Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non huyện mường lát, tỉnh thanh hóa luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.44 KB, 89 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học diễn ra một cách
nhanh chóng, khoa học cơng nghệ phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Những thành tựu về khoa học kỹ thuật, sự ra đời của công
nghệ cao là yếu tố cơ bản và then chốt của Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố.
Đất nước đang trong xu thế tồn cầu hố, hội nhập khu vực và quốc tế,
muốn thực hiện thành công CNH – HĐH địi hỏi phải có bản lĩnh, phát huy
yếu tố nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà trong đó địi hỏi phải
nâng cao chất lượng cán bộ nói chung và cán bộ quản lý giáo dục nói riêng.
Nói về tầm quan trọng của công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Mọi việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém”, “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong” [11, 35].
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhân tố quyết định chất
lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Xây dựng đội ngũ CBQL giáo
dục là một vấn đề cấp thiết được nhấn mạnh trong kết luận của Hội nghị lần
thứ 6 BCH TW Đảng khoá IX: Xây dựng và triển khai chương trình “Xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện...”. Vấn đề này đã
được khẳng định trong Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư TW
Đảng: “Về việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục” và Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của
Thủ tướng Chính phủ về việc “ Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học
tập, đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ năng lực đáp ứng với nhu cầu
phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội”. Phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng
đầu, là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm của tồn Đảng, tồn dân
trong đó nhà giáo và đội ngũ CBQL giáo dục là lực lượng nịng cốt đóng vai



2
trò quan trọng. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục một
cách toàn diện là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trước mắt và mang tính chiến
lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn từ nay đến năm 2020.
Trong thời gian qua, ngành giáo dục và Đào tạo đã đạt được những
thành tựu quan trọng về mọi mặt rất đáng ghi nhận. Hệ thống giáo dục quốc
dân ngày một hoàn chỉnh hơn, mạng lưới trường học các cấp từ Mầm non đến
Đại học ngày càng mở rộng, đội ngũ nhà giáo được tăng cường về số lượng
và chất lượng. Nhìn lại 20 năm đổi mới và phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X khẳng định:
“ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phát triển và đầu tư nhiều hơn; cơ sở
vật chất được tăng cường; quy mô đào tạo mở rộng…”
GDMN là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, với
nhiệm vụ “thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng
tuổi đến sáu tuổi” nhằm “Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một” [1;8]. Để đạt được mục tiêu, GDMN phải phụ thuộc rất nhiều ở
đội ngũ CBQL tại các cơ sở giáo dục Mầm non. Do đó, việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL các trường Mầm non là rất cần thiết, tuy nhiên việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm non đến nay vẫn
chưa được nghiên cứu nhiều, chưa nghiên cứu đầy đủ và chưa có hệ thống, vì
vậy nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục Mầm non là góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục Mầm non nói riêng,
đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý trường học từng bước đổi
mới góp phần đào tạo con người đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai
đoạn lịch sử ngày nay. Từ lâu người dân Thanh Hóa vốn thơng minh, cần cù,
chịu khó, trong đó có nhiều nhân tài hiện đang công tác ở nhiều lĩnh vực then
chốt khác nhau trên mọi miền của đất nước.



3
Huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa được thành lËp vµo tháng 11 nămnh lập vào tháng 11 năm
1997, l mt huyện vïng cao cđa tØnh Thanh Ho¸, gi¸p víi hun Sốp Bâu
tỉnh Hủa phăn nớc bạn Lào. Huyện có 8 xà và 1 thị trấn. Trong nhng nm
qua giỏo dc và đào tạo tỉnh Thanh Hóa nói chung và giáo dục của huyện
Mường Lát nói riêng đã đạt được nh÷ng thành tựu nhất định góp phần vào sự
phát triển chung cđa mét hun vïng cao. Tuy nhiên, theo u cầu phát triển
của công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội trong giai đoạn hiện nay, thì giáo dục và
đào tạo của huyện Mường Lát còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác quản lý
các trường mầm non trên địa bàn huyện. §ội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói
chung và CBQL giáo dục Mầm non nói riêng ở huyện Mường Lát, tỉnh Thanh
Hóa cịn nhiều hạn chế.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã nêu trên thì việc nghiên cứu
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm non trên địa bàn
huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm non trên địa bàn huyện, chúng tôi
chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hố”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
các trường mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục Mầm non của huyện nhà.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ các bộ
quản lý trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
- Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý các trường Mầm non.

4. Giả thuyết khoa học


4
Hiện nay chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm non trên
địa bàn huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục mầm non. Nếu chúng ta xây dựng được các giải pháp một
cách khoa học và có tính khả thi thì có thể nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý các trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài: Khảo sát thực trạng đội ngũ cán
bộ quản lý các trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
các trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đội ngũ cán bộ quản lý ở 9 trường Mầm non trên địa bàn huyện Mường
Lát, tỉnh Thanh Hóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại và hệ thống hố
các tài liệu và văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra.
- Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động….
6.3. Phương pháp thống kê toán học để sử lý số liệu nghiên cứu.
7. Những đóng góp của luận văn:

- Góp phần hệ thống hố cơ sở lý luận về vấn đề nâng cao chất lượng
đội ngũ CBQL Giáo dục Mầm non.


5
- Làm sáng tỏ thực trạng công tác xây dựng đội ngũ CBQL trường
Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
Giáo dục Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hố.
8. Cấu trúc của luận văn: Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham
khảo, các phụ lục, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý trường mầm non.
Chương 2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường
Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý các trường Mầm non huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON
1.1.

Sơ lược lịch sử của vấn đề nghiên cứu.
Vấn đề đội ngũ CBQL và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nói

chung và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục Mầm non nói riêng đã

được Đảng và Nhà nước quan tâm. Nhiều nhà khoa học, cán bộ quản lý trong
và ngoài ngành giáo dục và các giáo viên quan tâm nghiên cứu :
- Ngày 15/6/2004, Ban Bí thư khóa IX đã ban hành Chỉ thị 40- CT/TW
về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục. Chỉ thị đã đề cao vai trò của giáo dục: “Phát triển giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn nhân lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, tồn dân,
trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nịng cốt, có vai
trị quan trọng”. Chỉ thị đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cán bộ quản lý
giáo dục và thể hiện rõ: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối
sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển
đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Thực hiện Chỉ thị trên, ngày 11 tháng 01 năm 2005 Phó Thủ tướng
Chính phủ Phạm Gia Khiêm đã ký Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Đề án Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo
dục giai đoạn 2005-2010. Mục tiêu tổng quát là: “xây dựng đội ngũ nhà giáo
và CBQLGD theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số


7
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chun mơn của nhà
giáo, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong cơng
cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nhiệm vụ là “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội

ngũ nhà giáo,CBQL giáo dục. Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của
toàn xã hội về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ
nhà giáo, CBQL giáo dục có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ,
trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp, làm trụ cột thực hiện các mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Ở nước ta, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chủ Tịch đã
đặc biệt quan tâm chỉ đạo việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những
quan điểm, tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đã định hướng
cho vấn đề đào tạo bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ giáo viên mới: “Khơng có
giáo dục, khơng có cán bộ thì khơng nói gì đến kinh tế - văn hố”. Bằng nhiều
bài viết, bài nói chuyện về vấn đề giáo dục, Người thường xuyên động viên đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ở tất cả các bậc học nỗ lực phấn đấu vươn lên
hoàn thành xuất sắc trọng trách nặng nề và vẻ vang mà xã hội giao phó:
“Chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao
động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” [11, 72].
Trong những năm tháng chiến tranh, đề tài về nâng cao chất lượng đội
ngũ chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và sâu rộng. Từ những năm đầu
của thập kỷ 90 đến nay đã xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị,
đáng lưu ý đó là:
- Giáo trình khoa học quản lý của PTS. Phạm Trọng Mạnh (NXB
ĐHQG Hà Nội năm 2001);
- “Khoa học tổ chức và quản lý một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý (NXB Thống kê Hà Nội 1999);


8
- “Tâm lý xã hội trong quản lý” của Ngô Cơng Hồn (NXB ĐHQG Hà
Nội 2002);
- Tập bài giảng lý luận đại cương về quản lý của Tiến sĩ Nguyễn Quốc

Chí và PGS TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc (Hà Nội 1998);
- Tập bài giảng lớp Cán bộ quản lý phòng Giáo dục và Đào tạo của
trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo (Hà Nội 2000).
Bên cạnh đó cịn có các bài viết đề cập đến lĩnh vực QLGD như:
- “Vấn đề kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước và quyền tự chủ các
trường học” của Trần Thị Bích Liễu - Viện KHGD đăng trên tạp chí GD số
43 tháng 1 năm 2002;
- “Đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá” của tác giả Quế Hương,
đăng trên báo Giáo dục & Thời đại ngày 01/12/2002;
- “Cán bộ quản lý Giáo dục và đào tạo trước u cầu của sự nghiệp
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước” của cố thứ trưởng Bộ Giáo dục &
Đào tạo Lê Vũ Hùng đăng trên tạp chí số 60 tháng 6/2003...
Từ trước đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL trường học nói chung và cán bộ quản lý trường Mầm
non nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu việc
nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường Mầm non ở các huyện miỊn nói
tỉnh Thanh Hóa, trong đó có huyện Mường Lát. Để đáp ứng yêu cầu thực hiện
chương trình Giáo dục mầm non và nâng cao chất lượng GDMN phù hợp với
điều kiện thực tiễn của huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, chúng ta cần phải
tiến hành nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
GDMN, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
các trường Mầm non tại huyện nhà.
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1. Khái niệm quản lý.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, có thể nêu ra một số quan
điểm về quản lý như sau:


9
- Theo quan điểm triết học, quản lý được xem như một quá trình liên kết

thống nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan để đạt được mục tiêu đó.
- Theo quan điểm kinh tế, F.Taylo (1856 – 1915) Người theo trường
phái quản lý theo kiểu khoa học: “Quản lý là cải tạo mối quan hệ giữa người
với người, giữa người với máy móc và quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và
rẻ nhất” [16, 25].
- Quản lý kinh tế là sự tác động liên tục, có tổ chức của chủ thể quản lý
lên những người lao động để sử dụng một cách tốt nhất những tiềm năng, cơ
hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra theo đúng luật định hiện hành. Như
vậy, theo quan điểm kinh tế, quản lý luôn chú ý đến sự vận hành, hiệu quả
kinh tế, phát triển sản xuất và tác động qua lại giữa các lực lượng sản xuất.
- Theo quan điểm chính trị xã hội: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên
khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hố, xã hội, kinh tế...
bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp cụ
thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [16,7]
- “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường” [28,43].
- “Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hồn
thành cơng việc qua những nổ lực của người khác”.
- “Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những
người cộng sự khác cùng chung một tổ chức”.
- “Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nổ lực
cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm”.
- “Quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó...”


10

Những định nghĩa trên khác nhau về cách diÔn đạt nhưng đều gặp nhau
ở những nội dung cơ bản, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau:
+ Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các hoạt động và
ít nhất là một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể
quản lý tạo ra và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể
quản lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là nhiều lần.
+ Phải có một mục tiêu và một quĩ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ
thể, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
+ Chủ thể phải thực hành việc tác động.
+ Chủ thể có thể là một người, nhiều người, đối tượng cũng có thể là
một hoặc nhiều người (trong tổ chức xã hội).
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và qui mơ ra sao đều cần
phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục
đích của mình.
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng)
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
Như vậy, có thể khái quát: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm
đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó
để người bị quản lý ln ln hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí
tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội
Các cấp quản lý có chức năng tương tự nhau. Đều vận dụng các chức
năng quản lý (đã nói ở trên) để thực hiện các nhiệm vụ cơng tác của mình.
Nội dung hoạt động khác nhau do phân cấp quản lý qui định, do nhiệm vụ của
thời kỳ chi phối. Đặc biệt là chịu ảnh hưởng của những biến đổi về kinh tế,
chính trị, xã hội, khoa học và công nghệ.


11

1.2.2. Khái niệm về quản lý giáo dục.
Nhà nước quản lý mọi hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục. Vậy
quản lý Nhà nước về giáo dục là tập hợp những tác động hợp quy luật được
thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các phân
hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng,
hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Có nhiều nhà khoa học đã đưa ra một số khái niệm về quản lý giáo dục:
Theo M.I.Kônđacốp:“Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến
tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo
việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý
của trẻ em” [17, 10].
Theo GS. Viện sỹ Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo
dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành Giáo dục- Đào tạo,
với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh” [18, 34].
Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu
dự kiến tiến lên trạng thái về chất” [26, 35].
Tiến sĩ Nguyễn Gia Quý khái quát: “Quản lý giáo dục là sự tác động
có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động
giáo dục đến mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những
qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân” [27, 12].



12
Có thể thấy rằng khái niệm về quản lý giáo dục cho đến nay có nhiều
định nghĩa khác nhau, nhưng cơ bản thống nhất về nội dung, bản chất.
Như vậy, theo nghĩa rộng “Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ
theo yêu cầu phát triển của xã hội” [16, 3].
Quản lý giáo dục bao gồm:
- Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý giáo dục các cấp.
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học.
- Quan hệ quản lý: Là những mối quan hệ gồm người học và người
dạy; quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ giữa
người dạy - người học; quan hệ giáo giới - cộng đồng. Các mối quan hệ đó
có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà trường
của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Về khoa học thì quản lý giáo dục là sự điều khiển toàn bộ những hoạt
động của cả cộng đồng, điều khiển quá trình dạy và học nhằm tạo ra những
thế hệ có đức, có tài phục vụ sự phát triển của xã hội.
Quản lý giáo dục là một loại hình hoạt động có tính chun biệt nhưng
ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội. Mọi quyết định thay đổi của giáo dục đều ảnh
hưởng đến kinh tế - xã hội.
Quản lý giáo dục là loại hình quản lý được đơng đảo thành viên tham
gia. Bản thân quản lý giáo dục là hoạt động mang tính xã hội, địi hỏi phải
huy động nhân lực, nguồn lực lớn.
Từ những quan điểm trên có thể hiểu: Quản lý giáo dục là những hệ
thống, những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các
cấp khác nhau đến mọi yếu tố trong hệ thống nhằm đảm bảo chu trình vận
hành của các cơ quan trong hệ thống giáo dục và tiếp tục duy trì phát triển
hệ thống về cả số lượng lẫn chất lượng. Nói cách khác, quản lý giáo dục là
một quá trình diễn ra những tác động quản lý, đó là những tác động điều hành



13
các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác Giáo dục & Đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
1.2.3. Quản lý giáo dục mầm non.
Quản lý GDMN là một bộ phận cấu thành của QLGD. Quản lý GDMN
giúp cho việc thực hiện mục tiêu của ngành học mầm non là “Phát triển giáo
dục mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi”. Cũng như các
ngành học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, GDMN cũng có mạng lưới
quản lý từ cấp Bộ xuống các trường, lớp mầm non.
Quản lý GDMN thực hiện các nội dung cụ thể là:
- Quản lý về mục tiêu của GDMN;
- Quản lý quá trình chăm sóc, ni dưỡng, bảo vệ sức khoẻ của trẻ em
mầm non;
- Quản lý việc thực hiện chương trình giáo dục trẻ mầm non theo các độ tuổi.
- Quản lý cơ sở vật chất, tài chính
- Quản lý đội ngũ GVMN.
1.2.4. Khái niệm đội ngũ.
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay, khái
niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như
đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y, bác sĩ... đều xuất phát
theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là: “Khối đơng người được
tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng chiến đấu”.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Đội ngũ là tập hợp một số đông người,
cùng chức năng hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng” [ 45].
Một khái niệm khác cũng tương tự là: “Đội ngũ là tổ chức gồm nhiều
người tập hợp lại thành một lực lượng hay là tập hợp số đông người cùng
chức năng, nghề nghiệp như đội ngũ nhà văn, đội ngũ nhà giáo...”.
Khái niệm đội ngũ cũng có thể hiểu là: Một nhóm người được tổ chức và
tập hợp thành một lực lượng, để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng

hay khơng cùng nghề nghiệp, nhưng đều có chung một mục đích nhất định.


14
Tóm lại có thể hiểu: Đội ngũ là một tập thể gồm nhiều người, có
cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế
hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
1.2.5. Cán bộ:
Theo từ điển Tiếng việt (1992) của Viện khoa học xã hội Việt Nam thì
cán bộ có nghĩa là:
(1) Người làm cơng tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước.
(2) Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường, khơng có chức vụ.
1.2.6. Đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non:
Hiện nay theo cách hiểu thông thường và khá phổ biến ở nước ta, khái
niệm đội ngũ CBQL là những người có chức vụ, có trách nhiệm điều hành và
cầm đầu trong một tổ chức.
Đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non là một nhóm người được tổ
chức sắp xếp và cùng nhau thực hiện mục tiêu chung của nhà trường bằng
cách vận dụng các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra
nhằm đưa nhà trường tiến lên một trạng thái mới về chất.
Đội ngũ CBQL trường Mầm non bao gồm hiệu trưởng và các phó hiệu
trưởng. Đây là lực lượng cốt cán của đội ngũ CBGV trong nhà trường. Tiêu
chí để đánh giá đội ngũ CBQL trường Mầm non là chất lượng đội ngũ.
1.2.7. ChÊt lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non.
“Chất lượng” là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất
của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, từ đó phân biệt nó với sự vật khác.
Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật và được biểu hịên ra bên
ngồi qua các thuộc tính. Chất lượng là cái liên kết các thuộc tính của sự vật
và khơng tách rời khỏi sự vật. Sự thay đổi chất lỵng kèm theo sự thay đổi của

sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính qui
định về số lượng của nó và khơng thể tồn tại ngồi tính qui định ấy. Mỗi sự
vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số lượng. Chất lượng và


15
số lượng liên quan chặt chẽ với nhau. Tuy phân biệt với chất lượng, song số
lượng luôn được hiểu là số lượng của mỗi chất lượng nào đó.
Chất lượng, theo quan điểm của các nhà giáo dục, là cái tạo nên phẩm
chất giá trị của một người, một sự vật, sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính
cơ bản khẳng định sự tồn tại của một sự vật và phân biệt nó với sự vật khác.
Như vậy, có thể hiểu: Chất lượng đội ngũ CBQL trường Mầm non là
những yếu tố tạo nên giá trị của đội ngũ đó, bao gồm:
+ Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức
+ Hệ thống năng lực liên quan đến trình độ chuyên môn và nghiệp vụ quản lý.
1.2.8. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giáo dục được thể hiện trên
các mặt:
Con người với tư cách là nguồn nhân lực để phát triển giáo dục, con
người là thành tố quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất. Con người
là nguồn lực khơng có gì có thể thay thế được để phát triển giáo dục.
Với tư cách là “nhân vật chủ đạo”, trong quá trình phát triển giáo dục
và đào tạo, cần phải đầu tư thích đáng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục
là biện pháp chủ động và quan trọng để phát triển nguồn lực con người.
Con người với tư cách là tiềm lực để phát triển giáo dục và đào tạo,
phát triển xã hội, làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng cao hơn.
Với nghĩa chung nhất, nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL là nâng cao
chất lượng con người.
Nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường học là vấn đề cốt lõi của
việc phát triển nguồn nhân lực con người, nguồn lực quý báu nhất có vai trị

quyết định đối với sự phát triển KT - XH. “Mục tiêu của giáo dục là hình
thành và phát triển nhân cách con người, trên cơ sở đó để phát triển giáo dục
nhằm thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài. Nói cách khác phát triển con người bền vững để phát triển kinh tế xã hội”. [20, 242].


16
Nghĩa hẹp hơn: Nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nói chung và chất
lượng đội ngũ CBQLgiáo dục mầm non nói riêng là nâng cao chất lượng
nguồn lực con người trong ngành giáo dục; đào tạo đội ngũ CBQL có phẩm
chất, năng lực, làm cho mỗi con người tự phát triển bản thân.
Nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường mầm non để đội ngũ được
phát triển theo chiều hướng đi lên: đủ về số lượng, từng bước nâng cao chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu. Đó là q trình nâng cao chất lượng đội ngũ có
trình độ về chun mơn, trình độ chính trị, năng lực quản lý, tập hợp những
người có phẩm chất tốt, đạo đức lối sống lành mạnh, có trí tuệ cao, tay nghề
thành thạo.
Nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL giáo dục Mầm non được thể hiện trên
các mặt:
- Bồi dưỡng lý luận chính trị, chun mơn nghiệp vụ QLGD.
- Bố trí đội ngũ cán bộ phù hợp với năng lực, điều kiện.
- Đảm bảo được định mức lao động.
- Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
- Xây dựng mối quan hệ lành mạnh, có hiệu quả.
Vấn đề cơ bản của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
GDMN là đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng nhằm giúp họ hồn
thành tốt vai trị, nhiệm vụ của người quản lý.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường Mầm non trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Những yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước đối với giáo

dục và giáo dục Mầm non.
Nâng cao chất lượng đội ngũ là một trong các nội dung quan trọng của
QLGD, quản lý nguồn nhân lực của GD-ĐT. Quản lý nguồn nhân lực trong
GD&ĐT là một dạng quản lý nguồn nhân lực nhưng có thể xem là một dạng
quản lý cao cấp hơn, chủ yếu là đội ngũ giáo viên, CBQL giáo dục với quan


17
điểm con người là nguồn nhân lực, là vốn quí giá nhất, có vai trị quyết định
chất lượng GD&ĐT.
Trong giai đoạn hiện nay GD&ĐT nước ta đang đứng trước bối cảnh:
- Đất nước đã và đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, lực
lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất,
tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt.
- Quá trình giao lưu, hợp tác và cạnh tranh trong khu vực cũng như trên
thế giới ngày càng mạnh mẽ.
- Cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ phát triển với qui mô ngày
càng rộng lớn và trình độ ngày càng cao. Giáo dục là nền tảng của sự phát
triển khoa học - Cơng nghệ vì nó đóng vai trị phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
- Trước sự đổi mới giáo dục đang diễn ra trên qui mơ tồn cầu, bản
thân hệ thống GD&ĐT đang thay đổi hướng tới xây xựng một nền giáo dục
cho tất cả mọi người, nền giáo dục ngày càng có tính chất đại chúng.
Trước bối cảnh đó, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Để đáp ứng
yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển
đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH cần chuyển biến cơ bản, toàn diện về
GD&ĐT” [7, 201].
Ngày nay CNH luôn gắn liền với HĐH, với việc ứng dụng rộng rãi
những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Khoa học và
công nghệ trở thành nền tảng của CNH-HĐH, nâng cao dân trí, bồi dưỡng và

phát huy nguồn nhân lực to lớn của Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của CNH-HĐH. Để phát triển nguồn nhân lực đó, GD&ĐT là con đường cơ
bản để hình thành và phát triển nhân cách, để phát triển con người. Vì vậy,
cần có những biện pháp mạnh mẽ bảo đảm GD&ĐT thực sự trở thành một
tiền đề và là tiền đề hàng đầu của CNH-HĐH. Đó là tiền đề về con người,
trước hết về mặt nhân cách với những định hướng giá trị phù hợp với xã hội


18
đang tiến hành CNH-HĐH, và tiền đề đó được thể hiện ở mục tiêu về dân trí,
nhân lực, nhân tài của cuộc đổi mới GD&ĐT.
Trước yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước, giáo dục mầm non
được chỉ đạo bởi các quan điểm:
- GDMN là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền
móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ
em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển GDMN là trách nhiệm chung của các
cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và tồn xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
- GDMN gắn với nhu cầu phát triển KT - XH và những tiến bộ khoa
học công nghệ.
- Thực hiện cơng bằng trong GDMN.
Tóm lại: Trước những u cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước, với xu
thế hội nhập cùng với những thời cơ và thách thức hiện nay, địi hỏi ngành
GD&ĐT cần có những biện pháp cụ thể để phát triển giáo dục nói chung và
GDMN nói riêng với mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp và các
cơ chế chính sách thích hợp.
1.3.2. Vai trị, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ quản lý trường Mầm non.
Đội ngũ CBQL trường Mầm non là lực lượng trực tiếp quản lý mọi
hoạt động của trường Mầm non. Họ là thành phần cốt cán trong đội ngũ giáo
viên Mầm non, chịu trách nhiệm hoàn toàn trước Đảng và Nhà nước về chất

lượng, hiệu quả công tác GDMN. Nâng cao chất lượng đội ngũ GVMN mà
nòng cốt là đội ngũ CBQL trường Mầm non là tạo tiền đề quan trọng, cần
thiết cho việc nâng cao hiệu quả GDMN trong giai đoạn hiện nay.
Đội ngũ CBQL trường mầm non là những người làm công tác lãnh đạo,
quản lý, điều hành các hoạt động của trường Mầm non. Quyết định 55 xác
định rõ nhiệm vụ của đội ngũ CBQL trường Mầm non như sau:
- Đảm bảo chất lượng chăm sóc và giáo dục theo yêu cầu mục tiêu đào tạo.
- Đảm bảo chỉ tiêu về số lượng của nhà trẻ, trường mẫu giáo.


19
- Có kế hoạch kiểm tra đơn đốc việc thực hiện những qui định về
chun mơn và có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên
nhà trẻ, mẫu giáo.
- Từng bước xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên trong
nhà trẻ, trường mẫu giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu.
- Từng bước hoàn thiện việc trang bị cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn cho
những trường, lớp có đủ điều kiện.
- Thường xuyên rút kinh nghiệm và cải tiến công tác quản lý nhà trẻ,
trường mẫu giáo để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ theo mục tiêu,
kế hoạch đào tạo.
Tóm lại: Sứ mệnh của CBQL các trường Mầm non thật to lớn và nặng
nề. Đặc biệt là từ giai đoạn 2002 – 2005 trở đi, đội ngũ CBQL các trường
mầm non có thêm nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là phải phấn đấu xây dựng
trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia theo Quyết định số 36/2008/QĐ BGDĐT do Bộ GD&ĐT ban hành ngày 16/7/2008. Một trong những tiêu
chuẩn để được công nhận trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia CBQL phải
được xếp loại tốt trở lên về năng lực và hiệu quả quản lý. Làm tốt được các
nhiệm vụ trên sẽ giúp cho công tác giáo dục của nhà trường phát triển phù
hợp, thống nhất với kế hoạch của địa phương, tận dụng được sức mạnh của
các tổ chức và cá nhân trong công tác xây dựng và phát triển nhà trường.

1.4. Những yêu cầu chung về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý trường Mầm non.
Theo GS.TS. Phạm Minh Hạc: “Nói tới giáo dục là nói tới triển vọng
viễn cảnh, nếu làm giáo dục mà chỉ nghĩ đến trước mắt, không nghĩ đến
phạm trù tương lai, chắc chắn là khơng có thành cơng, hay ít nhất là khơng
có thành tựu” [20,19].
u cầu chung về việc xây dựng đội ngũ CBQL GDMN trong giai
đoạn hiện nay:


20
- Trước hết, phải xây dựng đội ngũ CBQL có đủ số lượng theo qui
định và tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng địa phương, dân số, đặc thù
(dân tộc, nam, nữ..). Mỗi trường có một Hiệu trưởng và có từ 1 đến 2 Phó
Hiệu trưởng.
- Xây dựng, phát triển đội ngũ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống trong sáng, tâm huyết vì sự nghiệp phát triển giáo dục.
- Đội ngũ CBQL phải là những người có trình độ chun mơn từ loại
khá trở lên, có năng lực quản lý, có sức khoẻ, có khả năng chỉ đạo, tổ chức
thực hiện và kiểm tra đánh giá, thực sự là những nhà giáo vì học sinh thân
u, vì sự nghiệp phát triển của đÊt nước nói chung và sự phát triển của sự
nghiệp giáo dục nói riêng.
1.4.1. Yêu cầu về xây dựng số lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục Mầm non.
Để đảm bảo nguồn nhân lực cho các trường mầm non hoạt động với
đầy đủ các chức năng: Chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục trẻ, đáp ứng được
yêu cầu hiện nay của giáo dục nói chung, căn cứ vào việc phân hạng trường
để bổ nhiệm đội ngũ CBQL đủ về số lượng: Ở mỗi trường cần phải có 1 Hiệu
trưởng và có ít nhất từ 1 đến 2 Phó hiệu trưởng đảm nhận các nhiệm vụ khác
nhau trong trường Mầm non về công tác chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục

trẻ từ 3 tháng tuổi đến 72 tháng tuổi tuổi do Hiệu trưởng phân cơng. Đối với
trường hạng 1 có 1 hiệu trưởng và 2 phó hiệu trưởng. Được bố trí thêm 1 phó
hiệu trưởng nếu có từ 5 điểm trường hoặc có từ 20 trẻ em khuyết tật hoà nhập
trở lên, đối với trường hạng 2 được bố trí 1 hiệu trưởng và 1 phó hiệu
trưởng [1,11].
1.4.2. yêu cầu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục Mầm non.
Cùng với những thành tựu mới của cách mạng khoa học và cơng nghệ,
trình độ dân trí ngày càng được nâng lên, khơng khí dân chủ phát triển đã và
đang tạo ra những bước chuyển về chất trong tư duy, tầm nhìn, độ hiểu biết.



×