BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Vâ thÞ diệu hồng
Cấu tạo, ngữ nghĩa và việc sử dụng
lớp thành ngữ hán - việt trong ngôn ngữ viết
tiếng việt
Chuyờn ngnh: Ngôn ngữ học
Mó s: 60.22.01
LUN VN THC S ngữ văn
Ngi hng dn khoa hc: TS. Trần Văn Minh
Vinh, 2010
1
Lời cảm ơn
Trớc hết, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Văn Minhngời đà trực tiếp hớng dẫn tận tình chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Chúng tôi xin đợc bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy cô trong tổ ngôn ngữ
của trờng Đại học Vinh đà có nhiều đóng góp và hớng dẫn khoa học giúp chúng tôi
hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp kết thúc khóa học, chúng tôi xin chân thành cảm ơn khoa Ngữ văn,
khoa Sau đại học, Trờng Đại học Vinh, tập thể cao học XVI Lí luận ngôn ngữ đà tạo
điều kiện giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập .
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đà thờng xuyên an ủi, động viên chúng tôi trong suốt thời gian học tập và làm luận
văn.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan luận văn có thể còn những
điểm cần bàn. Chúng tôi rất mong nhận đợc sự góp ý của thầy cô và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 12 năm 2010
Ngêi thùc hiƯn: Vâ ThÞ DiƯu Hång
MơC LơC
2
Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
1
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng nghiên cứu
6
4. Phơng pháp nghiên cứu
7
5. Đóng góp của đề tài
7
6. Bố cục của luận văn
8
Chơng 1: giới thuyết liên quan đến đề tài
1.1. Xung quanh khái niệm thành ngữ
1.1.1. Về định nghĩa thành ngữ
9
1.1.2. Về việc phân loại thành ngữ
11
1.1.3. Về nghĩa của thành ngữ
16
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
18
1.1.5. Giá trị sử dụng của thành ngữ trong hoạt động ngôn ngữ
24
1.2.
Lớp thành ngữ Hán -Việt
1.2.1. Tiếp xúc ngôn ngữ Hán - Việt và việc mợn từ ngữ tiếng Hán
vào tiếng Việt
26
1.2.2. Lớp thành ngữ Hán - Việt
35
1.3. Tiểu kết chơng 1
36
Chơng 2: cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ Hán Việt trong tiếng việt
2.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ Hán - Việt
2.1.1. Khái quát về cấu tạo của thành ngữ Hán - Việt
38
2.1.2. Các dạng cấu trúc của thành ngữ Hán - Việt
41
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ Hán Việt
2.2.1. Khái quát về nghĩa của thành ngữ Hán Việt
50
2.2.2. Các kiểu Việt hóa về nghĩa của thành ngữ Hán Việt
52
2.3. Tiểu kết chơng 2
64
Chơng 3: Việc sử dụng thành ngữ Hán - Việt
trong ngôn ngữ viết Tiếng Việt
3.1.
Việc dùng thành ngữ Hán - Việt trong thơ Nôm trung đại
3
3.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ thơ Nôm trung đại
65
3.1.2.Thnh ngữ Hán - Việt trong thơ Nôm trung đại
67
3.2.
Thành ngữ Hán - Việt trong văn chính luận tiếng Việt
3.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ văn chính luận tiếng Việt
79
3.2.2. Hồ Chí Minh dùng thành ngữ Hán - Việt trong văn chính luận
80
3.3. Tiểu kết chơng 3
93
Kết luận
Tài liệu tham khảo
95
97
Phụ lục
101
Mở đầu
4
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tiếng Việt và tiếng Hán cùng thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, có
lịch sử phát triển lâu đời. Sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ này bắt đầu diễn ra từ
vài thế kỷ trớc Công nguyên và đà kéo dài hàng ngàn năm. Qua quá trình tiếp
xúc đó, bên cạnh việc mợn rất nhiều từ ngữ của tiếng Hán để góp phần làm
phong phú, đa dạng kho từ vựng tiếng Việt, ngời Việt còn mợn từ tiếng Hán
một số lợng khá lớn thành ngữ. Những thành ngữ gốc Hán này khi đà đợc mợn
vào tiếng Việt đợc gọi là lớp thành ngữ Hán Việt và trở thành một bộ phận
đáng kể trong kho thành ngữ tiếng Việt. Đến nay, bộ phận thành ngữ thuần Việt
đà đợc su tầm, giới thiệu và đợc nghiên cứu tơng đối toàn diện (cấu trúc, ngữ
nghĩa, giá trị sử dụng, ...); trong khi lớp thành ngữ Hán - Việt cha đợc Việt ngữ
học quan tâm đầy đủ. Vì thế, việc khảo sát lớp thành ngữ Hán - Việt là cần
thiết, nhằm xác định sự tơng đồng và khác biệt giữa lớp thành ngữ này và bộ
phận thành ngữ thuần Việt, mặt khác thấy đợc khả năng và giá trị của chúng
trong hoạt động ngôn ngữ của ngời Việt.
1.2. Là một đơn vị trong hệ thống từ vựng, các thành ngữ thuần Việt và
Hán Việt đều có tính cố định về cấu trúc và ngữ nghĩa. Tuy vậy, khi đợc ngời Việt mợn vào để sử dụng, các thành ngữ Hán Việt đà chịu những tác
động nhất định của quy luật tiếng Việt. Có những biến đổi nào đà xảy ra về cấu
trúc và ngữ nghĩa ở lớp thành ngữ này để chúng tồn tại và đợc sử dụng hiệu quả
trong tiếng Việt, nhất là trong ngôn ngữ viết? Đề tài luận văn Cấu tạo, ngữ
nghĩa và việc sử dụng lớp thành ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ viết tiếng
Việt nhằm góp phần trả lời câu hỏi đó.
2. Lịch sử vấn đề
Cũng nh tục ngữ, thành ngữ thuộc loại đơn vị ngôn ngữ làm sẵn (với
nghĩa: chúng đà đợc tiền nhân tạo ra từ bao giờ đó; các thế hệ sau đà có sẵn để
dùng). Cũng nh từ, thành ngữ là một loại đơn vị từ vựng. Nhng so với từ, thành
ngữ có những khác biệt cả về hình thức lẫn nội dung. Đến nay, thành ngữ tiếng
Việt đà đợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu từ những góc độ khác
5
nhau. Dới đây, chúng tôi điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu thành ngữ trong
tiếng Việt theo ba hớng.
2.1. Việc su tầm, biên soạn và nhận diện đơn vị thành ngữ tiếng Việt
a) Việc nhận diện, su tầm, biên soạn về thành ngữ trong nghiên cứu Văn
học dân gian.
Có lẽ công trình đầu tiên nghiên cứu thành ngữ ở nớc ta là cuốn Về tục
ngữ và ca dao của Phạm Quỳnh (1921). Trong đó, thành ngữ đợc Phạm Quỳnh
nhắc ®Õn trong sù ®èi chiÕu, so s¸nh víi ca dao, tục ngữ. Trong Việt Nam văn
học sử yếu (Dơng Quảng Hàm - 1951), ở phần đầu (Tìm hiểu về văn chơng
bình dân), tác giả đà xác định sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ; từ đó
chỉ ra 2 đặc trng của thành ngữ tiếng Việt: a) Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ tồn
tại dới dạng sẵn có (mang tính tái hiện); b) Chức năng của thành ngữ là định
danh (có cùng chức năng với từ, nhng khác với từ cách thức định danh của
thành ngữ bao giờ cũng mang màu sắc, hình ảnh có tính ẩn dụ). Ngoài ra còn
phải kể đến công trình Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan
(1971).
Đây là những công trình nghiên cứu lớn về Văn học dân gian, trong đó
các tác giả đều chỉ ra những nét cơ bản nhất của thành ngữ, giúp ngời đọc có thể
nhận diện đơn vị này và tạo điều kiện để các nhà nghiên cứu khác tiếp tục tìm
hiểu đầy đủ các đặc trng khác của thành ngữ tiếng Việt.
b) Từ góc độ ngôn ngữ học, nhiều tác giả đà góp phần minh định khái
niệm về đơn vị thành ngữ một cách cụ thể, rõ ràng hơn, nhất là qua việc phân
biệt thành ngữ và tục ngữ (hai đơn vị làm sẵn có những điểm gần gũi nhau).
Trong bài báo Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ (Tạp chí Ngôn
ngữ - 1972), Nguyễn Văn Mệnh nhấn mạnh: cần phải tìm cho ra ranh giới rõ
ràng giữa thành ngữ và tục ngữ. Theo tác giả, cần dựa vào hai tiêu chí nội dung
ngữ nghĩa và hình thái ngữ pháp để phân biệt thành ngữ và tục ngữ . Nội dung
của thành ngữ là tính hình ảnh; còn nội dung của tục ngữ là quy tắc, quy luật.
6
Về hình thái ngữ pháp, nói chung thành ngữ là cụm từ chứ không phải là câu;
còn tục ngữ thì ngợc lại, bất kỳ tục ngữ nào cũng là câu.
Trong bài viết: Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ (1973),
Cù Đình Tú cũng cố gắng phân định thành ngữ và tục ngữ . Theo ông, thành
ngữ là đơn vị ngôn ngữ có sẵn, thực hiện chức năng định danh, đợc sử dụng để
gọi tên hiện tợng, tính chất, hành động. Về phơng diện này, thành ngữ tơng đơng với từ; còn tục ngữ cũng nh những văn bản khác của sáng tác dân gian (nh
ca dao, truyện cổ tích) luôn luôn có những thông báo.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì khẳng định: Tục ngữ là một cấu trúc cố
định trong đó nêu lên một cách đầy ®đ kinh nghiƯm sèng, kinh nghiƯm x· héi
cđa nh©n d©n lao động; quán ngữ là một cấu trúc cố định đợc sử dụng nhiều lần
với những phong cách, chức năng nhất định; còn thành ngữ là đơn vị trung gian
giữa một bên là quán ngữ, một bên là tục ngữ. Nguyễn Thiện Giáp đà dựa vào
sự đối lập về hình thái và nội dung để phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ.
Mốc quan trọng trong việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt là việc
Nguyễn Lực và Lơng Văn Đang xuất bản cuốn Thành ngữ tiếng Việt (1976).
Tuy các soạn giả cha su tập hết các thành ngữ tiếng Việt nhng đây là một nguồn
ngữ liệu rất bổ ích đối với việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt một cách hệ
thống và chuyên sâu hơn. Trong lời nói đầu, các soạn giả nêu quan điểm về
thành ngữ: giới hạn bên dới của thành ngữ là cụm từ gồm hai từ, còn giới hạn
bên trên là câu; thành ngữ là đơn vị từ vựng trung gian nằm giữa hai giới hạn
đó.
Nh vậy, khi phân định thành ngữ và tục ngữ, các tác giả trên đều dựa vào
những đặc điểm sau đây của các đơn vị ngôn ngữ này: cấu trúc hình thái, nội
dung ngữ nghĩa và chức năng của chúng trong hệ thống ngôn ngữ.
2.2. Việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt nói chung trên các mặt: cấu
tạo, ng333ữ nghĩa và sử dụng.
Trớc hết, có thể nhận thấy điều này trong nhiều giáo trình hoặc chuyên
luận về từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (chẳng hạn: Vấn đề cấu tạo từ cña tiÕng
7
Việt hiện đại (Hồ Lê - 1976); Từ và vốn từ tiếng Việt (Nguyễn Văn Tu - 1985);
Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng (Đỗ Hữu Châu - 1987), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng
Việt (Đỗ Hữu Châu, 1999); Từ vựng học tiếng Việt (Nguyễn Thiện Giáp 1998), v.v..). Trong những sách trên, các tác giả đều bàn về cụm từ cố định nói
chung và minh định khái niệm thành ngữ nói riêng.
Nguyễn Văn Tu (Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại - 1985) dùng cả chơng 7 để khảo sát những vấn đề về cụm từ cố định (thành ngữ). Sau khi nêu khái
niệm về thành ngữ, tác giả đà dựa vào kết cấu ngữ pháp để chia thành ngữ thành
hai loại chính: thành ngữ có hình thức nh câu đơn giản và thành ngữ có hình
thức nh câu phức hợp. Tác giả tiếp tục chia nhỏ thành ngữ ra các các tiểu loại.
Khác với những ngời khác xem thành ngữ chỉ là những cụm từ cố định, Nguyễn
Văn Tu xem thành ngữ là đơn vị thuộc bậc câu, nhng phần lớn là những câu rút
gọn.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp (Từ vựng học tiếng Việt- 1998), dành khá
nhiều trang ở Chơng 1 để nêu khái niệm và đi sâu phân loại thành ngữ tiếng
Việt. Bằng việc phân biệt thành ngữ hoà kết và thành ngữ hợp kết, đồng thời
phân biệt ngữ định danh và cụm từ tự do, tác giả đà chỉ ra đợc nhiều đặc trng về
cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt.
Có thể kể thêm một số tài liệu khác: Về tính biểu trng của thành ngữ
trong tiếng Việt (Bùi Khắc Việt - 1978), Tính biểu trng của thành ngữ tiếng
Việt (Phan Xuân Thành - 1999), Cuộc sống của thành ngữ, tục ngữ trong kho
tàng ca dao ngời Việt (Nguyễn Nhà Bản - 2003), v.v..
Trớc khi xuất bản chuyên khảo Thành ngữ học tiếng Việt (2004), tác giả
Hoàng Văn Hành cũng đà có các bài viết nh: Suy nghĩ về cách dùng thành ngữ
qua văn thơ Hồ Chủ tịch (1973), Các kiểu thành ngữ ẩn dụ hoá đối xứng
(2001); Thành ngữ ẩn dụ hoá phi đối xứng trong tiếng Việt (2003). Cho đến
nay, Thành ngữ học tiếng Việt là công trình chuyên sâu nhất về thành ngữ tiếng
Việt. ở cuốn sách này, tác giả đà khái quát các phơng diện cơ bản của thành
ngữ tiếng Việt về đặc trng cấu trúc, ngữ nghĩa, phân biệt thành ngữ với tục ngữ,
8
quan hệ giữa thành ngữ với văn hoá và việc sử dụng thành ngữ trong giao tiếp.
Cuốn sách đà tạo một cơ sở lý thuyết đáng tin cậy cho những ai muốn tiếp tục
khám phá kho tàng thành ngữ của dân tộc Việt và của từng địa phơng.
Nhìn chung, các tác giả đều thống nhất rằng thành ngữ là đơn vị ngôn
ngữ tơng đơng với từ nhng có những đặc điểm riêng về cấu tạo, ngữ nghĩa và
khả năng sử dụng.
Gần đây, thành ngữ đà là đề tài nghiên cứu của khá nhiều khóa luận hoặc
luận văn tốt nghiệp ngành Ngữ văn. Chẳng hạn, ở Trờng Đại học Vinh đà có
những đề tài nh: Khảo sát cấu trúc thành ngữ tiếng Việt (Lê Thị Hải Vân,
Khóa luận - 2006), Thành ngữ đồng nghĩa và thành ngữ trái nghĩa trong tiếng
Việt (Trần Anh T, Luận văn - 2004), Hình ảnh biểu trng trong thành ngữ so
sánh tiếng Việt (Bùi Thị Thi Thơ, Luận văn - 2006), Thành ngữ trong Truyện
Kiều (Trần Thị Loan, Luận văn - 2005), Cách sử dụng thành ngữ trong các bài
nói, bài viết của Hồ Chủ tịch (Nguyễn Thị Thúy Hòa, Luận văn -2005), ... Các
đề tài nh trên ngoài việc xác định khái niệm, đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của
thành ngữ đều tập trung chứng minh vai trò sử dụng của thành ngữ trong tác
phẩm văn học Việt Nam.
2.3. Những năm gần đây, một số ngời đà quan tâm đến lớp thành ngữ Hán Việt. Tuy nhiên phần lớn đó là những công trình su tập và giải nghĩa các thành
ngữ gốc Hán. Chẳng hạn: Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán (Nh ý,
Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành - 1994), Từ điển thành ngữ, tục ngữ
Hán Việt (Nguyễn Văn Hằng, Trần Thanh Liêm - 2005). Các nghiên cứu
chuyên sâu về lớp thành ngữ Hán Việt còn ít; đó thờng là những bài viết nhỏ
lẻ, hoặc là một chơng, một mục trong giáo trình về tiếng Việt. Chẳng hạn,
Bình diện ngôn ngữ văn hoá xà hội của các thành ngữ gốc Hán (Nguyễn Văn
Khang, Văn hoá dân gian - số 1/1994). Hoặc trong Từ điển thành ngữ tiếng
Việt (Nguyễn Lực, Lơng Văn Đang - 1993) có những đề cập nhỏ đến bộ phận
thành ngữ Hán - Việt.
9
Có thể nói, đến nay cha có công trình nào nghiên cứu lớp thành ngữ Hán
Việt một cách hệ thống và chi tiết. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Cấu tạo,
ngữ nghĩa và việc sử dụng lớp thành ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ viết
tiếng Việt với dụng ý qua đó có đợc cái nhìn đầy đủ và kỹ càng hơn về lớp
thành ngữ Hán - Việt trong tiếng Việt, nhất là những biến đổi của chúng dới tác
động của tiếng Việt khi chúng đợc mợn vào ngôn ngữ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tợng nghiên cứu
3.1 Mục đích
Qua khảo sát cấu trúc - ngữ nghĩa và việc sử dụng lớp thành ngữ Hán
Việt trong ngôn ngữ viết tiếng Việt, đề tài góp phần vào tiến trình nghiên cứu về
kho tàng thành ngữ phong phú và đa dạng của dân tộc Việt.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt đến mục đích nói trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Xác định khái niệm thành ngữ Hán - Việt; su tập, thống kê và phân loại
lớp thành ngữ Hán - Việt về mặt cấu tạo; xác định điểm tơng đồng và khác biệt
về cấu tạo giữa lớp thành ngữ Hán Việt và bộ phận thành ngữ thuần Việt.
- Khảo sát - so sánh cấu tạo và ngữ nghĩa của lớp thành ngữ Hán - Việt
với các thành ngữ Hán nguyên ngữ để xác định điểm bất biến và khả biến của
thành ngữ Hán - Việt khi đợc mợn vào hệ thống từ vựng tiếng Việt.
- Khảo sát - phân tích việc sử dụng lớp thành ngữ Hán - Việt trong một
số phong cách chức năng của ngôn ngữ viết tiếng Việt (văn chính luận Hồ Chí
Minh, thơ Nôm trung đại) để minh chứng cho giá trị sử dụng của lớp thành ngữ
này.
3.3. Đối tợng nghiên cứu
Các thành ngữ Hán Việt có trong các tài liệu: 1- Thành ngữ tiếng Việt
(Nguyễn Lực, Lơng Văn Đang - 1993); 2- Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt
10
Nam ( Vị Dung, Vị Th Anh, Vị Quang Hµo - 2008); 3- Từ điển giải thích
thành ngữ gốc Hán (Nh ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành 1994).
Ngoài ra, chúng tôi còn dùng Từ điển thành ngữ, tục ngữ Hán Việt (Nguyễn
Văn Hằng, Trần Thành Liêm - 2005) để đối chiếu giữa thành ngữ Hán - Việt và
thành ngữ Hán nguyên ngữ để tìm hiểu những biến đổi của chúng khi đi vào
tiếng Việt.
Để nghiên cứu việc sử dụng thành ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ viết
tiếng Việt, chúng tôi chọn Tuyển tập văn chính luận (Hồ Chí Minh), Quốc âm
thi tập (Nguyễn TrÃi) và Truyện Kiều (Nguyễn Du) làm tài liệu khảo sát chính.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ nói trên của luận văn, chúng tôi
dùng các phơng pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phơng pháp thống kê, phân loại đợc dùng khi khảo sát su tập, thống
kê, phân loại lớp thành ngữ Hán - Việt.
4.2 Phơng pháp miêu tả đợc dùng khi nghiên cứu miêu tả về cấu tạo, ngữ
nghĩa của lớp thành ngữ Hán Việt.
4.3. Phơng pháp so sánh đợc dùng khi tìm hiểu những biến đổi của thành
ngữ Hán - Việt khi đi vào hệ thống tiếng Việt.
4.4. Phơng pháp qui nạp đợc dùng khi nêu đánh giá và khi viết tiểu kết
các chơng, viết phần kết luận của luận văn.
5. Đóng góp của luận văn
Là đề tài đầu tiên nghiên cứu về cấu tạo, ngữ nghĩa và việc sử dụng của
lớp thành ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ viết tiếng Việt, luận văn góp phần
vào tiến trình nghiên cứu về kho tàng thành ngữ tiếng Việt nói chung (với sự
phong phú về số lợng, đa dạng về kiểu loại cấu tạo, ngữ nghĩa và cả về nguồn
gốc).
6. Bố cục của luận văn
11
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục (danh sách thành ngữ Hán - Việt),
phần Nội dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Giới thuyết liên quan đến đề tài
Chơng 2: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ Hán - Việt
trong tiếng Việt
Chơng 3: Việc sử dụng thành ngữ Hán - Việt trong ngôn ngữ viết tiếng
Việt
Chơng 1
GIớI THUYếT LIÊN QUAN ĐếN Đề TàI
1.1
Xung quanh khái niệm thành ngữ
1.1.1. Về định nghĩa thành ngữ
12
Thành ngữ là một đơn vị khá đặc biệt và cũng hết sức phức tạp của ngôn
ngữ. Việc tìm ra những tiêu chí cụ thể, xác đáng để xác định khái niệm về thành
ngữ là điều không đơn giản vì vậy cho đến nay vẫn cha có khái niệm chuẩn về
thành ngữ, mặc dầu vấn đề này rất đợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu.
Tác giả Dơng Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử yếu - 1951), ngời đầu
tiên đề cập đến thành ngữ tiếng Việt, quan niệm: Thành ngữ là những lời nói
có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc một trạng thái gì cho có màu
mè.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1975) trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt đÃ
định nghĩa về thành ngữ rất ngắn gọn: Thành ngữ là những cụm từ cố định, vừa
có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm. [ 10 ; tr 12]
Tiếp đó tác giả Nguyễn Văn Tu, trong Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại
(1976) đà đa ra ý kiến: Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong ®ã ®·
mÊt ®i tÝnh ®éc lËp ®Õn mét tr×nh ®é cao về nghĩa kết hợp làm một khối vững
chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa từng yếu tố tạo ra. Có
thể có hình tợng cũng có thể không có. Nghĩa của chúng cũng khác nghĩa của
những từ nhng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học. [44; tr. 189]
Trong chuyên khảo Vấn đề cấu tạo của tiếng Việt hiện đại, tác giả Hồ
Lê quan niệm : Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ hợp lại) có tính
vững chắc về cấu tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa để miêu tả một hình ảnh, một
hình tợng, một tính cách hay một trạng thái nào đó. [21; tr 97]
Năm 1986, qua bài Vài suy nghĩ góp phần xác định thành ngữ tiếng
Việt, Nguyễn Văn Mệnh có lời khẳng định khi so sánh thành ngữ với tục ngữ:
Về hình thức ngữ pháp nói chung mỗi thành ngữ là một cụm từ, cha phải là
một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ là một câu. [26 ; tr 12]
Giáo s Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt lại xác
định thành ngữ ở đặc tính tơng đơng với từ của chúng. Ông cho rằng: Cái
quyết định để xác định ngữ cố định là tính tơng đơng với từ của chóng vỊ chøc
13
năng cấu tạo câu. Chúng ta nói ngữ cố định tơng đơng với từ không phải chỉ vì
chúng có tính sẵn có, bắt buộc nh từ mà còn vì ở trong c©u chóng cã thĨ thay
thÕ cho mét tõ, ë vị trị các từ hoặc có thể kết hợp với từ để tạo câu. [6; tr 73]
Các tác giả Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học đa ra định nghĩa:
Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa tạo
thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác với tổng số ý nghĩa của
các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động nh một từ
riêng biệt ở trong câu. [50; tr. 271]
Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử
đồng chủ biên - 1994) định nghĩa: Thành ngữ tiếng Việt là đoạn câu, cụm từ
có
sẵn,
tơng
đối
cố
định,
bền
vững,
không
nhằm
diễn
đạt
một ý, một nhận xét trọn vẹn nh tục ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dới
một hình thức sinh động, hấp dẫn. Dù ngắn hay dài, xét về nội dung ý nghĩa
cũng nh về chức năng ngữ pháp, thành ngữ cũng chỉ tơng đơng nh từ, nhng là từ
đà đợc tô điểm và nhấn mạnh nghĩa bằng sự diễn đạt sinh động có tính nghệ
thuật. [11 ; tr. 249]
Tác giả Hoàng Văn Hành, ngời đợc xem là giáo s đầu ngành về thành
ngữ học tiếng Việt, đà định nghĩa về thành ngữ: Thành ngữ là một tổ hợp từ cố
định bền vững về hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa. Đợc sử
dụng rộng rÃi trong giao tiếp hàng ngày đặc biệt là trong khẩu ngữ. [13 ; tr 27].
Tóm lại, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau về thành ngữ nhng cũng có
thể thấy rằng về cơ bản tất cả các khái niệm trên đều thống nhất với nhau ở nội
hàm của nó. Sự khác nhau chỉ là ở những khía cạnh thuộc ngoại diên của khái
niệm. Dựa vào định nghĩa của các nhà nghiên cứu đi trớc và qua quá trình khảo
nghiệm, tìm hiểu, chúng tôi đi đến một cách hiểu khái quát về thành ngữ: đó là
những cụm từ cố định, có kết cấu vững chắc, có chức năng định danh và mang ý
nghĩa biểu trng, đợc sử dụng tơng đơng nh từ.
1.1.2. Về việc phân loại thành ngữ
14
Nh đà nói, thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ hết sức phức tạp. Việc xác
định đúng cái căn cứ (hoặc tiêu chuẩn) để phân loại thành ngữ là điều không dễ.
Vì thế, đến nay đà có nhiều cách phân loại khác nhau. Dới đây chỉ là một số
trong những cách phân loại đà có:
a) Phân loại thành ngữ theo số lợng thành tố trong cấu tạo. Các tác giả Lơng Văn Đang và Nguyễn Lực trong cuốn Thành ngữ tiếng Việt chia thành ngữ
thành 3 kiểu:
1/ Kiểu thành ngữ có kết cấu ba tiếng. Ví dụ: ác nh hùm; bé hạt tiêu;
2/ Kiểu thành ngữ có kết cấu bốn tiếng. Ví dụ: bán vợ đợ con; ác giả ác
báo, ăn to nói lớn; Đây là kiểu phổ biến nhất trong thành ngữ tiếng Việt.
Kiểu 2/ tiếp tục đợc chia ra 3 kiểu nhỏ:
2.1/ Kiểu thành ngữ ghép lặp (nh: ăn bớt ăn xén;, chết mê chết mệt; chúi
đầu chúi mũi; ... )
2.2/ Kiểu thành ngữ là tổ hợp 4 từ đơn (nh: nhắm mắt xuôi tay; nhà
tranh vách đất; ăn bờ ở bụi).
3/ Kiểu thành ngữ có kết cấu 5 hay 6 tiếng cũng tơng đơng nh kiểu kết
cấu trên (nh: trẻ không tha, già không thơng; treo đầu dê bán thịt chó..).
Một số thành ngữ có kết cấu từ bảy, tám, mời tiếng. Chúng có thể do 2
hay 3 ngữ đoạn, hoặc do 2 hay 3 mệnh đề liên hợp tạo thành một tổ hợp kiểu
ngữ cú dài cố định (nh: vênh váo nh bố vợ phải đấm; vén tay áo xô đốt nhà
táng giấy,).
Rõ ràng, dựa vào số lợng thành tố là chỉ dựa vào hình thức, nên cách
phân loại này không phản ánh đợc tính chất quan hệ và đặc điểm bên trong của
thành ngữ tiếng Việt .
b) Phân loại thành ngữ theo kết cấu ngữ pháp
Dựa vào kết cấu ngữ pháp, tác giả Nguyễn Văn Tu chia thành ngữ ra làm
các loại sau:
1/ Thành ngữ có cấu tạo là câu đơn giản. Trong loại này, tác giả phân biệt
2 kiểu:
15
1.1/ Kiểu câu đơn giản có đủ 2 thành phần chủ yếu (có thể thêm thành
phần thứ yếu) theo mô hình: [Chủ ngữ - Vị ngữ - Trạng ngữ (hoặc Bổ ngữ)]. Ví
dụ: nớc đổ lá khoai; chuột sa chĩnh gạo;
1.2/ Kiểu câu đơn giản chỉ có 2 thành phần chính theo mô hình [Chủ
ngữ - Vị ngữ]. Ví dụ: bốn biển là nhà; tấc đất tấc vàng;
2/ Thành ngữ có cấu tạo là câu phức hợp. Những thành ngữ này có mô
hình [Chủ ngữ - Vị ngữ + Chủ ngữ - Vị ngữ] và không có liên từ. Tác giả chia
loại này thành 2 kiểu:
2.1/ Kiểu có mệnh đề phụ (nh: bút sa gà chết; bụng làm dạ chịu; )
2.2/ Kiểu gồm 2 mệnh đề đẳng lập (nh: tai bay vạ gió; vờn không nhà
trống )
3/ Ngoài ra, còn có loại thành ngữ với cấu tạo là tổ hợp các cụm từ chính
phụ. Ví dụ: bán vợ đợ con; biệt tăm biệt tích; ăn tối lo mai; mang nặng đẻ
đau; bạ ăn bạ nói; giòn cời giòn khóc; ba đầu sáu tay; ba chân bốn cẳng;
Khi dựa vào cấu tạo ngữ pháp, tuy tác giả đà phân biệt khá cụ thể các
loại, kiểu, nhng cách phân loại này khó giúp khảo sát nội dung thành ngữ tiếng
Việt triệt để và chính xác.
c) Phân loại thành ngữ theo số lợng cụm từ.
Dựa vào tiêu chí này, ngời ta chia thành ngữ tiếng Việt thành 2 loại:
1/ Loại thành ngữ có cấu tạo là một cụm từ. Loại này gồm 2 kiểu:
1.1/ Kiểu thành ngữ có cấu tạo là mét cơm tõ chđ – vÞ (C - V). VÝ dụ:
gậy ông đập lng ông; trứng khôn hơn vịt; ) .
1.2/ Kiểu thành ngữ có cấu tạo là một cụm từ chính phụ. Loại này gồm 3
kiểu nhỏ:
- Thành ngữ có cấu tạo là một cụm động từ ; ví dụ: ăn ở hai lòng; chỉ
tay năm ngón;
- Thành ngữ có cấu tạo là một cụm danh từ; ví dụ: s tử Hà Đông; mắt cú
vọ;
16
- Thành ngữ có cấu tạo là một cụm tính tõ; vÝ dơ: tèi nh bng; nhanh nh
c¾t; chËm nh rùa;
2/ Loại thành ngữ có cấu tạo là liên hợp 2 cụm từ. Loại này gồm các
kiểu:
2.1/ Kiểu thành ngữ có cấu tạo liên hợp 2 cụm từ chủ – vÞ [C - V + C V]. VÝ dơ: máu chảy đầu rơi; miệng nói tay làm;
2.2/ Kiểu thành ngữ có cấu tạo là liên hợp 2 cụm tõ chÝnh phô [C - P +
C - P]. VÝ dụ:
- Liên hợp 2 cụm danh từ: đầu voi đuôi chuột; nhà tranh vách đất; màn
trời chiếu đất;
- Liên hợp 2 cụm động từ: vá trời lấp biển, ăn sóng nói gió; đội trời đạp
đất;
- Liên hợp 2 cụm tính từ: bầm gan tím mật; mát lòng mát dạ;
d) Phân loại thành ngữ dựa vào phơng thức cấu tạo nghĩa
Trong chuyên luận Thành ngữ học tiếng Việt, dựa vào phơng thức tạo
nghĩa, GS. Hoàng Văn Hành phân biệt hai loại: thành ngữ so sánh và thành ngữ
ẩn dụ; trong đó loại thứ hai gồm hai kiểu: thành ngữ ẩn dụ đối xứng và thành
ngữ ẩn dụ phi đối xứng. Trong t liệu 3.225 thành ngữ tiếng Việt (trong chuyên
luận trên), chúng tôi thống kê đợc 494 thành ngữ so sánh (15,31 %), 1.891
thành ngữ ẩn dụ đối xứng (58,64 %) và 840 thành ngữ ẩn dụ phi đối xứng
(26,05 %).
1/ Thành ngữ so sánh
Thành ngữ so sánh là một tổ hợp từ bền vững bắt nguồn từ phép so sánh,
mang nét nghĩa biểu trng.
Chúng ta cần phân biệt thành ngữ so sánh với tổ hợp so sánh tự do. Phép
so sánh là [A t nh B] trong thực tế cã 4 d¹ng: 1- [A t nh B], vÝ dơ: Đối với bộ
đội, chính trị viên phải dịu hiền nh mét ngêi cha”(Hå ChÝ Minh); 2- [A nh B],
vÝ dô: Thế địch nh lửa, thế ta nh nớc. Nớc nhất định thắng lửa (Hồ Chí
Minh); 3- [t nh B], ví dụ: ấp úng nh thúng đứt vành / Trả lời không đợc phải
17
đành ngậm câm (Ca dao); 4- [nh B], ví dụ: Nh cá nằm trong chậu, quân địch
bị chết và bị thơng. (Hồ Chí Minh).
Còn cấu trúc của thành ngữ so sánh chỉ tơng ứng với dạng 3- và dạng 4của phép so sánh: [t nh B]: bạc nh vôi; cứng nh đá; gầy nh hạc; lừ đừ nh từ
vào đền; và [nh B]: nh gà mắc tóc; nh diều gỈp giã; nh mÌo thÊy mì; …
TiÕng ViƯt cã nhiỊu từ biểu thị quan hệ so sánh: nh, tày, nh thể, tựa, tựa
nh, nhng trong thành ngữ so sánh chủ u dïng tõ nh. VÝ dơ: dai nh ®Øa; bÐo
nh con cun cút; nh môi với răng; coi ngời nh rác;
Trong thành ngữ so sánh, vế B (chỉ cái so sánh) có vai trò quan trọng.
Qua nó, chúng ta nhận thấy cách nhìn, cách nghĩ mang dấu ấn của cảnh sắc
thiên nhiên, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của mỗi dân tộc, mỗi địa phơng đợc phản ánh vào trong thành ngữ. Vì vậy, tuy nội dung so sánh nh nhau,
nhng các ngôn ngữ khác nhau dùng hình ảnh so sánh (vế B) khác nhau. Ví dụ:
đắt nh tôm tơi (Việt) - đắt nh bánh nóng (Anh); rẻ nh bèo (Việt) rẻ nh rác
(Anh); đẹp nh tiên (Việt) - đẹp nh giọt sơng (Bun ga ri); nh ngàn cân treo sợi
tóc (Việt) nh hòn đá treo sợi tơ cuống sen (Nhật Bản); v.v..
Vế [t] (chỉ cái đợc so sánh) tuy thuộc cấu tạo thành ngữ so sánh, nhng
không phải khi nào cũng có mặt. ở các thành ngữ nh: đỏ nh son, cời nh nắc nẻ
thì [t] bắt buộc có mặt; nhng lại vắng mặt ở các thành ngữ nh: nh chim sổ
lồng; nh níc vì bê; nh voi ng thc giã; …
2/ Thµnh ngữ ẩn dụ
2.1/ Thành ngữ ẩn dụ đối xứng
Điểm nổi bật về cấu trúc của loại thành ngữ này là tính chất đối xứng
giữa các bộ phận và các yếu tố tạo nên thành ngữ. Chẳng hạn, trong thành ngữ
mẹ tròn con vuông, mẹ tròn đối xứng với con vuông, hay trong thành ngữ đầu
tắt mặt tối, đầu tắt đối xứng với mặt tối.
Quan hệ đối xứng giữa hai vế của thành ngữ đối xứng đợc thiết lập nhờ
vào những thuộc tính nhất định về ngữ nghĩa, ngữ pháp giữa các yếu tố đợc đa
18
vào trong hai vế đó. Phép đối xứng ở đây đợc xây dựng trên hai bình diện: đối ý
và đối lời. Đối ý là đối ở cấp độ vế, còn ®èi lêi lµ ®èi ë cÊp ®é yÕu tè.
Trong vÝ dụ đầu voi đuôi chuột ta thấy: đầu voi đối xứng với đuôi chuột
đây là đối xứng ở cấp độ vế, một bên là điều đề ra thì rất to tát rất hay ho nhng
kết cục khi kết thúc, điểm lại thì mới chỉ làm đợc một phần rất nhỏ, méo mó,
không đáng kể.
Nhng để có đợc quan hệ đối xứng về ý này là nhờ vào quan hệ đối xứng
giữa các yếu tố trong hai vế của thành ngữ gọi là quan hệ đối lời. Chẳng hạn
trong thành ngữ trên nhờ có quan hệ đối xứng giữa các yếu tố đầu và đuôi,
chuột và voi mà ta suy ra đợc ý nghĩa của thành ngữ.
Hay trong thành ngữ mẹ tròn con vuông sở dĩ ta nhận ra quan hệ đối ý
(sau khi sinh mẹ khỏe khoắn, vẹn toàn, con lành lặn, kháu khỉnh) là nhờ quan
hệ đối xứng giữa các yếu tố mẹ với con, tròn với vuông. Cũng nh thế, nhờ có
quan hệ đối xứng giữa đầu với đuôi, xuôi với lọt trong thành ngữ đầu xuôi đuôi
lọt mà ta có đợc ý niệm về sự suôn sẻ, trót lọt.
Vấn đề là để xác lập quan hệ đối xứng giữa từng yếu tố trong hai vế của
thành ngữ thì cần những điều kiện gì. Trớc hết, trong quan hệ đối lập nội dung
và ngữ nghĩa của các yếu tố đối xứng nhau trong hai vế ở phần lớn các thành
ngữ phản ánh những đặc trng thuộc cùng một phạm trù ngữ nghĩa:
Ví dụ: mẹ / con, tròn / vuông, đầu / đuôi, xuôi / lọt.
Cần chú ý các yếu tố đối xứng với nhau phải cùng một phạm trù từ loại,
tức có cùng một thuộc tính ngữ pháp.
Ví dụ: Trong thành ngữ: cà chua mắm mặn các yếu tố ở hai vế của
thành ngữ này đều thuộc một phạm trù từ loại cụ thể: cà, mắm đều là danh từ,
chua, mặn đều là tính từ. Hay trong thành ngữ mẹ tròn con vuông ở trên, mẹ,
con là danh từ , tròn, vuông đều là tính từ.
Tóm lại, để có quan hệ đối xứng giữa các yếu tố trong thành ngữ thì các
yếu tố trong hai vế phải có sự tơng đồng về ngữ pháp, ngữ nghĩa.
2.2 / Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng
19
Về mặt cấu tạo, kiểu thành ngữ này không có tính đối xứng và do đợc
cấu tạo giống hệt nh những cấu trúc ngữ pháp bình thờng nên còn gọi là những
thành ngữ thờng. Nếu đi sâu hơn nữa về cấu trúc thì chúng ta nhận thấy những
thành ngữ này đợc cấu tạo theo hai kiểu kết cấu ngữ pháp phổ biến: kết cấu có
một trung tâm và kết cấu cã hai trung t©m.
- KÕt cÊu mét trung t©m gåm 3 kiĨu sau: * KÕt cÊu danh ng÷ (vÝ dơ: bạn
nối khố; cá mè một lứa; quân s quạt mo; nớc mắt cá sấu; mặt sắt đen sì ; *
Kết cấu động ngữ (ví dụ: bở hơi tai; trơ mắt Õch;… * KÕt cÊu tÝnh ng÷ (vÝ dơ:
gan cãc tÝa; nghèo rớt mùng tơi, giàu nứt đố đổ vách
- Kết cấu hai trung tâm (kết cấu chủ- vị). Ví dụ: anh hùng mạt lộ; chó
cắn áo rách; gái đĩ già mồm; ăn mày cầm tinh bị gậy ...
Trong 4 cách phân loại thành ngữ tiếng Việt nêu trên, cách phân loại của
Hoàng Văn Hành dựa vào phơng thức tạo nghĩa là hợp lý nhất. Vì thế, trong
luận văn, chúng tôi dựa vào cách phân loại này để thống kê, phân tích đặc điểm
của thành ngữ Hán - Việt trong tiếng Việt.
1.1.3. Về nghĩa của thành ngữ
Khi nghiên cứu về thành ngữ, ngoài đặc điểm cấu tạo, còn cần xem xét
về mặt biểu hiện nghĩa của chúng bởi thành ngữ là một đơn vị từ vựng ngữ
nghĩa.
Trên thực tế đà có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhng trong
các công trình nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa nói chung và thành ngữ nói
riêng, các nhà Việt ngữ học đều nhất trí ở quan niệm chung rằng nghĩa của
thành ngữ có tính chất biểu trng, có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy.
Theo Lơng Văn Đang và Nguyễn Lực: Một bộ phận thành ngữ tiếng
Việt cũng có tính đa nghĩa nhng trong đó nghĩa bóng có tầm quan trọng hơn
cả Nghĩa này có tính khái quát, tợng trng cho toàn bộ tổ hợp. [25; tr.8].
Nghĩa là ý nghĩa của thành ngữ là sự hòa hợp, chung đúc nghĩa của các yếu tố
tạo thành nhng đó không phải là sự hòa hợp nh một phép cộng giản đơn nghĩa
của các yếu tố trong thành ngữ mà qua những hình ảnh, sự vật, hiện tợng bên
20
ngoài cuộc sống để biểu trng cho những đặc điểm, tính chất, hoạt động phổ
quát. Nói cách khác, nghĩa của thành ngữ là một chỉnh thể đợc khái quát từ
nghĩa của các yếu tố tạo thành.
Nghĩa của thành ngữ đợc xác định nh một chỉnh thể định danh tơng đơng với từ song khác với các đơn vị từ vựng khác, thành ngữ là loại định danh
bậc hai. Nghĩa là Nội dung của thành ngữ không hớng tới điều đợc nhắc đến
trong nghĩa đen của các từ tạo nên thành ngữ mà ngụ ý điều gì đó suy ra từ
chúng. [11 ; tr. 29]
Ví dụ: Nghĩa của thành ngữ cá nằm trên thớt không phải miêu tả một
con cá nằm trên thớt nh quyển sách nằm trên bàn mà ngụ ý nói tới trạng thái
nguy hiểm đến sự sống còn; hay thành ngữ mèo mù vớ cá rán không phải
đơn thuần là một con mèo bị mù lấy đợc một con cá rán nào đó mà nó chỉ sự
may mắn đặc biệt bất ngờ.
Cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ thờng đợc diễn giải bằng một cụm từ
tự do trong ®ã cã mét tõ trung t©m (hay mét cơm tõ trung tâm) và những thành
phần phụ bổ sung ý nghĩa cho thành phần trung tâm với những sắc thái phụ.
Thành phần trung tâm là ý nghĩa nòng cốt, ý nghĩa cơ bản của thành ngữ.
Ngữ nghĩa của thành ngữ thờng đợc nhắc đến với những đặc điểm nh:
tính biểu trng, tính hình tợng, tính cụ thể, tính biểu thái, tính dân tộc. Tất cả
những đặc điểm này làm nên giá trị ngữ nghĩa độc đáo của thành ngữ trong các
hoạt động ngôn ngữ. Trong số các đặc điểm nói trên các nhà nghiên cứu quan
tâm nhiều đến nghĩa biểu trng. Tính biểu trng đợc xem là đặc tính bản chất nhất
của thành ngữ. Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt đÃ
khẳng định: Biểu trng là cơ chế tất yếu mà ngữ cố định và từ vựng phải ghi
nhận, diễn đạt những nội dung phức tạp hơn một khái niệm đơn. [6, tr. 82].
Tính biểu trng là đặc điểm ngữ nghĩa quan trọng nhất của thành ngữ làm
nên nét khác biệt quan trọng giữa thành ngữ với đơn vị tơng đơng với nó là từ.
Đặc điểm nổi bật trong nghĩa của từ là tính võ đoán còn trong thành ngữ là tính
biểu trng. Vấn đề biểu trng hóa làm sáng tỏ quá trình hình thành nghĩa của
21
thành ngữ. Nh vậy, có nghĩa là nghĩa của thành ngữ đợc hình thành bằng cơ chế
biểu trng hóa.
Giáo s Hoàng Văn Hành đà nhấn mạnh điều này trong Thành ngữ học
tiếng Việt: Nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thờng là kết quả của hai hình thái
biểu trng hóa hình thái tỉ dụ (so sánh) và hình thái ẩn dụ (so sánh ngầm). [13;
tr 31]
Với so sánh ta có những thành ngữ nh: nh chó với mèo; béo nh bồ sứt
cạp; bạc nh vôi; chậm nh rùa; coi ngời nh rác, nh gà mắc tóc
Với ẩn dụ ta có những thành ngữ nh: Sắc nớc hơng trời, nớc sông gạo
chợ, mớp đắng mạt ca, nát đá vàng phai
Ngoài ra trên thực tế còn có một số thành ngữ dùng các hoán dụ để biểu
trng hóa ngữ nghĩa cho mình. Ví dụ: mồm năm miệng mời; tai to mặt lớn
Hay một số thành ngữ khác nghĩa của nó đợc biểu trng hóa dựa trên cơ sở điển
tích, điển cổ: Bá Nha Tử Kỳ; Ngu Lang Chức Nữ; nợ nh chúa chổm v..v..
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
Thành ngữ đợc xem là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, đơn vị có tính chất
trung gian giữa bậc từ vựng và bậc cú pháp. Nghĩa là một mặt thành ngữ đợc
cấu tạo theo những mô hình cú pháp, mặt khác nó lại hoạt động nh một đơn vị
từ vựng. Do đó cần phải phân biệt với các đơn vị liên quan nh thành ngữ với tục
ngữ, quán ngữ Trong luận văn này, để thuận lợi cho việc khảo sát, phân loại
thành ngữ, chúng tôi tập trung phân biệt hai đơn vị có quan hệ gần gũi với nhau
nhất đó là thành ngữ và tục ngữ.
Từ trớc đến nay đà có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn
ngữ học quan tâm đến vấn đề này, có thể điểm qua các công trình tiêu biểu sau:
Tác giả Dơng Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đÃ
khẳng định: Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn,
hoặc chỉ bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng, mà
diễn đạt một ý hoặc tả một trạng thái gì cho có màu mè.
22
Theo Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt một ý, một
nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành
ngữ là một phần câu có sẵn, nó là một bộ phận của câu mà nhiều ngời quen
dùng nhng tự riêng nó không diễn đạt một ý trọn vẹn.[32; tr. 31-32]
Ngoài ra, một số công trình khác nh: Tục ngữ Việt Nam (Chu Xuân
Diên, Lơng Văn Đang, Phơng Tri – 1975), Tõ vµ vèn tõ tiÕng ViƯt hiƯn đại
(Nguyễn Văn Tu - 1978), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại (Hồ Lê - 1976)
cũng chú ý phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
Tạp chí Ngôn ngữ cũng đà đăng nhiều bài viết về vấn đề này. Chẳng hạn,
Nguyễn Văn Mệnh trong bài:Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ (Ngôn
ngữ,số 3, 1972) đà chỉ ra rằng: Nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tợng còn nội dung của tục ngữ nói chung mang tính quy luật.
Cù Đình Tú trong bài Góp ý về sự phân biệt thành ngữ và tục ngữ
(Ngôn ngữ, số 1, 1973) đà nêu: Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ
là sự khác nhau về chức năng. Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức
năng định danh, nói khác đi dùng để gọi tên sự vật, tính chất hành động. Về mặt
này mà nói, thành ngữ là những đơn vị tơng đơng với từ. Tục ngữ đứng về mặt
ngôn ngữ học có chức năng khác hẳn so với thành ngữ. Tục ngữ cũng nh các
sáng tạo khác của dân gian nh ca dao, truyện cổ tích, đều là các thông báo, nó
thông báo một nhận định nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mỗi tục ngữ
đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tởng. ở đây tác giả đÃ
nêu ra những tiêu chí về mặt ngôn ngữ để phân biệt, cụ thể là: sự khác nhau về
cấu tạo ngữ pháp và về vị trí trong lời nói giữa thành ngữ và tục ngữ.
Theo GS Hoàng Văn Hành, thành ngữ và tục ngữ tuy có một số nét tơng
đồng có thể chuyển hoá lẫn nhau nhng về mặt bản chất là không giống nhau,
xét về mọi phơng diện: hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa, nội dung biểu đạt và chức
năng của chúng trong giao tiếp xà hội. Ông đà phân biệt hai đơn vị này theo 4
tiêu chí sau:
23
- Về mặt hình thái cấu trúc: Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định (hoặc kết
cấu chủ vị) quan hệ hình thái; còn tục ngữ là câu (phát ngôn) cố định (cả đơn và
phức) quan hệ cú pháp.
- Về chức năng biểu hiện nghĩa định danh: Thành ngữ có chức năng định
danh sự vật, hiện tợng, quá trình; còn tục ngữ có chức năng định danh sự kiện,
sự tình, trạng huống.
- Về chức năng biểu hiện hình thái nhận thức: Thành ngữ biểu hiện khái
niệm bằng hình ảnh biểu trng; còn tục ngữ biểu hiện phán đoán bằng hình tợng
biểu trng.
- Về đặc trng ngữ nghĩa: thành ngữ và tục ngữ đều có 2 tầng nghĩa đợc
tạo bằng phơng thức so sánh và ẩn dụ hoá.
Nh vậy, các nhà nghiên cứu từ trớc đến nay đà đa ra nhiều cách thức khác
nhau để phân biệt hai đơn vị có quan hệ rất gần gũi nhau đó là thành ngữ và tục
ngữ. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu ý kiến của những ngời đi trớc, chúng tôi
xin đa ra một số tiêu chí cụ thể sau nhằm phân biệt rõ hơn về hai đơn vị ngôn
ngữ này.
1.1.4.1. Về cấu trúc
Thành ngữ và tục ngữ đều là những tổ hợp từ cố định song chúng khác
nhau về cấp độ. Thành ngữ tồn tại dới dạng cụm từ, có thể là cụm danh từ (ví
dụ: lều tranh vách đất; anh hùng rơm; mắt bồ câu), có thể là cụm động từ (ví
dụ: chẻ đôi sợi tóc; lấp biển vá trời; đem con bỏ chợ), có thể là cụm tính từ
(ví dụ: no xôi chán chè; bé hạt tiêu; héo ruột héo gan); còn tục ngữ là một
câu hoàn chỉnh. Theo GS. Hoàng Văn Hành tục ngữ không những là một câu
hoàn chỉnh mà còn có thể nhận định tục ngữ là thông điệp nghệ thuật [11 ; tr.
32). Còn tác giả Nguyễn Văn Mệnh thì khẳng định: Về hình thức ngữ pháp,
nói chung mỗi thành ngữ là một cụm từ, cha phải là một câu hoàn chỉnh. Tục
ngữ thì khác hẳn, mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu. Theo quan điểm của ngữ
24
pháp chức năng, thành ngữ luôn có cấu trúc đề thuyết (thí dụ: gần mực thì đen).
Ngay cả những câu tục ngữ tồn tại nh cụm từ cố định thì bản chất vẫn là cấu
trúc đề thuyết, ví dụ: Cây cau, rau cải, nhân ngÃi vợ, đầy tớ con.
Nhng vấn đề nhập nhằng là ở một số thành ngữ có hình thức cấu tạo nh
một câu đơn (một kết cấu C-V), ví dụ: áo gấm đi đêm; cá nằm trên thớt; chó
ngáp phải ruồi; thậm chí là một câu ghép (hai kÕt cÊu C-V), vÝ dơ: ma dËp giã
vïi. §èi với những thành ngữ này nếu chỉ dựa vào tiêu chí cấu trúc thì không
thể phân biệt đợc với tục ngữ, mà cần phải dựa vào tiêu chí khác nữa đó là chức
năng ngữ nghĩa.
1.1.4.2. Về chức năng ngữ nghĩa
Điểm khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ về chức năng ngữ
nghĩa là ở chỗ, thành ngữ chỉ có nghĩa định danh, còn tục ngữ phải có nghĩa
thông báo. Nói cách khác, thành ngữ có nghĩa tơng đơng với từ còn tục ngữ có
nghĩa tơng đơng với câu. Về điều này, Cù Đình Tú đà khẳng định rất rõ: Sự
khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là ở sự khác nhau về chức năng:
Thành ngữ là những đơn vị định danh, về mặt này thành ngữ tơng đơng với từ,
còn tục ngữ cũng nh các sáng tạo khác của dân gian nh ca dao, truyện cổ tích
đều là các thông báo. (Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ và tục ngữ. (Ngôn
ngữ, số 1, 1973))
Thành ngữ là đơn vị tơng đơng với từ, do vËy nã cịng cã tÝnh hoµn chØnh
vỊ nghÜa nh tõ và có chức năng định danh, hiển thị khái niệm thông qua các
hình ảnh biểu trng. Ngay cả thành ngữ có cấu trúc hình thức nh một câu, ví dụ:
chuột sa chĩnh gạo thì nghĩa mà ta tri nhận đợc từ thành ngữ này không phải là
một phán đoán mà chỉ là một biểu đạt cho cái đợc biểu đạt là sự may mắn.
Nh vậy, nghĩa của thành ngữ chuột sa chĩnh gạo là sự định danh cho một khái
niệm cụ thể. Tóm lại, thành ngữ là những tổ hợp chỉ có nghĩa định danh.
Tục ngữ thì khác hẳn nó không biểu thị khái niệm nh thành ngữ mà biểu
thị những phán đoán, miêu tả một sự vật, một hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa của tục
ngữ là một phán đoán, một sự đánh giá, sự khẳng định về một chân lý, mét lÏ
25