Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Giáo dục khoa cử nho học ở nghi xuân thời nguyễn (1802 1919)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.42 KB, 56 trang )



Luận văn tốt nghiệp

Bộ giáo dục và Đào Tạo
trờng đại học vinh
Khoa lịch sử


Hồ Thị Hơng Ly
Giáo dục khoa cử Nho häc ë Nghi Xu©n
thêi Ngun ( 1802 – 1919 )

Chuyên nghành : Lịch sử Việt Nam
GV hớng dẫn: Giảng viên chính, Thạc sỹ: Hồ

Sỹ Huỳ

mục lục
A. Phần mở đầu ..................................................................................................02
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................02
Vinh 05 -2004

2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................04
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.....................................................05
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu..........................................................05
5. Bố cục luận văn...............................................................................................06
B. Nội dung.........................................................................................................07
Chơng I : Khái quát điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử văn hoá , truyền thống giáo
dục khoa cử của Nghi Xuân ...............................................................................07
sinh viên:



Hồ Thị Hơng Ly

1




Luận văn tốt nghiệp

1.1 Điều kiện địa lý, lịch sử Nghi Xuân .............................................................07
1.2 Truyền thống giáo dục khoa cử Nho học ở Nghi Xuân trớc thời Nguyễn ....16
Chơng II Giáo dơc khoa cư Nho häc ë Nghi Xu©n thêi Ngun ( 1802- 1919) 24
2.1 Vài nét về tình hình giáo dục khoa cử triều Nguyễn ....................................24
2.2 Các nhà khoa bảng Nghi Xuân thời Nguyễn ................................................38
2.3 Một số Nho sĩ tiêu biểu ở Nghi Xuân ...........................................................44
2.4 Một vài đặc điểm về giáo dục khoa cử Nghi Xuân ......................................54
C. Kết luận ..........................................................................................................58
Tài liệu tham khảo ..............................................................................................62
A. Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trên con đờng xây dựng và phát triển đối với nớc ta giáo dục là quốc
sách hàng đầu . Nguyên tổng bí th Đỗ Mời đà từng nói: Công việc quan tâm số
một của toàn Đảng toàn dân ta hiện nay là lo sự nghiêp giáo dục, nâng cao dân
trí, đào tạo nhân tài cho đất nớc đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá .Từ xa cha
ông ta đà nhận rõ vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo nhân tài. Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nớc mạnh và thịnh, nguyên khí
kém thì thế nớc yếu và suy [19,231] Bởi vậy để phát triển sự nghiệp giáo dục
chúng ta cần phải khơi dậy truyền thống hiếu học trong mỗi ngời dân Việt Nam
đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhận rõ tầm quan trọng đó việc nghiên cứu về đề tài giáo

dục đang là một trong những vấn đề nổi cộm và cần thiết.
Đặt trong bối cảnh chung của toàn dân tộc để có đợc những thành tựu
rực rỡ nh ngày hôm nay ta không thể không nói đến sự đóng góp của mỗi địa phơng. Nghĩ đến quê hơng chúng ta không chỉ nghĩ đến hình ảnh cây đa giếng nớc
sân đình mà tiềm ẩn trong đó là những sức mạnh vô hình, những giá trị tinh thần
to lớn. Đó là truyền thống tôn s trọng đạo của mỗi làng quê. Có một xứ sở vì
sự khắc bạc của thiên nhiên mà đất đai cằn cỗi và con ngời phải mu cơ, dũng lợc.
ở họ cùng với ý thức tự bù đắp là sự khát khao về lẽ công bằng, ở mỗi con ng ời
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

2




Luận văn tốt nghiệp

nỗi gian truân đà tạo nên niềm nhân hậu. Đó là sức sống, là khí phách của một
vùng c dân, chốn hy vọng của thời loạn, nơi nơng dựa của thời trị. Xứ sở ấy là núi
Hồng- sông Lam [ 16,3] . Đợc sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy tôi mang
trong mình niềm tự hào về quê hơng xứ sở. Những truyền thống tốt đẹp ấy là
hành trang cho tôi bớc vào đời .
Ngày nay trên con đờng phát triển của tri thức nhân loại con ngời đang dần dần
chinh phục đợc những đỉnh cao mới, sáng tạo ra biết bao phát minh vỊ khoa häc
kÜ tht nhng chóng ta vÉn kh«ng thĨ quên đợc quá khứ bởi bên cạnh những bớc
tiến của tri thức là những mặt trái của xà hội. Cuộc sống xô bồ, vật chất dễ làm
cho ngời ta đánh mất bản sắc văn hoá và quên đi cội nguồn của chính mình. Hiện
nay thế hệ trẻ có hiểu biết rất hạn chế về lịch sử của quê hơng, địa phơng. Chính
vì vậy cần khơi dậy trong các em niềm tự hào về mảnh đất nơi mình đà chôn

rau cắt rốn và cung cấp cho các em những hiểu biết về những chặng đờng đÃ
qua của lịch sử địa phơng.
Bản thân là một ngời giáo viên lịch sử để dạy tốt lịch sử thế giới và lịch
sử dân tộc tôi không thể không mang theo những hiểu biết về lịch sử địa phơng
để truyền thụ cho các em trên chính mảnh đất mà mình đà sinh thành. Qua đó tôi
muốn góp phần hình thành nên trong các em tình yêu quê hơng đất nớc để vơn
lên xây dựng nớc nhà ngày một đẹp giàu .
Cùng với những bớc thăng trầm của lịch sử, chế độ giáo dục khoa cử
Nho học dù có những hạn chế nhng tác dụng tích cực của nó vẫn không thể bị
thời gian khoả lấp . Đất Nghi Xuân dới chế độ giáo dục khoa cử Nho học đặc biệt
là dới triều Nguyễn đà thực sự là mảnh đất để cho nhân tài nở rộ. Cho đến ngày
nay mỗi ngời dân Nghi Xuân vẫn không quên đi niềm tự hào về những danh nhân
nh Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguỵ Khắc Tần, Nguỵ Khắc Đản.
Là một ngời con trên mảnh đất Nghi Xuân và một ngời giáo viên lịch
sử trong tơng lai nhận thức rõ tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và việc phát
huy bản sắc văn hoá của quê hơng đất nớc tôi đà chọn đề tài Giáo dục khoa cử
Nho häc ë Nghi Xu©n thêi Ngun ” ( 1802-1919 ) làm khoá luận tốt nghiệp
của mình
2. Lịch sử vấn đề
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

3




Luận văn tốt nghiệp


Vấn đề giáo dục khoa cử Nho học từ xa đà đợc các sĩ phu có ý thức ghi
chép. Tuy nhiên đề tài khoa cử Nghi Xuân là một đề tài có phạm vi hẹp vì vậy ít
có các tài liệu chuyên sâu nghiên cứu .
Đối với chế độ giáo dục khoa cử nói chung đẫ có các tác phẩm nh :
Sự phát triển giáo dục và chÕ ®é thi cư ë ViƯt Nam thêi phong kiÕn” của
Nguyễn Tiến Cờng, NXB Giáo dục, 1998 , Lịch sử giáo dục Việt Nam trớc
cách mạng tháng tám của Nguyễn Đăng Tiến (CB), NXB Giáo dục,1996 ,
Trong các công trình đó chế độ giáo dục khoa cử đợc nghiên cứu một cách khá
toàn diện và có hệ thống
Các tác phẩm đề cập cụ thể hơn về tình hình thi cử, quê quán, tiểu sử
các nhà khoa bảng Việt Nam trong đó có Nghi Xuân bao gồm: Quốc triều Hơng
khoa lục , NXB TPHCM, 1993, Những ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
của Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Lan Phơng, NXB VH thông tin ,1995, Các nhà khoa
bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ (CB) ,NXB Văn học, 1993.Ngoài ra còn có các
tập sách về các danh nhân xứ Nghệ nh : Danh nhân Nghệ Tĩnh, Lợc truyện
các tác gia Việt Nam trong đó có sự góp mặt của những danh sĩ tiêu biểu ở đất
Nghi Xuân.
Một số tác phẩm khác lại khai thác riêng về khía cạnh giáo dục nhằm
giới thiệu những nhà giáo nổi tiếng ở Nghệ Tĩnh nh Nhà giáo danh tiếng đất
Lam Hồng, NXB Nghệ An, 1996 Qua đây ta có thể hiểu rõ hơn về chân dung
của thầy trò xứ Nghệ.
ở phạm vi hẹp hơn có cuốn Nghi Xuân địa chí của Đông hồ Lê
Văn Diễn, NXB VH Thông tin Hà Tĩnh, có mục Nhân vật đề cập đến các nhà
khoa bảng Nghi Xuân từ thời Lê đến thời Nguyễn. Ngoài ra tác phẩm Ngời
Nghi Xuân của Đặng Thanh Quê cũng giới thiệu về một số danh nhân tiêu biểu
Trên cơ sở kế thừa các nguồn tài liệu nh sách, báo, các tạp chí nghiên
cứu lịch sử, các khoá luận trớc đó về đề tài giáo dục cùng với quá trình tổng hợp
của bản thân tôi muốn góp phần tạo dựng lại bức tranh về nền giáo dơc khoa cư ë
Nghi Xu©n thêi Ngun ( 1802 – 1919)
3.Đối tợng và phạm vi nghiên cứu


sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

4




Luận văn tốt nghiệp

Trong phạm vi của đề tài này chúng tôi chỉ đề cập đến nền giáo dục
khoa cử Nghi Xuân thời Nguyễn
Trớc hết chúng tôi đi vào tìm hiểu những điều kiện địa lý, tự nhiên, lịch
sử văn hoá của Nghi Xuân . Đó là cơ sở hình thành bản sắc văn hoá của những
ngời dân trên mảnh đất này. Điều đó cũng góp phần cắt nghĩa truyền thống hiếu
học của Nghi Xuân trong các chặng đờng phát triển từ xa tới nay
Phần trọng tâm của đề tài đi sâu vào nghiên cứu tình hình giáo dục
khoa cử ở Nghi Xuân thời Nguyễn (1802- 1919) . Nhng để có một cách nhìn
khách quan, tổng quát cần đặt nó trong mối quan hệ với các triều đại trớc khi nhà
Nguyễn đợc thành lập. Qua đó chúng ta có thể thấy đợc sự kế thừa và phát triển
truyền thống hiếu học của Nghi Xuân dới thời Nguyễn thông qua tình hình giáo
dục khoa cử và những tấm gơng tiêu biểu của Nho sĩ. Tất cả những điều trên
nhằm nêu lên đặc điểm , ý nghĩa và khẳng định những đóng gãp cđa khoa cư
Nghi Xu©n trong vên hoa tri thøc của dân tộc
4.Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở về các t liệu về lịch sử giáo dục khoa cử, lịch sử địa phơng,
các sách báo các tạp chí để nhận thức về tình hình giáo dục khoa cử ở Nghi Xuân
thời Nguyễn (1802-1919). Do điều kiện về thời gian còn hạn chế và nguồn t liệu

cha nhiều nên việc tiếp cận các t liệu cha phong phú mong thầy cô và các bạn lợng thứ.
Về phơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phơng pháp logic và phơng pháp lịch sử , phơng
pháp so sánh đối chiếu tài liệu, thống kê để tiến hành nghiên cứu.
5.Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu , kết luận, tài liệu tham khảo khoá luận gồm hai
chơng:
Chơng I : Khái quát điều kiện địa lý, tự nhiên, lịch sử văn hoá, truyền
thống giáo dục khoa cử của Nghi Xuân
Chơng II : Giáo dục khoa cử Nho học ở Nghi Xuân thời Nguyễn (18021919)

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

5




Luận văn tốt nghiệp

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

6





Luận văn tốt nghiệp

B. Phần nội dung
chơng i
khái quát điều kiện địa lý tự nhiên , lịch sử văn hoá,
truyền thống giáo dục khoa cử của nghi xuân .
1.1. Điều kiện địa lý, lịch sử Nghi Xuân
1.1.1 Điều kiện địa lý tự nhiên
Trên bản đồ Hà Tĩnh vùng duyên hải Nghi Xuân nhìn tựa hồ nh
vầng trăng non vừa nhô lên khỏi biển. Vành trăng lỡi liềm đà ôm trọn ba phía
Bắc - Đông - Đoài của dÃy Ngàn Hống. Phía Đông của Nghi Xuân giáp biển,
phía Đông Nam đến cuối xà Cơng Gián .Đông Bắc đến xà Hội Thống (Xuân
Hội), phía Tây giáp các huyện Hng Nguyên và Đức Thọ , phía chính Tây giáp
một đoạn sông Cả và phía chính Nam lấy nửa đỉnh núi Hồng làm giới
hạn.Vùng đất Nghi Xuân hẹp, trải dài nhng có đủ cả sông biển , núi đồi, đồng
bằng, hải đảo đúng là sơn thuỷ hữu tình . Nghi Xuân nằm gọn trên toạ độ từ
28031' đến 18045' độ vĩ bắc và từ 105041' đến 105051' độ kinh đông. Diện tích
đất tự nhiên là 21776 km2 dân số 99875 ngời. Mật độ dân số 459 ngời/km2
chiếm 3,59% diện tích đất tự nhiên và 7,9 % tổng dân số toàn tỉnh (1995)
Về địa hình nổi bật ở Nghi Xuân là dÃy núi Hồng Lĩnh nằm lệch về
phía Tây Nam, trải dài trên địa phận 10 xà chiếm gần 1/2 diện tích đất tự nhiên
của huyện .Đây là dÃy núi đà đợc khắc tên vào Cửu Đỉnh đặt ở Kinh Đô . Trong
cấu tạo địa chất núi có khá nhiều lớp trầm tích nên có mỏ sắt, mangan và một
số khoáng sản có ích khác. Chiều cao, độ dốc, thảm cây cối, lợng nớc ngầm
là những nhân tố tác động trực tiếp tới các mặt khí hậu, nguồn nớc và đời sống
của c dân trong huyện
Vùng đồng bằng của Nghi Xuân vốn đà hẹp lại bị núi chia cắt thành
khu vực đồng bằng chân núi và đồng bằng ven biển. Vùng biển Nghi Xuân kéo
dài từ Cửa Hội đến Cửa Lèn - Động Gián, tạo điều kiện cho ngời dân khai thác

hải sản và tiềm năng du lịch nh ở bÃi biển Xuân Thành, Xuân Yên. Đất đai chủ
yếu là đất cát một số vùng đợc phù sa bồi đắp nên điều kiện canh tác dễ dàng
hơn.

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

7




Luận văn tốt nghiệp

Đối lập với cảnh non xanh là dòng sông Lam quanh năm nớc trong
xanh chảy hiền hoà ôm trọn đất Nghi Xuân . Có thể nói Nghi Xuân là huyện duy
nhất có cả núi Hồng sông Lam. Thiên nhiên không chỉ u đÃi cho Nghi Xuân có
nhiều sản vật đặc biệt là sản vật biển và các loại khoáng sản mà cảnh đẹp của
Nghi Xuân cũng đà đi vào thơ ca lu truyền từ bao đời nay.Đó là Nghi Xuân bát
cảnh :
- Hồng sơn liệt chớng ( Núi Hồng chăng dài)
- Đan nhai qui phàm( Thuyền về Cửa Hội)
- Song ng hý thuỷ ( Đôi cá dỡn nớc)
- Cô độc lâm lu ( Núi cô độc giữa dòng)
- Giang Đình cổ độ ( Giang Đình bến xa)
- Quần mộc bình sa ( Lùm cây trên bÃi cát bằng)
- Uyên Trừng danh tự ( Chùa Giằng nổi tiếng)
- Hoa Phẩm thắng triền ( Chợ Hoa Phẩm đẹp bên sông)
Những cảnh đẹp ấy đà chấp cánh cho tâm hồn biết bao thi nhân, góp

phần tạo nên nét đẹp văn hoá cho vùng đất Nghi Xuân
Về điều kiện khí hậu Nghi Xuân nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa,
hàng năm thời tiết phân biệt thành hai mùa rõ rệt . Nhiệt độ cao, số ngày nắng
trong năm khá dồi dào đủ nhiệt lợng cần thiết cho gieo trồng, thu hoạch nhng
thời tiết cũng thờng xuyên chuyển đổi, thất thờng, tháng 5 năm tật, tháng 10 mời tật. Đặc biệt Nghi Xuân chịu ảnh hởng của gió Tây Nam đà bị biến tính khi
qua Trờng Sơn làm nhiệt độ tăng lên. Từng đợt gió kéo dài 7 đến 8 ngày khiến
cho nhiều cây cối sém khô nh bị đốt cháy. Dân gian có câu Lúa trổ lập hạ, buồn
bà cả làng, Ba ngày gió nam, mùa màng mất trắng.
Trong điều kiện thiên nhiên ấy con ngời Nghi Xuân đà không ngừng
vơn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của trí tuệ.
1.1.2. Các đơn vị hành chính dới triều Nguyễn ở Nghi Xuân .
Theo Nghi Xuân địa chí dới thời Nguyễn Nghi Xuân gồm 5 tổng, 25
xÃ, 11 thôn, 2 trang, 1 phờng. Đó là:
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

8




Luận văn tốt nghiệp

- Tổng Phan Xá gồm: xà Phan Xá, xà Tiên Bào, xà Tiên Điền, xà Mĩ Dơng.
- Tổng Xuân Viên gồm: xà Xuân Viên, xà Khải Mông, xà Tiên Cầu, xà Tả
Ao, thôn Bá Lâm, thôn Hồng Thôn
- Tổng Tam Đăng gồm: xà Tam Đăng thợng, Tam Đăng hạ, xà Quả Phẩm,
xà An Lạc, xà Lộc Châu, thôn Trung, thôn Ngoại, thôn Do Nha, thôn Yên Xứ,
thôn Phú Giang, thôn A Bì , thôn Tháp Sơn, phờng Thổ Châu

- Tổng Cổ Đạm gồm: xà Cổ Đạm, xà Phú Lạp, xà Cơng Đoán, xà Động
Gián, xà Liêu Đông, thôn Vân Hải , thôn Cam Lâm.
1.1.3. Điều kiện lịch sử văn hoá
Nghi Xuân là vùng đất văn hoá lâu đời, trớc khi trở thành huyện Nghi
Xuân nghĩa của chữ là nên xuân đất này đà trải qua nhiều biến động về
duyên cách và địa giới.
Từ trớc công nguyên, Nghi Xuân là một phần của quốc gia Việt Thờng.
Thời thuộc Hán, Nghi Xuân gọi là Dơng Thành. Thời Tấn gọi là huyện Dơng
Toại thuộc quận Cửu Đức. Thời Tuỳ lại đổi thành huyện Phố Dơng thuộc quận
Nhật Nam. Thời Lý, Trần, Hồ và thời thuộc Minh huyện Phố Dơng đổi thành
huyện Nha Nghi thuộc phủ Nghệ An. Sau đó sát nhập thêm một phần đất của
huyện Chân Lộc ( Nghi Lộc Nghệ An ngày nay ) để gọi là huyện Nghi Chân.
Từ thời Lê Trung Hng lại đổi là huyện Nghi Xuân thuộc trấn Nghệ An. 1831
Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Từ đây Nghi
Xuân trực thuộc Hà Tĩnh.
Với cái nhìn kiến tạo địa hình nhà địa chất mách bảo rằng vận động
kiến tạo địa chất Nghi Xuân xảy ra từ đại nguyên sinh qua hàng trăm triệu năm
với nhiều thời kì vận động địa chất thay đổi và đến nay vẫn còn tiếp diễn.
Theo các nhà khảo cổ học ở Nghi Xuân có nhiều di tích khảo cổ của
nhiều thời đại khác nhau. Trớc hết là những dấu hiệu thời đồ đá cũ. Trên bề mặt
bóc mòn của thềm sông Lam, khu vực đền huyện xà Xuân Giang, gần đây các
nhà khảo cổ học đà phát hiện một số công cụ ghè đẽo thuộc văn hoá Sơn Vi có
niên đại hậu kì đá cũ cách ngaỳ nay khoảng vài vạn năm. Su tập cộng cụ các loại
hình mũi nhọn, bàn nghiền Đây là những dấu hiệu đầu tiên để nghiên cứu thời
đại đá cũ ở vùng đất Nghi Xuân . ở đây còn có di tích của thời đại đá mới ở bÃi
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

9





Luận văn tốt nghiệp

Phôi Phối. Bà Phôi Phối nằm kề chân núi Hồng Lĩnh thuộc xà Xuân Viên. Địa
điểm khảo cổ này đợc thầy trò khoa lịch sử Đại học Tổng Hợp ( nay là Đại học
Quốc Gia Hà Nội) khai quật vào năm 1976. Di tích có tầng văn hoá dày 50 cm
phân thành hai lớp sớm muộn khác nhau. Lớp dới tợng trng cho văn hoá Quỳnh
Văn với công cụ ghè đẽo thô sơ từ đá mài gốc, kĩ thuật mài cha phát triển cao,
công cụ cha thật định hình chính xác. Đồ gốm thô và dày chủ là gốm đáy nhọn,
trang trí văn thừng, văn chải. Lớp trên thuộc văn hoá Thạch Lạc với sự phong phú
của rìu đá có vai, rìu tứ giác và cuốc đá.
Thời kì văn hoá Đông Sơn ở Nghi Xuân có các di tích đợc phát hiện
đầu tiên ở Xuân An. Các nhà khảo cổ học đà tìm thấy rìu đồng xoè cân, rìu lỡi
xéo, cày đồng ở đây còn tìm thấy khuyên tai hình hai đầu thú bằng đá đen,
một đồ trang sức độc đáo chứng tỏ sự giao lu văn hoá ở đây lúc bấy giờ với các
vùng xa.
Thời Bắc thuộc trong lòng đất các xà Xuân An, Xuân Giang, Xuân
Viên đều có các di tích của thời kì này. Đó là những kiến trúc gạch xây cha sử
dụng vật liệu kết dính. Các viên gạch với độ dày mỏng khác nhau, có hoa văn ô
trám hoặc để trơn, xếp chồng lên nhau thành những hầm mộ kiểu vòng cuốn,
ở thời kì phong kiến các nhà khảo cổ học đà khai quật và tìm thấy các
dấu tích nh khối tháp cổ đời Trần bằng đất nung khá độc đáo. Di tích Hội Thống
ở Xuân Hội là một trong những ngôi đình cổ nhất ở nớc ta.
Những chứng tích ấy đà ghi dấu những chặng đờng phát triển đà qua
trên mảnh đất Nghi Xuân. Ngày nay đó là những giá tri tinh thần to lớn góp phần
tạo nên những vẻ đẹp văn hoá của con ngời Nghi Xuân .
Ngoài ra Nghi Xuân còn là vùng đất trọng yếu có đầy đủ điều kiện địa

lý để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế của quốc gia.
Theo truyền thuyết vua Hùng định chọn nơi đây làm đất đóng đô theo
hớng dẫn của đàn chim Phợng Hoàng. Hồng Lĩnh chỉ có 99 đỉnh, 100 con chim
bay về, một con không có nơi đỗ nên đàn chim bay đi, việc dựng kinh đô vì thế
không thành.
Đời Lý Trần đây là cửa ngõ, bến b·i cđa vïng phªn dËu – “ biªn
viƠn” cđa níc nhà, là một trung tâm dân c không những có nhiều đền chùa mà
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

10




Luận văn tốt nghiệp

còn có nhiều làng xà đông đúc, nhiều bến thuyền nhộn nhịp trong sự phát đạt của
các nghề thủ công. Sự hng thịnh đó đà đi vào thơ ca:
Hoan nam tịnh trấn thành cao đạm
Cửu thập Hồng Phong tịnh tráng quan
( Là trấn lớn ở phía nam châu Hoan
Chín mơi chín đỉnh Hồng Lĩnh tráng lệ)
Đầu thế kỉ XV vùng đất này trở thành nơi
cóHà
vị Nh
trí chiến
( Thơ
Tiên) lợc về quân sự

không những của Nghệ Tĩnh mà còn của cả nớc:
Thiên hạ đại loạn
Nghệ An độc an
Nghệ An đại loạn
Nghi Xuân độc toàn
Nghi Xuân là đồn tiền tiêu án ngữ che chở cho trấn sở Nghệ An mà
ngà ba Tam Chế ( thuộc Xuân Lam ngày nay) đà trở thành dinh luỹ của trấn này
Trên mảnh đất Nghi Xuân đà in dấu vó ngựa và chiến thuyền của vua
tôi, binh lính qua bao triều đại phong kiến Việt Nam.
Lê Lợi trong kháng chiến chống Minh khi gặp khó khăn đà vào Nghệ
An ( bao gồm Hà Tĩnh ngày nay ), lấy nơi đây làm đất đứng chân củng cố lực lợng để tổng phản công. Bấy giờ Nghi Xuân đà góp nhiều nhân tài vật lực. Đất
đai chung quanh Ngàn Hống đà là những trại sản xuất lơng thực cho nghĩa quân
khi đức cao Hoàng từng trải bớc hiểm nghèo.
Sau khi nhà Lê hng thịnh đất Nghi Xuân luôn là nơi dừng chân của nhà
vua khi tuần thú phơng Nam
Hồng Lĩnh lai phong
Nghi Xuân dịch mÃ
( Qua núi Hồng Lĩnh
Nghi Xuân là con ngựa trạm)
Trạm Chế là một trạm giao liên quan trọng trên trục đờng thiên lý từ
Thăng Long vào đến Đèo Ngang. Mùa hè năm 1470 vua Lê Thánh Tông khi nghỉ
chân ở đây đà ghi lại cảm xúc qua bài thơ nôm vịnh Làng Chế:
Bóng ác non đoài ban xế xế
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

11





Luận văn tốt nghiệp

Bỗng đâu đà tới miền Tam Chế
Mênh mang khóm nớc nhuốm màu Lam
Chất ngất đỉnh non trùm bóng quế
Chợ họp bên sông gẫm có chiều
Thuyền bày trên đất xem nhiều thế
Cảnh vật bằng đây hoạ có hai
Vì dân khoan giảm bên tô thuế
Nơi chợ họp bên sông có chợ Chế từ thế kỉ XVIII đà là vùng đất
trù phú nổi tiếng thu hút sự giao lu không những trong nớc mà cả ngoài nớc, có
nhiều ngoại kiều đến đây sinh sống và buôn bán
Sơn tựu hải tiệp đông tây tập
Kinh khánh, Thanh Hơng san các xa
( Từ chân non mặt bể tụ tập về đây
Khách kinh kì, ngời tàu nhà cửa san sát)
( Bùi Dơng Lịch Hoa Phẩm thắng triều)
Vua Gia Long năm 1802 sau khi thống nhất sơn hà vội ra Bắc phủ dụ
dân chúng đà dừng lại trạm Chế nghỉ ngơi. Nguyễn Du lúc này đang ở Tiên Điền
đợc tin vội vàng lên Trạm Chế ra mắt nhà vua, đợc Gia Long thu dụng, cùng cho
theo ra Bắc. Nguyễn Công Trứ ở làng Uy Viễn lúc bấy giờ còn là bạch diện th
sinh cũng lên Trạm Chế để xin gặp vua trình Thái bình thập sách ( mời kế
sách trị níc) sím béc lé tµi “ kinh bang tÕ thÕ
Nghi Xuân không chỉ có ý nghĩa về vị trí chiến lợc mà còn là vùng đất
có tiềm năng kinh tế. Nơi đây không giàu về lúa gạo mà rất có nhiều nghề cổ
truyền nh đúc đồng, dệt chiếu, làm mắm muối Sự trao đổi thông th ơng đÃ
khiến cho vùng đất này thêm sầm uất. Cùng với trạm giao liên trên đờng Bắc
Nam, sông Lam, Cửa Hội góp phần làm nên sự sang trọng cho con ngời Nghi

Xuân . Qua việc tiếp xúc với bên ngoài ngời dân có thêm nhiều thông tin, tăng
thêm sự hiểu biết vì vậy trình độ dân trí đợc nâng cao.
Và cũng chính trên mảnh đất này trải qua bao thăng trầm của lịch sử
ngời Nghi Xuân vẫn luôn góp sức mình vào công cuộc dựng nớc và giữ nớc.

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

12




Luận văn tốt nghiệp

Ngay từ thế kỷ XV dới ách đô hộ của quân Minh hai thủ lĩnh Trần Đài
và Phan Xá - ngời Nghi Xuân đà lÃnh đạo nhân dân đấu tranh nhng thất bại.
Năm 1424 khi Lê Lợi đa quân vào Nghệ An , ngời Nghi Xuân náo nức gia nhập
lực lợng, trong đó có Phan Nhân đợc Lê Lợi phân công phụ trách vận chuyển lơng thực, là một vị tớng hậu cần đóng góp nhiều công lao cho cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn. Hai xà Tiên Điền vµ Héi Thèng do cã nhiỊu ngêi bỉ sung vµo nghĩa
quân và lập nhiều công trạng đợc nhà vua phong tặng danh hiệu xà Kiên Nghĩa
Cuối thế kỷ XIX sau lúc thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, hởng ứng lời
kêu gọi Cần Vơng cử nhân Phan Khắc Hoà ở Xuân Yên tức tốc lên Sơn Phòng
gặp vua Hàm Nghi nhận chỉ dụ. Sau đó ông về quê chiêu mộ nghĩa sĩ phối hợp
với quân của ấm Ninh (Đức Thọ) tiến vào đánh thành Hà Tĩnh giết Bố Chánh Lê
Đại đợc vua Hàm Nghi phong làm án Sát Hà Tĩnh . Nhng chỉ đợc mấy tháng ông
bị bắt, bị đa về kinh đô Huế. Ông đà tự vẫn để giữ trọn khí tiết
Tiếp đó Hà Văn Mĩ (Tiên Điền) và Ngô Quảng khẩn trơng đứng ra tổ
chức lại lực lợng kéo quân lên Vũ Quang theo cụ Phan Đình Phùng .Quân thứ

Nghi Xuân đợc thành lập là một trong tám đội quân chủ lực của khởi nghĩa Hơng Khê .
Đầu 1908 hởng ứng phong trào bạo động chống thuế ở Trung Kỳ do
hội Duy Tân lÃnh đạo ,Trịnh Khắc Lập (ở Xuân Thành )là hạt nhân lÃnh đạo
phong trào ở Hà Tĩnh đà vận động đợc hàng ngàn nông dân Nghi Xuân bao vây
bắt sống quan huyện tiến quân vào tỉnh đờng Hà Tĩnh thì bị quân Pháp đánh
chặn .Trịnh Khắc Lập tuy hy sinh nhng tinh thần ,khí phách của ông đà làm cho
quân Pháp phải thán phục và khiếp sợ .
Sau đó những hội viên còn lại của Duy Tân hội ở Nghi Xuân tiếp tục
hoạt động .Trần Sĩ Dực còn gọi là đầu xứ Dực (ở Xuân Hải) xuất dơng tìm đờng
cứu nớc,là một chí sĩ rất trung kiên.Hồ Thúc Tự cũng gọi là đầu huyện Tự (ë
Xu©n Giang ) nhËn nhiƯm vơ cđa Phan Béi Ch©u ở lại nớc nhà hoạt động ,quyên
góp tài chính gửi cho học sinh Đông Du. Cụ còn đảm nhiệm việc nuôi dấu cậu
Huynh con trai cụ Phan để cụ Phan yên lòng làm việc lớn.Tấm gơng sáng của các
vị tiền bối nh vậy đà có ảnh hởng rất lớn đến các thế hệ con em của Nghi Xuân
sau này.
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

13




Luận văn tốt nghiệp

Tháng 7-1925 hội Phục Việt ra đời ở Nghệ Tĩnh. Huyện Nghi Xuân có
cụ Lê Duy Hy cùng con trai là Lê Duy Điếm và các ông Phan Viết Điểu, Lê
Tính, Hồ Văn Biển .là nhửng hội viên đầu tiên .Đầu 1930 Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời huyện uỷ Nghi Xuân cũng đợc thành lập .Những hội viên của hội

Phục Việt đà trở thành những Đảng viên u tú giữ các nhiệm vụ chủ chốt nh : Lê
Duy Điếm , Lê Duy Đại ,Đặng Thị Ba ,Phan Hảo...Thời kì 1930-1931 một số
đồng chí đà hy sinh hoặc bị tù đày.Nhng đến năm 1936-1939 phong trào lại đợc
phục hồi chuẩn bị cho khởi nghĩa tháng tám năm 1945 .
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ Nghi Xuân là
tuyến lửa , lớp lớp con em Nghi Xuân đà lên đờng ra tiền tuyến giết giặc lập công
.Có 20 bà mẹ của Nghi Xuân đợc phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh
hùng. Huyện Xuân có các xà nh Xuân Giang ,Xuân Hải, Xuân Trờng , Xuân
Viên, Tiên Điền, Xuân Hội đợc tặng danh hiệu Anh hïng lùc lỵng vị trang .
TiÕp nèi trun thèng anh dũng của cha ông trong công cuộc đấu tranh
bảo vệ đất nớc ngời Nghi Xuân đang từng bớc khẳng định mình trong công cuộc
dựng nớc. Trên con đờng phát triển Nghi Xuân ngày càng gặt hái đợc nhiều
thành tựu trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, kinh tế, chính trị. Bộ mặt Nghi
Xuân thêm phần rạng rỡ, xinh đẹp nh hai chữ nên xuân trong tên gọi của vùng
đất này .
Điều kiện tự nhiên không kém phần khắc nghiệt đà rèn giũa cho con
ngời Nghi Xuân . Mỗi ngời đều mang trong mình một bầu máu nóng đầy nhiệt
huyết xây dựng quê hơng đất nớc.Từ mảnh đất cằn khô đầy sỏi đá ấy đà có biết
bao ngời vơn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của trí tuệ. Quả thực đất Hồng
Lam là bà mẹ nghèo vắt sà nuôi lớn những ngời con trác việt .[16,3]
Bên cạnh đó thắng cảnh tự nhiên cũng chắp cánh cho hồn thơ của biết
bao thi nhân. Đó là những nét đẹp văn hoá,là hành trang của mỗi danh sĩ Nghi
Xuân trên con đờng nhập thế. Nghi Xuân là cái nôi ca trù, một thể loại âm nhạc
dân gian nhng mang đậm chất bác học, những làn điệu dân ca, hò vè phản ánh
một cách sinh động cuộc sống sinh hoạt và tinh thần của ngời dân.
Chính những điều kiện địa lí tự nhiên, lịch sử văn hoá ấy là cơ sở hình
thành nên truyền thống khoa bảng của ngời Nghi Xuân
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly


14




Luận văn tốt nghiệp

1.2 Truyền thống giáo dục khoa cử Nho học của Nghi Xuân trớc thời
Nguyễn.
Hồng Lĩnh sơn cao
Song Ng hải khoát
Nhợc ngộ minh thời
Anh hùng tú phát
( Núi Hồng Lĩnh xanh cao
Biển Song Ng bát ngát
Gặp thờ sáng vua hiền
Nhân tài đua nhau phát)
Câu thơ cổ có từ ngàn năm nay, khẳng định đất Nghi Xuân với núi
cao, sông sâu biển rộng nếu gặp lúc thanh bình, vua biết lấy đạo Học và Lễ,
Nhạc, Thi, Th để trị nớc thì nhất định nơi đây liên tục nẩy nở nhân tài.
Trong lịch sự khoa cử Việt Nam vùng Hoan Diễn nói chung và Nghi
Xuân nói riêng phát triển muộn.Vào thờ Lý trải qua các kì thi tuyển chọn nhân
tài dới các triều vua Lý Nhân Tông , Lý Cao T«ng vÉn kh«ng cã ai ë vïng Hoan
DiƠn. M·i đến năm 1256, niên hiệu Nguyên Phong thứ 6 Trần Thái Tông mới
quyết định lấy thêm một trại trạng nguyên dành cho vùng Thanh Nghệ Tĩnh để
khuyến khích việc học hành. Đến năm 1275 lệ này bị bÃi bỏ. Mặc dù các vua
Trần xem đây là vùng trọng trấn nhng trong hàng khoa bảng chỉ có trại trạng
nguyên Đào Tiêu ngời Hà Tĩnh và trại trạng nguyên Bặch Liêu ngời NghƯ An .
Së dÜ vïng Hoan DiƠn trong ®ã cã Nghi Xuân khoa cử cha gặt hái đợc nhiều

thành tựu vì đây là vùngbiên viễn xa kinh thành Thăng Long nên phần nào
giáo hoá cha đợc thấm nhuần, giáo dục thi cử cha đợc coi trọng.
Từ thế kỷ XV trở đi nhờ vai trò quan trọng trong kháng chiến chống
Minh rồi giúp Lê, Trịnh chống Mạc (thế kỷ XVI) giúp chúa Trịnh trong chiến
tranh Trịnh Nguyễn (thế kỷ XVII) nên Nghệ Tĩnh gắn bó với triều đình LêTrịnh và do đó có quan hệ chặt chẽ với Thăng Long. Từ đó Nghệ Tĩnh có điều
kiện phát triển văn hoá giáo dục ,trở thành đất văn vật nổi tiếng trong cả nớc .ở
Nghệ An bắt đầu có trờng thi riêng từ thời Lê sơ mở ra nhiều cơ hội cho sĩ tử
Nghệ Tĩnh tranh nhau đua tài.
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

15




Luận văn tốt nghiệp

Ngời khai khoa cho huyện Nghi Xuân là Phạm Ngữ ,dù lúc đó ông
đang ở làng Phù Ninh huyện Đông Ngàn - Kinh Bắc. Phạm Ngữ đỗ đệ nhị giáp
( Tiến sĩ ) khoa Quý Mùi (1463) năm Quang Thuận Lê Thánh Tông .Con đờng
làm quan của Phạm Ngữ thuận lợi . Ông làm đến chức Thiêm đô ngự sử.
Tiếp theo đà có nhiều ngời Nghi Xuân đỗ đạt, thành danh .Theo Nghi
Xuân địa chí trong hàng Tiến sĩ bao gồm các nhà khoa bảng sau đây :
Triều Lê sơ :
1. Hoàng Ngạn Chơng ở xà Mỹ Dơng ( Xuân Mỹ ngày nay ) trú ở thôn
A Bì (xà Xuân Giang ) đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ ,khoa Đinh Mùi (1487) năm
Hồng Đức Lê Thánh Tông .Làm quan đến chức Thừa chánh sứ .Ông xin từ
chức ,về ở ẩn tại núi Liêu Đông .

2. Hoàng Ngọc Huấn ở xà Mỹ Dơng đỗ đệ nhị giáp (Hoàng giáp )
khoa Quý Sửu (1493) đời Hồng Đức , làm quan đến chức Tham chánh.
3.Trần Bảo Tín ngời xà Khải Mông (Xuân An ) đỗ đệ nhất giáp đệ nhị
danh ( Bảng nhÃn ) khoa Tân Mùi (1511) đời Hồng Thuận Lê Tơng Dực .Làm
quan đến chức Đông các hiệu th. Nhà Mạc cớp ngôi nhà Lê ông bỏ quan về ở ẩn
tại núi Lần (trong dÃy núi Hồng Lĩnh thuộc xà Xuân An ). Đời Lê Trung Hng
ông đợc phong phúc thần .
4. Phan Chính Nghị tên tự là Mạc Phủ ,tên hiệu là Liệt sơn tử ,ngời xÃ
Phan Xá trú ở xà Xuân Mỹ .Đỗ đệ nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Tân Mùi đời Hồng
Thuận Lê Tơng Dực .Đỗ cùng khoa với Trần Bảo Tín làm quan đến chức Cấp sự
trung bộ Lại .Ông cũng không quy thuận nhà Mạc mà về quê ở ẩn ,sau bị nhà
Mạc ép buộc ông tuẫn tiết .Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chơng loại chí
đà nhận xét ông là bề tôi tiết nghĩa .Ông cũng đợc phong là phúc thần
Triều Mạc
5.Phan Cảo ở xà Phan Xá (Xuân Thành) đỗ đệ nhị giáp (Hoàng giáp)
khoa Mậu Tuất (1538) làm quan đến chức Hiến sát sứ ,bị chết trận đợc nhà Mạc
phong tớc Văn trung bá.
6.Nguyễn Đồng Dần ở xà Tam Đăng hạ (Xuân Hồng )đỗ đệ tam giáp
(đồng Tiến sĩ ) khoa Nhâm Tuất (1562) đời Quang Báu nhà Mạc (Mạc Phúc

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

16




Luận văn tốt nghiệp


Nguyên )làm quan đến chức Tham chính.Ngời vùng này gọi ông là Linh Khê tiên
sinh
Triều Lê Trung Hng
7.Lê Văn Xơng ở xà Tiên Bào (Xuân Yên ) trú ở xà Xuân Phổ .Đỗ đệ
nhị giáp (Hoàng giáp ) khoa Êt Sưu chÕ khoa ( 1565 ) ®êi Lê Anh Tôn . Ông làm
quan đến chức Hiến sát sứ
8. Nguyễn Bật LÃng ở xà Cơng Gián ,đỗ đệ nhất giáp chế khoa ( Thám
hoa ) khoa Đinh Sửu ( 1577 ) đời Gia Thái Lê Thế Tôn . Làm quan đến chức T
Khanh
9.Thái Danh Nho tên huý là Thang ở xà Quả Phẩm . Đỗ đầu bốn kỳ
hạch ở huyện , đỗ thi hơng năm 23 tuổi . Thi Hội năm Canh Thìn đời Vĩnh Trị
( 1680 ) đỗ thứ 16 . Thi Đình xếp thứ 11 , đệ tam giáp ( đồng Tiến sĩ ) , làm quan
đến chức Tả tham chính
10. Lê Đăng Truyền tên huý là Sum , hiệu là Lạc Xuân ở xà Tiên Bào
trú ở xà Tả Ao con trai tri huyện Đăng Tiền , đỗ đệ tam giáp ( đồng Tiến sĩ )
khoa thi Mậu Tuất ( 1718 ) . Đơng thời ông rất giỏi thơ văn đợc tôn là một trong
số “ NghƯ An tø hỉ ”
11. Ngun NghiƠm tªn tù là Hy T , tên huý là Thiều , hiệu là Nghị
Hiên ở xà Tiên Điền . Đỗ đệ nhị giáp ( Hoàng giáp ) khoa thi Hội năm Tân Hợi
( 1731 ) đời Vĩnh Khánh Lê Phế Đế . Ông lập đợc nhiều công trạng và khá thành
công trên con đờng danh vọng .
12. Nguyễn Huệ tên tự là Hy Hoà , hiệu là Giới Hiên anh ruột Xuân
Nhạc Công (Nguyễn Nghiễm ) . Năm Kỷ Dậu đời Vĩnh Khánh đỗ thứ 3 thi hơng , năm đó ông 25 tuổi . Năm Nhâm Tý đời Long Đức , thi đỗ khoa hoành từ ,
phúc khảo đúng thể thức đợc xếp hạng thứ 4 , bổ làm Văn chức nội thị rồi ra làm
quan tri huyện La Sơn . Khoa Quý Sửu thi Hội đỗ đệ tam giáp ( Tiến sĩ ) năm
1773 . Mất năm 29 tuổi tại quê nhà .
13. Nguyễn Khản tên tự là Hy Trực hiệu là Thuật Hiên , biệt hiệu là
Lâm Sơn c sĩ , là con đầu của Xuân Nhạc công ( Nguyễn Nghiễm ) . Năm Quý
Dậu đỗ đầu thi hơng , khoa Canh Thìn 1760 năm Cảnh Hng đời Lê Hiển Tông thi

Hội , thi Đình ông đều trúng thứ 2 đệ tam giáp ( đồng Tiến sĩ ) . Năm đó ông 27
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

17




Luận văn tốt nghiệp

tuổi . Con đờng hoạn lộ của Nguyễn Khản khá thuận lợi . Ông đợc chúa Trịnh
Sâm tin yêu . Trong dân gian đà có nhiều giai thoại về mối quan hệ của hai ngời .
Nguyễn Khản từng giữ các chức nh Tả t giảng , Nhập thị Bồi tụng , Thợng th bộ
Lại . Khi ông mất đợc ban tên thuỵ là Hoành Mẫn , truy phong Xiên Văn dơng
võ phụ đức đại vơng , thợng đẳng thần . Ông là ngời giỏi thơ văn , thích nhạc
hoạ . Ngời đơng thời gọi ông là phong lu đại thần
Ngoài ra tính từ triều Lê sơ đến trớc triều Nguyễn (1802) Nho sĩ Nghi
Xuân còn góp mặt trong hàng ngũ những ngời đậu Hơng cống một cách khá
đông đảo . Theo Nghi Xuân địa chí có tới 92 ngời đỗ đạt và đợc bổ dụng . Đó
là nguồn nhân lực to lớn , dồi dào giúp các bậc minh quân trị quốc , bình thiên
hạ
Nhìn vào danh sách những ngời đạt học vị Tiến sĩ và đỗ Hơng cống ở
Nghi Xuân trong giai đoạn này ta có thể thấy rằng cùng với sự phát triển của lịch
sử dân tộc nhân tài Nghi Xuân càng nở rộ . Đến cuối thế kỷ XVIII đất Nghệ Tĩnh
đà theo kịp các vùng ngoài Bắc , trở thành một trong những trung tâm đào tạo
nhân tài cho cả nớc . Riêng Nghi Xuân trong khoảng thời gian này đà có tới 14
ngời đạt học vị Tiến sĩ , đó là một con số đáng kể cho thÊy sù ph¸t triĨn cđa gi¸o
dơc khoa cư ë xø này . Nhiều ngời trong số đó đà đợc bổ các chức quan cao , có

nhiều cống hiến cho đất nớc . Đối với thời nhà Mạc thái độ của sĩ tử Nghi Xuân
phần lớn không đồng tình ủng hộ . Dới triều Mạc chỉ có hai ngời ra làm quan là
Phan Cảo và Nguyễn Đồng Dần . Sử sách đà lu truyền những câu chuyện về các
Nho sĩ nh Trần Bảo Tín , Phan Chính Nghị . Vì vậy đến thời Lê Trung Hng sĩ tử ồ
ạt đem sức mình cống hiến cho triều đại này , mở đầu cho thêi kú ph¸t triĨn rùc
rì cđa gi¸o dơc khoa cử Nghi Xuân .
Vốn sinh trởng trên mảnh đất cằn khô , khắc bạc nên con ngời Nghi
Xuân càng có tinh thần khổ học , có ý chí vơn lên . Để có những thành tựu nh
vậy ngay từ thời kỳ đầu việc học ở xứ này đà rất đợc coi trọng :
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
Câu ca giao ấy lu truyền trong dân gian đà góp phần tôn vinh vị trí của
ngời thầy và tinh thần tôn s trọng đạo của ngời dân Nghi Xuân . Do vị trí xa
sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

18




Luận văn tốt nghiệp

cách kinh thành Thăng Long nên chủ yếu ở Nghi Xuân là hệ thống trờng t . T
liƯu vỊ hƯ thèng trêng häc ë Nghi Xu©n tríc triỊu Ngun rÊt hiÕm hoi . Theo
Chu Träng Hun v× ở đây trọng việc học và có nhiều ngời đỗ đạt nên đà sớm
xây dựng Văn Miếu . Xa Văn Miếu đặt ở xà Xuân Viên . Thời Lê Thần Tông
niên hiệu Long Đức ( 1732 1735 ) nhà vua sai quan đại thần về làm lễ tế trớc
Văn Miếu này . Đến triều Lê ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) Xuân

Nhạc Công Nguyễn Nghiễm cho dời Văn Miếu về xà Tiên Điền . Ngời trong
huyện ai đỗ đạt th× nép 3 quan , mn cã chøc hiƯu sinh thì nộp 10 quan . Ngoài
ra ở Nghi Xuân còn có hội T Văn làm nơi gặp gỡ của các Nho sĩ , nơi đón rớc
những ngời đỗ đạt Văn Miếu trở thành nơi sinh hoạt văn hoá góp phần duy trì ,
phát triển thuần phong mĩ tục của một vïng ” [16 ,174] .
ë Nghi Xu©n nhiỊu Nho sÜ sau khi đỗ đạt thành danh trở thành thầy
dạy học . Có thể kể đến thầy Trần Bảo Tín . Sau khi đỗ đạt do không quy thuận
nhà Mạc nên ông về quê ở ẩn và mở trờng dạy học . Đó là trờng Quan Bảng .
Ông dạy học trò chỉ vì một chữ nghĩa nên ông đợc tôn là nghĩa s . Ông
không dạy học trong làng mà đem học trò lên núi giảng sách ,làm văn ở đó nên
núi Đôn Lâm cũng đợc coi là rú Quan Bảng . Ngoài ra ở Nghi Xuân còn có các
Nho sĩ nh Nguyễn Viết Tuyển đỗ thi hơng , giữ chức huấn đạo . Trần Hữu Lộc ở
xà Tam Đăng thợng đợc tôn là tổ s . Thái tham chính ngời xà Quả Phẩm là học
trò của ông . Nguyễn Đăng Bảng ở xà Đan Hải , Trần Uẩn Tịch ngời xà Đan Phố
cũng đều là những thầy giáo có nhiều học trò đỗ đạt . Thôn Báu Kệ tôn Lê Hằng
Quy làm tổ s . Các ông nh Phan Đăng Thuyên , Đậu Minh Dơng ,Phạm Kiều
Dơng ,Hà Thúc Đạt đều là học trò của thầy đồ này .
Qua đó ta thấy việc dựng trờng ,mở lớp ở Nghi Xuân đà có từ lâu đời .
Những ngời thầy giáo vừa có tâm huyết vừa có học vấn đà đào tạo ra một đội ngũ
Nho sĩ giúp ích cho dân cho nớc , làm rạng rỡ việc giáo dục khoa cử ở Nghi Xuân
.
Sản phẩm của nền giáo dục chính là kẻ sĩ . Tiêu biểu cho thời kỳ trớc
triều Nguyễn ở Nghi Xuân là Nguyễn Nghiễm . Ông sinh ngày 14 tháng giêng
năm Mậu Tý niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4 triều Lê Dụ Tông ( tức ngày 06 / 03 /
1708) tại thôn Võ Phấn xà Tiên Điền huyện Nghi Xuân .
sinh viên:

Hồ Thị H¬ng Ly

19





Luận văn tốt nghiệp

Ngay từ thuở thiếu thời Nguyễn Nghiễm đà bộc lộ thần thái trong sáng
thông minh hết mực , nổi tiếng là thần đồng . 5 tuổi ông đà biết đọc sách , lên 10
tuổi đà thuộc lòng kinh sử , 16 tuổi đỗ đầu huyện và đỗ Hơng cống . Năm Vĩnh
Khánh Lê Phế Đế ông đỗ đệ nhị giáp ( Hoàng giáp ) năm đó ông mới 24 tuổi .
Làm quan trải trong triều ngoài trấn , công việc làm giỏi có tiếng tăm .[22,10]
Từng làm Nhập thị kinh diên rồi Tổng tài Quốc sử quán kiêm Tế tửu Quốc tử
giám , kiêm Ngự sử đài . Năm 1761 đợc thăng Thợng th bộ Công , kiêm chức
Tham tụng (Tể tớng ) . Năm 1762 đợc thăng hàm Thiếu bảo , tớc Xuân quận
công . Khi ông mất đợc tấn phong Xuân Nhạc công ,gia tăng thơng đẳng phúc
thần, bao phong Đại Vơng.
Nh vậy con đờng công danh của Nguyễn Nghiễm khá hanh thông .
Xét các sách chép về ông đủ rõ ông là ngời có sự nghiệp rạng rỡ , phúc lộc nối
đời . Nguyễn Nghiễm chẳng những đợc ngời đơng thời trọng vọng mà Phan Huy
Chú cũng coi ông là ngời phò tá có công lao và tài đức . Theo nhà sử học họ
Phan ông trải ba triều vào làm tớng văn ,ra làm tớng võ ,ở ngôi tể tớng 15
nămxếp đặt gọn mọi việc bề bộn Ân vơng khen là ngời có đức vọng và tài trí
. [6,24]
Sự nghiệp của ông thể hiện trên mọi lĩnh vực về chính trị ông trở thành
rờng cột của quốc gia ,là chỗ dựacủa nhà vua và trièu đình.15 năm làm việc trong
điện Kinh diên bằng tài năng và tính thẳng thắn gan dạ của mình ông đà phần
nào giữ đợc kỷ cơng phép nớc ,giúp nhà Lê thoát khỏi vòng sụp đổ .Những lời
can gián của ông phần nào cho chúa Trịnh phải e dè, âm mu thù nghịch phế truất
bị thất bại .
Về kinh tế ông chủ trơng yên dân , cụ thể hoá bằng việc tổ chức dân

khai hoang phục hoá ở Nghệ An ,Thanh Hoá, Sơn Nam.Ông cũng hoàn thành hệ
thống dịch trạm từ Thăng Long vào đến Nghệ An và lên tận Lạng Sơn giúp cho
việc thông tin liên lạc đợc dễ dàng và làm phơng tiện hoạt động từ kinh đi các
trấn.Đồng thời ông đôn đốc nhân dân địa phơng đào con kênh nhà Lê kéo dài từ
Thanh Hoa vào đến chân Đèo Ngang làm con đờng thuỷ huyết mạch phục vụ
kinh tế và quốc phòng.

sinh viên:

Hồ Thị Hơng Ly

20



×