riêng mình. Thế nên, giọng điệu được hình
thành từ trong tâm tưởng với suy nghĩ làm sao để diễn đạt cho thật cuốn hút,
sau đó câu chữ sẽ tự khắc tn thủ giọng điệu. Vì tơn trọng bạn đọc nên chị
cố gắng chắt lọc câu từ và đó là những gì cuộc sống đã tặng cho chị nguồn
vốn quý giá để nuôi sống văn chương. Chị quan niệm rằng làm được như vậy
thì chi tiết mới “sống” và truyện mới có hồn, mới ám ảnh khiến người đọc chỉ
đọc một lần sẽ nhớ mãi.” [79]. Tác giả Ngô Khiêm nhấn mạnh vào sự tự nhiên
trong nghệ thuật trần thuật của Tống Ngọc Hân. Đặc biệt, những cách diễn đạt
gần với đời thường nhưng đầy sự chắt lọc làm cho tác phẩm của chị dễ đi vào


6

lòng người đọc hơn.
Tác giả Thanh Mai trong tác phẩm “Mầm đắng: Đắng đót phận đời
phụ nữ vùng cao” cũng bày tỏ sự ấn tượng với nghệ thuật viết của Tống Ngọc
Hân trong truyện ngắn xuất sắc của chị về đề tài buôn người: “Cộng hưởng để
tạo nên những thành công về mặt chủ đề, tư tưởng, nội dung của “Mầm đắng”,
như trên đã nói, vẫn là những thế mạnh sở trường và ngày một nhuần nhuyễn,

thuần thục của Tống Ngọc Hân, đó là lối tự sự đầy mê hoặc; câu chữ chặt,
đầy dồn nén, day dứt mà vẫn tự nhiên, uyển chuyển; chi tiết đậm đặc mà phong
phú; lối nói, lối ví von mộc mạc, gần gũi nhưng tinh tế, dí dỏm, giàu hình ảnh,
đậm chất mạn ngược” [83].
Dựa trên những khảo sát trên, chúng tôi thấy rằng các cách tiếp cận
sáng tác của Tống Ngọc Hân mới chỉ dừng ở một số phương diện như nhân
vật, giọng điệu, nghệ thuật mô tả. Với sự cách tân và vận động của văn học
đương đại cần có những sự khám phá mang tính cập nhật hơn. Bởi vậy, đề
tài “Truyện ngắn Tống Ngọc Hân từ góc nhìn văn hóa” được triển khai
trên khoảng trống này.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Dấu ấn văn hóa của đồng
bào miền núi Tây Bắc Việt Nam trong truyện ngắn của Tống Ngọc Hân.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Triển khai đề tài Truyện ngắn Tống Ngọc Hân từ góc nhìn văn hóa
(Qua hai tập truyện “Bức phù điêu mạ vàng” và “Hồn xưa lưu lạc”) nhằm
hướng tới các mục đích sau:
- Tìm hiểu đề tài về góc nhìn văn hóa trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân, chúng tôi muốn khảo sát những dấu ấn văn hóa và vai trị của nó
trong truyện ngắn về đề tài miền núi của nhà văn nữ xuất sắc này.
- Từ đó chúng ta có thể thấy được vai trị của chất liệu văn hóa trong
việc xây dựng thế giới nghệ thuật của văn học. Văn hóa miền núi và số phận
của nó được phản ánh trong tác phẩm của Tống Ngọc Hân nói riêng, trong văn


7

xi Việt Nam đương đại nói chung.
4. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi tập trung nghiên cứu hai tập truyện in đậm dấu ấn văn hóa
miền núi của Tống Ngọc Hân là:
- Hồn xưa lưu lạc (Tập truyện ngắn, NXB Quân Đội Nhân Dân, 2014)
- Bức phù điêu mạ vàng (Tập truyện ngắn, NXB Văn Học, 2019)
Qua hai tập truyện này, chúng tôi chú trọng vào khảo sát các yếu tố ghi
dấu văn hóa miền núi để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tơi có mở rộng so sánh với một
số tác phẩm về đề tài miền núi của các nhà văn khác.
5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát các truyện ngắn của nhà văn Tống Ngọc Hân từ góc độ văn hóa.
Phân tích giá trị và vai trị của một số phương diện văn hóa trong việc
phản ánh đời sống và khả năng tác động tới người đọc trong tiếp nhận văn học
Tìm hiểu một số biểu tượng, chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng
điệu nghệ thuật với chiều sâu văn hóa của nó trong truyện ngắn của Tống
Ngọc Hân.
Khẳng định thành tựu trong văn xuôi Tống Ngọc Hân khi viết về đề tài
dân tộc và miền núi.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài của luận văn chúng tôi sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chính sau đây:
Phương pháp thống kê, phân loại:
Với một lượng truyện ngắn khá nhiều, phương pháp này giúp chúng
tơi trong q trình khảo sát, phân loại các đặc điểm nổi bật cả về hình thức và
nội dung lẫn chiều sâu văn hóa trong các sáng tác của Tống Ngọc Hân.
Phương pháp so sánh, đối chiếu:
Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu giúp chúng tơi có điều kiện
so sánh văn xuôi của Tống Ngọc Hân với các tác phẩm văn xuôi của một số



8

nhà văn khác, từ đó thấy được những điểm khác biệt và đặc trưng trong sáng
tác của nhà văn Tống Ngọc Hân.
Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Trên cơ sở phân tích các phương diện văn hóa miền núi, chúng tơi sẽ
tổng hợp để chỉ ra những phẩm chất văn hóa, những yếu tố và những mối quan
hệ cơ bản để tạo nên các dấu ấn văn hóa trong sáng tác của Tống Ngọc Hân.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học:
Có nhiều định nghĩa về thi pháp học, ở đây chúng tôi xin dẫn ra cách
định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học: “Thi pháp học là khoa học nghiên
cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện
đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi
pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham
gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản
ánh của thế giới nghệ thuật” [43; 304]. Như vậy, Phương pháp nghiên cứu thi
pháp học là việc tập trung nghiên cứu văn bản.
Với phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát, đánh giá hàng loạt
những phương diện hình thức mang tính nội dung trong thi pháp truyện ngắn
của Tống Ngọc Hân như: Không gian nghệ thuật, hình tượng nhân vật, biểu
tượng và chi tiết nghệ thuật, về ngơn ngữ và giọng điệu nghệ thuật. Từ đó khẳng
định giá trị của tác phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Phương pháp tiếp cận liên ngành văn hóa - văn học:
Đây là phương pháp nghiên cứu quan trọng nhất được vận dụng triệt để
trong luận văn này. Chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành văn
hóa - văn học để thấy rằng: văn hóa là một trong những yếu tố có sức lan
tỏa và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của con người. Văn hóa hình thành ở
con người cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận về mọi vấn đề của cuộc sống.
Do đó tiếp cận theo phương pháp liên ngành giúp chúng tôi thấy được những
ảnh hưởng của chất liệu văn hóa miền núi đến quan điểm sáng tác và thực tiễn

sáng tác của nhà văn Tống Ngọc Hân.


9

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai
trong ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết và hành trình sáng tác của Tống
Ngọc Hân.
Chương 2: Một số phương diện văn hóa miền núi Tây Bắc trong truyện
ngắn Tống Ngọc Hân.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện dấu ấn văn hóa miền núi Tây Bắc
trong truyện ngắn Tống Ngọc Hân.
Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.
7. Đóng góp mới của luận văn
Tìm hiểu một cách có hệ thống các yếu tố văn hóa trong truyện ngắn
Tống Ngọc Hân không chỉ giúp làm sáng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa văn học
và văn hóa mà cịn khẳng định khả năng cảnh báo và can thiệp của văn học vào
đời sống văn hóa của cộng đồng. Đồng thời luận văn, qua việc khảo sát, đánh
giá những “tầng vỉa” văn hóa hàm ẩn trong hai tập truyện ngắn của Tống Ngọc
Hân, khẳng định giá trị của tác phẩm, cá tính sáng tạo độc đáo và đóng góp của
nhà văn vào thành tựu của văn xuôi Việt Nam đương đại.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA TỐNG NGỌC HÂN

1.1. Văn hóa và nghiên cứu văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Chúng tơi rất tán thành khái niệm Văn hóa của Trần Ngọc Thêm, mặc
dù có rất nhiều định nghĩa về Văn hóa đang tồn tại trên thế giới.
“Ngay từ thuở lọt lòng, chúng ta đã đắm mình trong chất men văn hố:
từ lời ru của mẹ, bài học của cha, trò chơi của chị… cho đến tiếng gọi đị bên
sơng, tiếng võng đưa kẽo kẹt lúc trưa hè, tiếng chuông buông khi chiều xuống…
– tất cả, tất cả những sự kiện đó, những ấn tượng đó, những âm thanh đó,
những hình ảnh đó… đều thuộc về văn hóa. Cái tinh thần như tư tưởng, ngơn
ngữ… là văn hoá; cái vật chất như ăn, ở, mặc… cũng là văn hố. Chính văn
hố đã ni chúng ta lớn, dạy chúng ta khơn. Người ta nói: văn hóa ẩm thực,
văn hoá trang phục, văn hoá ứng xử, văn hố tiêu dùng, văn hố kinh doanh,
văn hóa chính trị, văn hố Đơng Sơn, văn hố Hồ Bình, văn hố rìu vai… Từ
"Văn hố" có biết bao nhiêu là nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có
nội hàm hết sức khác nhau”. [88]
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và có nội hàm hết sức rộng. Theo
như tác giả Trần Ngọc Thêm, văn hóa là tồn bộ môi trường sống của con người
bao gồm từ những sản phẩm tinh thần và vật chất. Tuy nhiên để đưa ra một khái
niệm cụ thể về khái niệm văn hóa là một vấn đề nan giải bởi văn hóa ln được
gắn với những tộc người, những quốc gia nhất định và nó ln biến đổi qua
từng thời kì của lịch sử. Bởi vậy, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ
khảo sát những yếu tố cốt lõi nhất của khái niệm văn hóa.
Trong văn hóa phương Tây, văn hóa được định nghĩa là những gì thuộc
về các quốc gia châu Âu cũng như các quốc gia bị ảnh hưởng bởi văn hóa châu
Âu như Mỹ. Văn hóa châu Âu có nguồn gốc từ giai đoạn cổ điển gắn với sự


11

trỗi dậy của Thiên chúa giáo vào thế kỷ XIV. Cho dến thế ki XIX, XX, gắn với

sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân, văn hóa châu Âu đã lan tỏa khắp toàn
cầu. Ở phương Tây cổ đại, khái niệm văn hóa gốc Hy Lạp, La Mã (cuture) có
nghĩa đen là vun xới, trồng trọt. Mở rộng ra, nó ám chỉ sự rèn rùa, giáo dục và
đào luyện. Sang thời kì Phục Hưng ở Châu Âu, phá bỏ các quan niệm của “Đêm
trường trung cổ” với tính chất giáo điều, kinh viện mà nhà thờ phong kiến xây
dựng, văn hóa thường được đồng nghĩa với văn chương nghệ thuật. “Đó là thời
kì mà lý trí con người được tơn sùng đến cao độ, người có văn hóa là người có
lý trí phát triển cao, nhờ đó mà thành tựu được lý tưởng nhân bản. Các học giả
nổi tiếng của kỷ ngun ánh sáng như Vơn – te, Con đóc xê, Tuốc gô… đều cho
rằng lịch sử phát triển văn hóa của lồi người đồng thời cũng tức là lịch sử
phát triển của lý trí. Một dân tộc có văn hóa khác với những bộ tộc dã man
nguyên thủy dã man ở chỗ mọi thiết chế xã hội và chính trị của nó đều thấm
nhuần lý trí, biểu hiện lý trí, cũng như trong những thành tựu khác của văn
chương, nghệ thuật” [44]
Đối lập với văn hóa phương Tây, văn hóa phương Đơng là khái niệm
dùng để chỉ những ngun tắc xã hội của các quốc gia châu Á như Trung Quốc,
Việt Nam, Han Quốc, Triều Tiên và Ấn Độ… Văn hóa phương Đơng bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi tơn giáo trong thời kì hình thành và phát triển như Phật
giáo, Khổng giáo... Đặc biệt nó gắn liền với các nền văn minh lúa nước. Theo
tác giả Dorian Q. Fuller trong tác phẩm “Con đường tới các nền văn mình châu
Á: Lần lại nguồn gốc của lúa và văn hóa lúa nước”, nhìn chung văn hóa phương
Đơng ít có sự khác biệt giữa xã hội thông thường và triết học tôn giáo so với
phương Tây. “Nghĩa ban đầu của văn hóa trong tiếng Hán là những nét xăm
mình qua đó người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người
khác, biểu thị sự quy nhập vào thần linh và các lực lượng bí ẩn của thiên nhiên,
chiếm lĩnh quyền lực siêu nhiên. Theo bộ Từ Hải (1989), văn hóa vốn là một
cách biểu thị chung của hai khái niệm văn trị và giáo hóa.” [94]


12


Tóm lại, văn hóa được đinh nghĩa từ ban đầu như những hệ thống biểu
tượng, ngôn ngữ, đức tin, giá trị trong các xã hội. Và theo như định nghĩa được
đưa ra, văn hóa có hai thành phần cơ bản: vật chất và phi vật chất. Dạng phi vật
chất bao gồm giá trị, đức tin, biểu tượng và ngôn ngữ định nghĩa xã hội. Dạng
văn hóa vật chất bao gồm các đối tượng vật lý như các công cụ, công nghệ,
trang phục…
Về cơ bản, văn hóa được chia làm nhiều cấp độ:
Văn hóa vùng miền hay cịn gọi là văn hóa nhóm là văn hóa của các
vùng miền, các nhóm người. Mỗi vùng miền mang những đặc trưng văn hóa
mà tạo thành sự khác biệt với các vùng khác. Mỗi vùng của một đất nước có
thể có nhiều đặc trưng văn hóa khác nhau. Ví dụ như Việt Nam có thể chia ra
làm văn hóa miền núi phía Bắc, đồng bằng bắc bộ hay Tây Nguyên…
Văn hóa dân tộc là những thuộc tính và phẩm chất mà văn hóa tạo nên
đặc thù của mỗi quốc gia. Nói cách khác mỗi quốc gia có những hoạt động và
nghi lễ văn hóa khác nhau. Tất nhiên, trong quá trình tương tác, giao lưu, có
thể có những tính chất tương đồng nhưng về cơ bản sự khác biệt văn hóa tạo
nên sự khác biệt giữa các cộng đồng người. Nó vừa có thể tạo ra sự phát triển
những cũng có thể tạo ra sự xung đột. Đặc biệt khi các nền văn hóa bá quyền
muốn đồng hóa các nền văn hóa nhỏ hơn.
Trong thời kì hiện đại, cùng với sự phát triển của giao thơng, địa lý,
khoa học… các nền văn hóa có nhiều điều kiện giao lưu với tính chất xuyên
quốc gia, xun châu lục. Nó tạo thành nền văn hóa tồn cầu. Ở một khía cạnh
khác, lồi người về cơ bản theo đuổi những giá trị chung, đến một mức độ nào
đó, nó sẽ trở thành giá trị mang tính chất nhân loại. Ví dụ với sự ảnh hưởng của
Mỹ, tiếng Anh đã trở thành ngơn ngữ mang tính chất tồn cầu hay các sáng tác
văn học đạt giải Nobel đã vươn lên tầm nhân loại khi nó chạm đến những vấn
đề chung của cả thế giới.



13

Dựa trên những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng văn hóa là một
hiện tượng phức tạp, nhạy cảm và không ngừng biến đổi. Việc can thiệp vào
văn hóa là vơ cùng nhạy cảm và cần có những nghiên cứu khoa học bởi nó có
thể tạo ra những xung đột hay sự hủy diệt của cả một cộng đồng người.
1.1.2. Nghiên cứu văn hóa
Nghiên cứu văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy liên ngành
nhằm khám phá cách mà văn hóa tạo ra và biến đổi kinh nghiệm cá nhân, đời
sống hàng ngày, mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu văn hóa nhằm bộc lộ mỗi
quan hệ giữa hiểu biết văn hóa như những hoạt động biểu tượng và hiểu biết
văn hóa một cách đặc thù của cuộc sống. Với sự kết hợp giữa khoa học xã hội
và nhân văn, nghiên cứu văn hóa thực hiện trên phương pháp từ nghiên cứu văn
học, xã hội, lịch sử, cộng đồng, nhân học văn hóa. Bằng cách triển khai xuyên
qua ranh giới giữa các lĩnh vực, nghiên cứu văn hóa giải thích những câu hỏi
và vấn đề mới của thế giới ngày nay. Thay vì đi tìm kiếm những câu trả lời cố
định, nghiên cứu văn hóa phát triển những cơng cụ mềm dẻo có thể thích nghi
với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới.
Trong nửa cuối của thế kỷ XX, xuất hiện những phương pháp tiếp cận
nghiên cứu văn hóa đã thu hút sự chú ý ngày càng tăng của giới nghiên cứu. Ở
một mức độ lớn và nằm ngồi xu hướng chính trong khoa học xã hội, những
cách tiếp cận này chủ yếu hướng đến ý nghĩa, biểu tượng, ngôn ngữ và diễn
ngôn. Chúng bắt nguồn từ những truyền thống triết học sâu sắc hơn, khác
biệt và đáng kể bên ngoài truyền thống thực chứng của khoa học xã hội
đương đại. Cách tiếp cận đầu tiên là hiện tượng học, sau đó là nhân học văn
hóa, chủ nghĩa cấu trúc và lý thuyết phê bình. Sau đây là một số hướng
nghiên cứu văn hóa cơ bản:
a, Peter L. Berger và hiện tượng học



14

Vào giữa thập niên 1960, Peter L Berger (1929 - 2017) trở thành một
trong những nhà nghiên cứu quan trọng đưa ra cách tiếp cận hiên tượng học và
một trong những nhà lý thuyết văn hóa có ảnh hưởng nhất. Ơng đã viết những
cơng trình về xã hội học, hiện đại hóa, lý thiết xã hội học và chính sách xuất
bản. Và bằng cách sử dụng và xem xét đáng kể quan điểm hiện tượng học, ông
đã tạo ra một công cụ khái niệm cho phép xử lý xã hội học vi mô và các vấn đề
vĩ mô (xây dựng văn hóa của các thể chế, hệ tư tưởng và thay đổi các chuẩn
mực xã hội). Berger bắt đầu xuất bản từ năm 1958. Các tác phẩm có ảnh hưởng
nhất của ông từ thời điểm xuất bản tác phẩm Cái nhìn tạm thời (1961). Các tác
phẩm được chấp nhận, sau đó chúng đã tạo ra sự chuyển dịch lớn trong quỹ đạo
tôn giáo. Từ năm 1963 đến 1970, ông phát triển cái nhìn của mình về tính chất
văn hóa và hiện thực xã hội. Trong các tác phẩm đó, ơng diễn tả các thơng số
tri thức và tính chất của khoa học. Theo như hạt nhân của nghiên cứu, thế giới
nơi con người sống (bên trong giới hạn của môi trường tự nhiên và sinh học
của loài người) được tạo nên. Nói cách khác, hiên thực được hiểu và trải nghiệm
bởi loài người được đặt trong xã hội. Đến năm 1969, ông bắt đầu khám phá mối
quan hệ lý thuyết giữa văn hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của thế giới thứ ba
và chính trị.
b, Duy vật luận (Materialism)
Đây là một quan niệm triết học và xã hội học, về căn bản, thuyết duy
vật coi mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả
của sự tương tác vật chất. Duy vật luận được Marx và Engels hoàn thiện và phổ
biến thành một trong những học thuyết vĩ đại nhất trong kinh tế, chính trị, xã
hội… của các quốc gia đi theo hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Trên cơ sở thuyết duy vật của Marx và Engels, Marvin Harris (19272001) đã xây dựng nên một học thuyết mới, sử dụng trong khoa học xã hội và
nhân văn có ảnh hưởng khá mạnh trong thế kỷ XX. Từ góc nhìn tiến hố luận,



15

Leslie White và Julian Steward đã tạo dựng nên các lý thuyết tân tiến hoá luận
và sinh thái văn hoá...
c, Đặc thù văn hoá luận (Cultural Particularism)
Đây là một trong những hệ lý thuyết nhân học hiện đại đầu tiên được
Frank Boas xây nền và một số học trò của ông như Alfred Kroeber, Ruth
Benedict, Margaret Mead… hoàn thiện. Về cơ bản, học thuyết này nhấn mạnh
đến tính đặc thù của mỗi nền văn hố khơng phân biệt giữa phương Đông và
phương Tây, giữa nhập cư và bản địa… Học thuyết này giúp tránh được những
định kiến về sự “chậm tiến” của các bộ tộc/bộ lạc lạc hậu bởi nó đề cao tới vấn
đề bản sắc văn hoá (culture in itself) của mỗi nền văn hố. Đây cũng chính là
cách mà Frank Boas và những người theo trường phái của ông phản ứng lại tiến
hoá văn hoá luận vốn ảnh hưởng đến hầu khắp giới khoa học xã hội và nhân
văn trước đó. Theo lý thuyết này, bản sắc văn hố của mỗi tộc người hay mỗi
nền văn hố có giá trị “tự thân” của nó nên khơng thể áp đặt bằng một khung
văn hoá của bất cứ một xã hội nào khác cho dù “cái khung” đó được coi là văn
minh hay tiến bộ hơn. Và như vậy, quá trình phát triển văn hố (chứ khơng phải
là tiến hố văn hoá) của các nền văn hoá với nền tảng xã hội khác nhau sẽ đi
lên bằng những cách thức khác nhau chứ khơng thể là những bước tiến hố
chung giống như sự phát triển của sinh vật trong thế giới tự nhiên.
d, Chức năng luận (Functionalism)
Đây là một trong những lý thuyết khoa học ra đời từ rất sớm được ứng
dụng trong triết học, xã hội học trước khi đến với nhân học hiện đại. Người
được coi như cha đẻ của học thuyết này là Emile Durkheim, nhưng trước đó
Herbert Spencer (1820-1903) đã sử dụng nó trong các nghiên cứu của ơng về
khoa học xã hội. Có thể tóm tắt tư tưởng cơ bản của chức năng luận như sau:
Bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao gồm những bộ phận khác nhau
nhưng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để tạo nên cái toàn bộ, tạo
nên sự ổn định hệ thống. Có thể xem là hiểu được một bộ phận trong hệ thống



16

khi hiểu được cái cách mà nó đóng góp vào sự vận hành của hệ thống. Sự đóng
góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng. Các bộ
phận có tầm quan trọng, chức năng khác nhau đối với hệ thống. Các lý thuyết
về chức năng luận của Durkheim được tiếp nối bởi Alfred Radcliffe-Brown
(1881-1955) và Bronislaw Malinowski (1884 - 1942), Robert Merton (1910 2003) và Talcott Parsons (1902 - 1979).
Malinowski cho rằng mỗi cá thể có sinh lý cần thiết (tái sản xuất, thức
phẩm, chỗ ở…) và sự thành lập xã hội để tìm những gì cần thiết. Đó cũng là
nguồn gốc văn hóa cần thiết và là 4 phương tiện cần thiết cơ bản (kinh tế, quản
lý xã hội, giáo dục và tổ chức chính trị).
e, Cấu trúc luận (Structuralism)
Đây là một trong những lý thuyết có ảnh hưởng lớn, được xem như một
trong những cuộc cách mạng về phương pháp luận trong khoa học xã hội và
nhân văn thế kỷ XX. Người sáng lập Ferdinand de Saussure (1857 - 1913) đã
chủ trương một phương pháp luận tập trung vào tính hệ thống của ngôn ngữ
được biểu thị bằng những ký hiệu gồm cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu
đạt (signified). Phương pháp này đã được ông sử dụng trong ngôn ngữ học và
sau đó là ký hiệu học. Dựa vào cấu trúc luận (trên cơ sở ký hiệu học của F. de
Saussure), Lévi-Strauss đã cho ra đời nhân học cấu trúc (structural
anthropology) từ những tương quan giữa các thành tố văn hố khác nhau thơng
qua cấu trúc của chúng. Theo ơng, những hình mẫu phổ qt của văn hố là
những sản phẩm của những cấu trúc không đổi trong ý nghĩ của con người.
Chẳng hạn như trong các tác phẩm thơ ca, nhà ngôn ngữ học nhận ra các cấu
trúc rất giống với các cấu trúc trong các huyền thoại mà các nhà dân tộc học đã
từng bắt gặp trong quá trình phân tích của họ. Có thể nói, cấu trúc luận chính
là một cơng cụ quan trọng để chúng ta tiếp cận thế giới biểu tượng của văn hoá.
f, Tương đối văn hoá luận (Cultural relativism)



17

Đây là một học thuyết ra đời tại Mỹ với quan điểm cho rằng khơng có
những nền văn hố bậc cao và nền văn hoá hạ đẳng, mọi nền văn hố đều bình
đẳng (tương đương) tuỳ theo mơi trường của chúng. Mọi thành tố của văn hố
có mối quan hệ chặt chẽ với chính bản chất đặc trưng của văn hoá. Giữa hai
cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ I và lần thứ II, lý thuyết tương đối văn hoá
đã trở thành công cụ quan trọng để các nhà nhân học Mỹ chống lại sự “thống
nhất văn hoá” và cải biến các nền văn hố phi phương Tây. Đóng góp này của
thuyết tương đối văn hố là một cơng cụ phục vụ đắc lực cho sự ra đời của
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10/12/1948. Có thể nói,
tương đối văn hố luận cùng với đặc thù văn hoá luận của Frank Boas đã ghi
một dấu ấn hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa vị chủng
(racism) và chủ nghĩa phát xít (facism) đem lại quyền tự do, bình đẳng của con
người khơng phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, màu da...
Ý tưởng cơ bản của tương đối luận là khơng có tiêu chuẩn cuối cùng
nào của tốt đẹp hay xấu xa trong văn hóa nên mọi phán xét về sai hoặc đúng là
sản phẩm của xã hội. Tương đối luận văn hóa giữ một vị trí lớn trong thế giới
hiện đại. Những thuật ngữ như “đa nguyên”, “sự khoan dung”, và “sự chấp
nhận” được bổ sung ý nghĩa mới, ranh giới văn hóa được cởi mở.
Cách nhìn là một điều vơ cùng quan trong cho việc am hiểu lịch sử, tâm
lí và chính trị. Cách nhìn văn hóa có thể giúp chúng ta hiểu tại sao những hoạt
động lại được phán xét đúng sai ở từng nền văn hóa. Ví dụ trong xã hội cổ đại
khi phán xét nhuộm tóc xanh là một tội lỗi thì trong xã hội hiện đại đó là một
điều bình thường. Nói một cách đơn giản hơn, chúng ta cần hiểu những chuẩn
mực của các nền văn hóa khác để khơng phán xét tiêu chuẩn của họ. Họ có
những lí lẽ riêng.
1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Mặc dù các loại hình xã hội khác nhau có những đặc trưng riêng nhưng
trong nhiều vấn đề, các xã hội đó lại gặp nhau ở nhiều điểm tương đồng, phổ


18

biến. Tính chất trung thành với văn hóa làm con người lựa chọn các giải pháp
phù hợp mà chúng ta gọi là nguyên tắc xã hội. Để thành công, con người ln
chuyển dịch các di sản văn hóa bằng các phương thức nghệ thuật khác nhau,
một trong những cách phổ biến đó là văn học. Sự tương tác giữa văn hóa và
văn học phản ánh cái nhìn của con người với lịch sử trong quá khứ và trong
hiện tại. Thực tế cho thấy rằng, sự tương tác đó nâng cao giá trị của cả văn hóa
và văn học. Một mặt, xã hội văn hóa ảnh hưởng tới văn học. Ngược lại, văn học
cũng là yếu tố linh hoạt tác động và tái cấu trúc lại văn hóa, đời sống.
Qua nhiều thế kỷ, con người cảm thấy cần thiết truyền đạt quan điểm
về đời sống xã hội và sự kiện xảy ra xung quanh họ. Sự cần thiết đưa ra quan
điểm của con người qua những hướng không thời gian và dẫn đến những sự
kiện trong nhiều kiểu đa dạng như văn học – một hình thức được chứng minh
là cơng cụ hữu hiệu phản ảnh những gì xảy ra xung quanh chúng ta. Hơn thế,
văn học được xem như sự phản ánh văn hóa và xã hội, mơ tả ý tưởng và giấc
mơ của con người trong một khung không thời gian nào đó với trí tưởng tượng
sáng tạo. Theo tiến sĩ Hanauer, đại học Indiana, văn học là tài ngun giá trị
của tri thức văn hóa bởi vì nó đại diện cho sự giải thích cá nhân về cuộc sống
và giá trị giống như cách một tác giả văn học trải nghiệm văn bản. Bởi vậy, ông
biện luận rằng nghiên cứu văn học khiến cho con người phát triển những ý
tưởng và quan điểm đạo đức mới. Nó giúp cho các cá nhân bộc lộ bản thân và
giáo dục các thành viên trong xã hội. Bên cạnh đó, ơng cũng cho rằng nghiên
cứu văn học có thể làm giàu có những trải nghiệm của con người.
“Những thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể
nhìn nhận văn hóa như một tổng thể, một hệ thống bao gồm những yếu tố như

ngôn ngữ, phong tục tập qn, luật pháp, tơn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật tạo
hình, nghệ thuật biểu diễn..., trong đó có văn học.” [93]. Theo như nhận định
trên của tác giả Đỗ Lai Thúy thì văn học khơng tách rời văn hóa mà nó là nơi


19

bảo lưu và gìn giữ các giá trị tốt đẹp. Lịch sử lồi người nói chung và Việt Nam
nói riêng đã minh chứng rõ nét cho điều này.
Như chúng ta đã biết, văn học phản ánh cuộc sống con người, lấy con
người là trung tâm. Con người lại là chủ thể của văn hóa. Trong q trình phản
ánh sinh hoạt của con người, tất yếu văn học sẽ chứa đựng các giá trị văn hóa.
Chẳng hạn như phong tục tập quán của các dân tộc đa phần đều được mô tả lại
trong văn học hay những thú chơi tao nhã của người xưa được Nguyễn Tuân
lưu lại trong những trang viết “Vang bóng một thời”. Đó thực sự là “mảnh đất”
tuyệt với để các giá trị văn hóa được lưu giữ. Tác giả Huỳnh Như Phương cũng
khẳng định:
“Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn
hố. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hố qua sự tiếp
nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn hố dân gian trong thơ Hồ
Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của
văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên,
nghệ thuật pha trà, thư pháp…), là những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu
thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng
phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên
đồng, hát chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…). Tác phẩm văn học còn
dẫn ta đi đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch
lịch sử trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông
dân được đào luyện qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn
Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.” [38]

Văn học là nghệ thuật dùng ngơn từ và hình tượng văn học để thể hiện
đời sống và xã hội con người. “Văn học ở thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc
tổng thể của văn hoá, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc
độ văn hố hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn
hoá bị xem xét một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng


20

loại biệt. Bây giờ đặc trưng loại biệt không phải là khơng cịn, nhưng trong
nhiều cách tiếp cận thì cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hố đang cho thấy
là một hướng tiếp cận có hiệu quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một
thành tố trong cấu trúc của tổng thể văn hố nó truyền tải, lưu giữ được những
giá trị văn hoá.” [88; 3]. Trong lịch sử văn học của bất cứ quốc gia nào cũng
tồn tại mối quan hệ giữa văn hoá và văn học. Đó là một mối quan hệ hai chiều
khăng khít không thể tách rời. ở đây, chúng tôi muốn khẳng định thêm một lần
nữa mối quan hệ đó để có thể thấy hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn
văn hố là vơ cùng cần thiết.
Trước kia, văn hố và văn học được đặt ở vị trí ngang bằng, “Được coi
là quan hệ tương hỗ”, tức là nghiên cứu văn hố thì dùng văn học làm tư liệu,
cịn nghiên cứu văn học lại dùng văn hoá để soi chiếu. Gần đây, sau khi Unesco
phát động những thập kỷ phát triển văn hoá cùng sự thay đổi nhận thức văn hố
và các cơng trình của M.Bakhtin được giới thiệu, các nhà nghiên cứu đã thống
nhất văn hoá là nhân tố chi phối văn học. Văn hoá trở thành một hướng nghiên
cứu hiệu quả. Đã có một số tác giả đi theo hướng nghiên cứu này: Trần Đình
Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thuý, Trần Nho Thìn… Tác giả Đỗ Lai Thuý
khẳng định: “…Văn hoá là một tổng thể, một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố,
trong đó có văn học. Như vậy, văn hoá chi phối văn học với tư cách là hệ thống
chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là quan hệ bất khả kháng.” [92].
“Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và năng động.

Bởi thế, nó ln có xu hướng đi trượt ra ngồi hệ thống. Trong khi đó thì hệ
thống, nhất là hệ thống văn hố, ln có xu hướng duy trì sự ổn định. Như vậy,
sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với văn hố là khơng thể tránh khỏi.
Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng tạo những giá trị mới cho bản
thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ
thống” [88; 3].


×