Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NH đầu tư và phát triển bắc Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.31 KB, 94 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên thế
giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được .
Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có những chính
sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực hiện có
của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hao của thế giới
.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức quan
trọng , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế
của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường tài chính là
Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị
trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi bản thân hệ
thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không ổn định thì nó sẽ
phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến làm suy giảm nền
kinh tế .
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là:
Nhận tiền gửi , hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán , hơn nữa nó là nguồn sinh
ra lợi nhuận nhiều nhất cho Ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ thống Ngân
hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng cũng phải ổn
định và hiệu quả .
Xuất phát từ quan điểm đó mà em đã chọn đề tài nghiên cứu là :
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ”.
Với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ,
một Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm cùng với số liệu thống kê từ năm
2000 trở lại đây em hy vọng rằng mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé nào đó của
mình vào công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm:
ChươngI : Tín dụng Ngân hàng và chất lượng của tín dụng trong nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa .
Trang 1


ChươngII: Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
&Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng .
ChươngIII: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà Nội
trong những năm trước mắt .
Qua chuyên đề này em xin gửi lời cảm ơn đến các Cô, Bác, Anh , Chị phòng tín
dụng và các phòng ban khác của Chi nhánh . Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn
thầy giáo Lục Diệu Toán đã giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt
chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Sinh viên
TRẦN QUANG HUY
Trang 2
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I . TÍN DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.
1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA TÍN DỤNG.
1.1.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu trong tất cả
các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì tốc độ
quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ thể kinh tế
không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa vào các chủ
thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ tín dụng mới có
thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể nói cơ sở hình thành
và phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tưởng và nhu cầu về vốn trong nền
kinh tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu ra một khái niệm chung về
quan hệ tín dụng như sau :
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời và

dựa trên nguyên tắc hoàn trả tin tưởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ
xảy ra trong thời gian nhất định và phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau.
Nói chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu khác nhau về
tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam đã đưa ra
định nghĩa về hoạt động tín dụng như sau:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động để
cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách
hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay , chiết
khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác .
Dù đứng trên quan điểm như thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín dụng
không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngườn cho vay chỉ nhường quyền sử
dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không nhường quyền
Trang 3
sở hữu và người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến hạn đã thoả
thuận . Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà còn được tăng
thêm dưới hình thức lãi suất.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ tín dụng
Xuất phát từ cơ sở hình thành cũng như khái niệm về quan hệ tín dụng ta có thể
đưa ra một số đặc điểm về quan hệ tín dụng như sau:
- Trong quan hệ tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu mà chỉ thay
đổi quyền sử dụng trong một thời gian nhất định .
- Giá cả trong quan hệ tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
- Người cho vay nhận được thu nhập dưới hình thức lãi suất . Lãi suất là giá cả
của quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá cả trong quan hệ tín
dụng không ngang bằng với giá trị mà giá cả trong quan hệ tín dụng là biểu
hiện bằng tiền của giá trị quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định
- Thời gian được xác định trên cơ sở giữa người đi vay và người cho vay.
- Quan hệ tín dụng được dựa trên yếu tố tin tưởng .
1.2.Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.

Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng được
hình thành và phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị
trường tài chính tiền tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế thị
trường tiền tệ là một phạm trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá là
yếu tố cần thiết của quá trình sản suất . Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ tham
gia vào quá trình tuần hoàn vốn . Trong quá trình đó phát sinh tình trạng tạm thời
nhàn rỗi và tạm thời thiếu vốn ở các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế .
Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trường, điều
này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện và
khẳng định mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh đòi
hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động; Khoa
học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu
tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua được máy móc thiết bị , vây
dựng nhà xưởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê được lao động , đào tạo được đội
Trang 4
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn. Nhưng rõ ràng là với số
vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ không thể đảm bảo được tất
cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong nguồn vốn của doanh nghiệp
luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng
được hình thành một cách khách quan trong chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế
trong nền kinh tế thị trường , chỉ có quan hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng được
nhu cầu của nền kinh tế nói chung , các doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là
tổ chức tài chính trung gian cung cấp nghiệp vụ đó , đồng thời là người điều hoà
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu góp phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trường ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện tượng:
“ Tạm thời thừa vốn” và “ Tạm thời thiếu vốn “
1.2.2.1. “Tạm thời thừa vốn”.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lượng vốn nhàn rỗi trong
một thời gian nhất định. Điều nay được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền

kinh tế .
- Chính phủ :
Trong nền kinh tế quốc dân việc thu chi xảy ra không đồng thời, thông
thường các khoản thu nhập thì tạp trung theo định kỳ còn các khoả chi thì được
phân bổ dần dần nên trong một khoảng thời gian nhất định sẽ xuất hiện số tiền
nhàn rỗi từ Ngân sách nhà nước
- Các doanh nghiệp :
Nguồn thu của các doanh nghiệp và nguồn chi của các doanh nghiệp có sự
không thống nhất về mặt thời gian vì những lý do: Hàng hoá sản xuất ra đã tiêu
thụ được ; Lương của các công nhân chưa đến hạn trả; Tiền chưa phải trả do mua
chịu hàng hoá; Dự trữ của doanh nghiệp ; Chưa phải thực hiện nghĩa vụ tài chính
và trả lãi suất Ngân hàng ; Các quỹ chưa được sử dụng ; Lợi nhuận của doanh
nghiệp ... Điều này dẫn đến các doanh nghiệp luôn có một lượng vốn nhàn rỗi
trong một thời gian nhất định.
- Cá nhân người tiêu dùng:
Trong hoạt động sản suất kinh doanh , các cá nhân trong xã hội sẽ nhận được
phần thu nhập của mình dưới các hình thức : tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, lợi
Trang 5
nhuận thu được ... Một phần của các phần thu nhập này không chỉ tiêu dùng ngay
mà còn để dành tiêu dùng trong tương lai . Phần tiền để dành này hình thành
lượng vốn tiền tệ nhàn rỗi rất lớn trong nền kinh tế
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ nước ngoài:
Mỗi quốc gia vì lí do như là muốn tham gia vào các tổ chức quốc tế hay là để
đảm bảo an toàn cho nên kinh tế cũng như ổn định đồng tiền trong nước họ
thường giữ một khoản tiền tại các Ngân hàng ở nước ngoài để giao dịch hay một
định chế tài chính quốc tế hoặc có một lượng vốn dồi dào mà không đêm đầu tư
tiếp . Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến mỗi quốc gia đều có một
tài khoản của mình ở nước ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã tạo nên
một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian nhất định.
1.2.2.2. “ Tạm thời thiếu vốn”.

Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lượng tiền mặt tạm thời
để trang trải cho những hoạt động kinh tế trước mắt đòi hỏi phải chi tiền mặt . Và
điều này được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một đất
nước , Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng , các công
trình mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà tư nhân không có đủ khả
năng và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu tư chính phủ lấy từ Ngân sách nhà
nước (NSNN), nhưng đôi khi NSNN không đủ vì chưa đến hạn thu thuế dẫn đến
sự thiếu vốn đấu tư Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh
dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh nghiệp lại là
một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp này
thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được hàng, chưa thu được
tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ , phải trả lương ... Dẫn
đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn.
- Cá nhân:
Trang 6
Người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thường hoặc những
khoản chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhưng họ có khả năng bù
đắp những thiếu hụt đó trong tương lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu dùng
của cá nhân .
Từ sự phân tích ở trên ta thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu cho
vay và đi vay . Hai nhu cầu này có đặc điểm chung là đều nhằm thoả mãn nhu
cầu hiện tại của các chủ thể kinh tế và nó xảy ra trong thời gian ngắn. Khác nhau
ở cho vay và đi vay là quyền sở hữu, người cho vay vẫn có quyền sở hữu đối với
khoản tiền cho vay còn người đi vay chỉ có quyền sử dụng đối với khoản tiền
được vay trong khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên. Để giải quyết vấn đề “
Tạm thời thừa vốn “ và “ Tạm thời thiếu vốn “ thì quan hệ tín dụng ra đời và

nó không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng.
2.1. Chức năng của tín dụng.
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
- Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức cho
vay.
- Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý
doanh nghiệp với các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
2.2. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp:
Một nhóm “ tạm thời thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời
trong một thời gian nhất định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn tìm kiếm
nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà
cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản
xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng
một cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Trang 7
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một
nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá
thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn
như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín
dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng
nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua
quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có

được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương thức
vay trả góp.
Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng
lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các Ngân
hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên
trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng và chiếm
tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ
yếu cho Ngân hàng.
Ứng với mỗi tiêu thức khác nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta có
thể dựa trên những tiêu thức sau:
- Theo kỳ hạn nợ.
- Theo mục đích sử dụng vốn.
- Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
- Theo phương pháp hoàn trả .
- Theo loại hình tiền tệ.
3.1.1. Theo kỳ hạn nợ.
Trang 8
Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thương mại(NHTM) được phân làm ba
loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
- Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu
hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân. Khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
+ Cho vay mua hàng dự trữ.

Từ trước tới nay, ngân hàng thường cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung tạm
thời vốn hoạt động. Trên thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới thứ II, ngân hàng
chủ yếu tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới hình thức các khoản cho
vay mang tính tự thanh toán (self-liquidating loans). Các khoản cho vay này chủ
yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô ... Các
khoản cho vay như vậy tận dụng được chu kỳ tiền mặt thông thường trong một
hãng kinh doanh như sau:
1. Tiền mặt được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành
phẩm hoặc thành phẩm.
2. Hàng hoá được sản xuất hoặc dữ trữ để bán.
3. Hàng đã bán(thường là bán chịu).
4. Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu)
và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng cần
vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày)
khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo
dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng để mua
hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm gần giống
với các khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức sản
xuất và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ một
hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh vào mùa thu
Trang 9
và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các khoản tín dụng ngắn
hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê thêm công nhân nhằm tăng
sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 8 đến
tháng 12 . Ngân hàng của hãng lập ra một hạn mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9
tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy

mô của hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất
mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng
tín dụng.
Thông thường các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các khoản
phải thu hoặc thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi suất thả
nổi trên lượng tiền thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết được tính trên
phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi tính trên toàn bộ giá trị
của hạn mức. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có số dư bù tiền gửi. Số
dư bù tiền gửi bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được xác định trên cơ sở
quy mô hạn mức tín dụng và một lượng tiền gửi bắt buộc bổ xung bằng một tỉ lệ
phần trăm quy định trên tổng lượng tín dụng mà khách hàng thực sử dụng.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thương
mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn phòng,
trung tâm thương mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình
kéo dài nhưng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời. Các khoản cho vay này
cung cấp vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây dựng, mua vật
liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi
công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác, để lấy tiền thanh
toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế chỉ khi Công ty xây
dựng chắc chắn có một cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho
các dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các
khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. Gần đây một vài ngân hàng đã cho vay với
thời hạn khá dài 5 đến 7 năm, cung ứng vốn cho việc xây dựng và hoạt động trong
giai đoạn đầu của công trình.
+ Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Trang 10
Những người kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán tư nhân
thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục
đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến

hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối với người
kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng cao, thường
được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh chứng khoán nắm
giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn, chỉ là
vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn
hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng trở nên
căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức ngân
hàng đầu tư. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ phiếu công ty
và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán thường diễn
ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại công ty khác, giúp
đỡ Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy
mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư
mới. Khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn
thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ
dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các
khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp
đồng bán trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét.
Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với
một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng
của vật thế chấp và thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền
khác Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch sản
xuất. Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ có thể yêu cầu hãng sản
xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản vay như vậy có kỳ hạn 90 ngày và
sau đó nó có thể được tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài tháng. Để có
Trang 11
được khoản tín dụng này người bán lẻ phải ký hợp đồng bảo đảm an toàn cho

phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp họ không thể thanh
toán khoản vay. Sau đó, nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và
gửi đơn thanh toán cho ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ đến kiểm tra
hàng hoá trong kho của người bán lẻ để xác đinh lượng hàng đã được bán và
lượng hàng tồn kho. Sau khi bán được hàng hoá, người bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân
hàng để thanh toán dần khoản nợ cho ngân hàng.
Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất kỳ một hàng hoá nào đã được bán mà
ngân hàng không nhận được tiền thanh toán thì cán bộ ngân hàng sẽ yêu cầu
người bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu người bán lẻ không
thanh toán được, ngân hàng có thể buộc thu hồi hàng và trả một phần hoặc toàn bộ
số hàng đó cho nhà sản xuất kinh doanh để thu hồi số vốn cho vay. Hợp đồng kế
hoạch sàn thương bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín dụng, tích luỹ các
khoản lãi thu được khi người vay trả tiền.
Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không được
hoàn trả. Khi dự phòng tổn thất tín dụng đạt tới mức định trước, người bán lẻ sẽ
được giam trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
+ Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín
dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng được dự tính sẽ chuyển
thành tiền mặt trong tương lai. Ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho
vay ngắn hạn. Tài sản chủ yếu được dùng để bảo đảm cho các khoản vay bao gồm
các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay
theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu, hoặc
trên giá trị hàng tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng cho vay một khoản tiền
bằng 70% khoản phải thu trên tài khoản thanh toán vãng lai của doanh nghiệp.
Một cách khác ngân hàng có thể cho vay tới 40% giá trị hàng tồn kho hiện tại của
doanh nghiệp gồm hàng hoá đang bán hoặc hàng hoá trong kho. Khi thu hồi được
các khoản phải thu hoặc bán được hàng doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền
mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền vay.
Trang 12

Đối với hầu hết những khoản vay được thế chấp bằng các khoản phải thu hay
hàng tồn kho doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với các tài sản đó.
Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để hạn
chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính.
- Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và
có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để đáp
ứng nhu cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải có quy
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.
+ Cho vay theo dự án.
+ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
3.1.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Hoạt động cho vay bao gồm: Cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
- Cho vay tiêu dùng:
Là loại cho đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm nhà
cửa, xe và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng rất phát
triển ở các nước Âu Mỹ. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở nước ta
nhưng áp dụng còn rất hạn chế bởi mức sống trung bình của người dân chưa cao,
việc thanh toán bằng thẻ đang được chú trọng nhưng chưa thực sự phát triển, hiểu
biết của người dân về loại hình tín dụng này chưa nhiều.
- Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Là hoạt động cho vay đối với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Hoạt động cho vay này đã xuất hiện từ rất sớm và rất phát

Trang 13
triển trên thế giới, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại.
3.1.3. Theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Trong cho vay, để giảm thiểu rủi ro, tổn thất có thể xảy ra cho Ngân hàng đối
với những khách hàng không thực hiện đúng cam kết thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa Ngân hàng và khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu các khoản cho vay
phải có bảo đảm. Việc bảo đảm đối với khoản vay là rất cần thiết bởi một mặt với
doanh nghiệp sẽ phải có ý thức hơn trong kinh doanh và trả món nợ, mặt khác đối
vơi ngân hàng việc có bảo đảm đối với các khoản vay của doanh nghiệp tạo nên tâm
lý yên tâm hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm và do đó cũng có nhiều loại
cho vay theo hình thức bảo đảm khác nhau như cho vay cầm cố, cho vay thế chấp,
cho vay bảo lãnh....
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và
không có bảo đảm.
- Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
- Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà
dựa trên uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách hàng
được ngân hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng truyền
thống của ngân hàng có uy tín và độ tin cậy cao.
3.1.4 Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại:
- Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và lãi
theo định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn trả có
thể hàng tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.
- Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
3.1.5 Theo loại hình tiền tệ.

- Cho vay bằng ngoại tệ.
- Cho vay bằng nội tệ.
Trang 14
- Cho vay bằng vàng.
3.2 Hoạt động cho thuê tài chính(Leasing).
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê.
Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đông thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên
không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. Ở Việt nam hoạt động này đã phát triển
nhanh chóng trong những năm gần đây và nó đã trở thành nguồn quan trọng để các
doanh nghiệp có thể tiếp cận được công nghệ mới.
3.3 Hoạt động bảo lãnh
Theo quy chế về bảo lãnh Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Viết nam ban
hàng ngày 25/08/2000, bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức
tín dụng( bên bảo lãnh) với bên(nhận được bảo lãnh) có quyền về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận
bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã
được trả thay.
3.4 Hoạt động chiết khấu
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua lại thương phiếu , giấy tờ có giá
ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Trong hoạt động này có một hoạt động đáng chú ý đó là hoạt động tái chiết
khấu. Hoạt động tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Tại Việt
nam do việc kém phát triển trong việc phát hành và lưu thông các thương phiếu
cũng như các giấy tờ có giá khác, nên hoạt động này mặc dù đã xuất hiện nhưng
chưa phát triển mạnh. Hoạt động chiết khấu tại Ngân hàng thương mại chủ yếu
được tiến hành với trái phiếu Chinh phủ hoặc trái phiếu , kỳ phiếu của các Ngân

hàng thương mại quốc doanh.
Trang 15
Hoạt động tín dụng có nhiều nghiệp vụ như vậy nhưng trong chuyên đề nghiên
cứu này ta chủ yếu đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay ngắn hạn của Ngân hàng.
Vì vậy từ giờ trở đi ta thống nhất một thuật ngữ tín dụng ngắn hạn là để chỉ hoạt
động cho vay ngắn hạn.
II. QUY TRÌNH PHÂN TÍCH TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách
hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các
bước(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan
trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín dụng.
Nội dung chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm
năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ,
quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông tin
qua các trung gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác của
người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo của
người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ có được những thông tin về khách
hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải xử lý được các
thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những thông tin mà
Ngân hàng có được.
Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:
- Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là điều
quan trọng đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của khách
hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi
khách hàng mất khả năng sinh lời. Khi đánh giá tài sản của khách hàng thì
Ngân hàng tập trung vào: Ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng tồn kho, tài
sản cố định.

- Đánh giá các khoản nợ của khách hàng là một công việc quan trọng mà Ngân
hàng cần phải làm bởi vì thông qua việc đánh giá các khoản nợ mà Ngân hàng
biết được tình khả năng tài chính của khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng
Trang 16
biết được vị trí của mình trong các chủ nợ. Nếu Ngân hàng giành được vị trí
quan trọng nhất thì nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
- Phân tích luồng tiền: Thông qua việc xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập
quỹ(gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền nhập quỹ từ
hoạt động đầu tư, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường) và dòng tiền
thực xuất quỹ( gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng
tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất
thường) Ngân hàng có thể biết được tình trạng ngân quỹ của khách hàng trong
tháng, quý, hay năm. Từ đó Ngân hàng có thể thiết lập kế hoạch thu nợ, giải
ngân hợp lý, nâng cao chất lượng khoản vay.
- Sử dụng các tỷ lệ như: Nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời để đánh giá
khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn và
khả năng tạo lợi nhuận của người vay.
- Các điều kiện kinh tế: Có thể thấy nghĩa vụ của khách hàng đối với Ngân hàng
đều xảy ra trong tương lai vì thế khả năng hoạt động kinh doanh của khách
hàng trong tương lai được Ngân hàng đặc biệt quan tâm phân tích. Thời hạn
càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh
tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng
kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành... làm thay đổi các tính
toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng.
Bươc 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài
trợ(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng(hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian
và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định
quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các

điều khoản của các luật, các quy định. So vậy, cả Ngân hàng và khách hàng phải cân
nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng gồm những khoản mục chính là: Họ tên, địa chỉ
của khách hàng; mục đích sử dụng vốn; số lượng tín dụng; lãi suất; phí; thời hạn tín
Trang 17
dụng; các loại bảo đảm; kế hoạch giải ngân; điều kiện thanh toán và các điều kiện
khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền
cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát
khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình sản
xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua
lỗ hay không?... Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm thông tin về khách
hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang
được bảo đảm. Ngược lại khi các khoản vay bị đe doạ Ngân hàng có các biện pháp
sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu
bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung
tài sản thế chấp, giảm số tiền vay... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng.
Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông
tin ở bước 1 và ra quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng
xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Ngoài những
khoản tín dụng được đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn còn có những khoản nợ quá
hạn đòi hỏi Ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân để kịp thời đưa ra những quyết định
mới liên quan đến tín an toàn của tín dụng.
- Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa,
hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng
phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi được
khoản nợ, bao gồm phong toả, bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản

tiền gửi...
- Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách
khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm
gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG.
Trang 18
1. Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn
đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân hàng.
Tuy vậy để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không phải là dễ, bởi
lẽ mỗi khái niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu trên quan điểm nào.
Như ta đã biết mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về chất
lượng tín dụng.
1.1. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch
vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Mục
tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá
trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá chất lượng
tín dụng của ngân hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương
thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp có
thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một
cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản tín dụng đó được coi là có chất
lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn
nhu cầu của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời
hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ...
1.2 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.

Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải
hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì
càng tốt. Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp khác là
Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với 3
nghiệp vụ cơ bản: Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì thế theo
quan điểm của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu thành cơ bản
đó là mức độ an toàn của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang
lại.
Trang 19
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả năng
sinh lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nhà đầu
tư là phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên tắc đánh
đổi giữa rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng cao thì sẽ có
khả năng sinh lợi càng cao và ngược lại.
Hơn nữa hoạt động của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro bởi lẽ số tiền
ngân hàng cho vay có tới hơn 50% là nguồn vốn ngoài vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu
như Ngân hàng không cân nhắc thận trọng thì sẽ lâm vào tình trạng “ Mất khả năng
thanh toán “.
Đối với Ngân hàng, một khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao khi khoản tín
dụng đó đến hạn thanh toán thì sẽ hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi. Do đó theo quan
điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín dụng là
một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động
tín dụng Ngân hàng.
1.3 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế
trong nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo
chiều sâu...sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy đứng
trên quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng
là: Sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng
của Ngân hàng đem lại.

2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm.
Nó là ngành mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời nó cũng là
ngành chịu nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi
ro tín dụng và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng
mất khả năng thanh toán của Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc
khủng hoảng tài chính trên thế giới... Có thể nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế
giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng
không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách hàng mà còn đối với toàn
xã hội nữa.
Trang 20
Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ
vốn của mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm
bảo chất lượng cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là
một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam
hiện nay không còn là cái bóng của Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở
thành một chủ thể kinh doanh độc lập, tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách
nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà Ngân hàng không
thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một
nền kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi
tư tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc
làm ăn của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng
cao chất lượng tín dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các
doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh
doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ
của mình như dịch vụ tư vấn...giúp doanh nghiệp tránh khỏi được những rủi ro
không đáng có.
Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu
cần thiết cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân

hàng duy trì hoạt động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục
tiêu trên, Ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
Về phía nhà đầu tư: Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và
người vay tiền. Người gửi tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân
hàng mà khả năng thanh toán của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất
lượng của các khoản tín dụng vì vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là
vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào
Ngân hàng. Người vay tiền là người trực tiếp sử dụng giá trị sử dụng của các
khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng tín dụng chính là sự thoả mãn
của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao cho khoản tín dụng đó đem
lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có lãi. Bởi thế bản thân
Trang 21
người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết và ngày càng phải
được nâng cao.
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn
đề cần thiết. Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả
các mối quan hệ kinh tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa
với việc nó co hiệu quả đối với Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự
xụp đổ của hệ thống Ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm
cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng cũng được cả xã
hội quan tâm.
3. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
3.1. Nhân tố khách quan.
3.1.1 Môi trường kinh tế xã hội.
Nói đến môi trường kinh tế xã hội là nói đến tổng thể nền kinh tế quốc gia và
thế giới. Như ta đã biết mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong xã hội. Vì thế
môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của Ngân hàng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một

nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản ký thác trong
nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản ký
thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong
những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu
tan, lợi nhuận có thể bị giảm sút, từ đó có thể gây nên tình trạng Ngân hàng không
thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của
Ngân hàng là đường lối chủ trương cuả Quốc gia, địa phương. Lý do chủ yếu để
Ngân hàng được tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng xã
hội. Về mặt lý luận các Ngân hàng chỉ cho người nào vay nếu đưa ra được yêu cầu
xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, phù hợp với chủ trương của Nhà
nước.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu
tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với
Trang 22
sự phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều Ngân
hàng thương mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỷ lệ tăng
trưởng tín dụng vượt quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho
sự nóng vội.
3.1.2. Môi trường pháp lý.
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một
hành lang pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà
nước tác động vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục
tiêu, chế độ của mình. Hoạt động Ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế
trong tổng thể nền kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật
nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng
bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật,
đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng,
phù hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát

với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín
dụng Ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy việc vận dụng thực thi các bộ
luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động
Ngân hàng là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng.
3.1.3 Trình độ quản lý, năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân vay vốn.
Trong khi các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng và quản lý vốn của mình thì Ngân
hàng sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: Đó là giao vốn cho doanh
nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát
doanh nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng chịu nhiều chi phối
từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, tương
lai phát triển của doanh nghiệp ở mức nào? Dự án, phương án sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh
quyết liệt của cơ chế thị trường hay không? Điều này có ý nghĩa quyết định cho số
Trang 23
phận món vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn
vay Ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cho Ngân hàng cả gốc và lãi.
Mức độ chuyển biến về nhận thức quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ có đầy đủ ý thức và trách
nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ
nguồn vốn được cấp , được ưu đãi... Trình độ quản trị điều hành ở mức độ nào? Đã
đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở
nên hưng thịnh phát triển trong khi một doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ suy xụp .
Sự khác biệt này có nguyên nhân xuất phát từ trình độ, chất lượng quản lý.
Như vậy có thể nói việc quản lý sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo
trả nợ Ngân hàng và có lợi nhuận cho doanh nghiệp là điều rất cần thiết đối với các
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng lực sản xuất kinh
doanh tốt, bảo tồn và phát triển vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân
hàng sẽ cao và ngược lại.

3.2 Nhân tố chủ quan của Ngân hàng.
Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong cơ chế thị
trường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng món vay của Ngân hàng.
Chúng ta đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị
trường đang trở thành một không gian trung cho tất cả các nước. Các thị trường tài
chính ở phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội
mới cho Ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt Ngân hàng trước
những thách thức mới. Bởi vậy nếu Ngân hàng nào không nhận thức được điều này,
không tự đổi mới, tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh riêng của mình, có
hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại và phát triển, trong
đó chiến lược con người giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế cho thấy rằng, nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh, nhạy, sáng tạo
trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng đó có
thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín
dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của Ngân hàng đánh giá sai tài sản thế chấp,
lơ là sự giám sát đối với các doanh nghiệp để Ngân hàng gặp rủi ro.
Trang 24
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch hoạ, cơ chế chính sách,
khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ... thì bản thân Ngân hàng phải chịu trách
nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm. Trong đó vai trò của cán
bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các món vay, bởi họ chính là
người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề suất cho vay và theo dõi quản lý thu nợ
của khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín dụng là người, nguồn lực quan trọng nhất
của các Ngân hàng khi tìm nguyên nhân nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi
được.
Như vậy, để có một khoản vay tốt thì cần phải có nhiều điều. Ngoài một báo cáo
tài chình vững mạnh cần có đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật nghiệp vụ,
trực giác nhạy bén sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có
năng lực, thiết lập một cơ chế tổ chức thích hợp thì các Ngân hàng bắt đầu một quá

trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để ngày một nâng cao uy
tín của mình trong xã hội.
4. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
4.1. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá tình hinh, quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng của
Ngân hàng.
Khi cho vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ 3 nguyên tăc đó là:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
- Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên hình thành một quy luật nội tại của tín dụng. Trên
thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc ấy bị
coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này xem nhẹ nguyên tăc kia sẽ dẫn đến
tình trạng khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản, đổ bể một dự án, một
doanh nghiệp, một Ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng chúng ta phải xem
xét đến chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc trên.
4.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng.
4.2.1 Tỷ lệ nợ quá hạn.
Trang 25

×