Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 (qua khảo sát tại trường THPT chuyên lương thế vinh, tp biên hòa, tỉnh đồng nai) luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.58 KB, 119 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12
(Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh,
Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Tp. Hồ Chí Minh, 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12
(Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh,
Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên nghành: LL VÀ PPDH BỘ MƠN CHÍNH TRỊ
Mã Số: 60.14.10


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỒN MINH DUỆ

Tp. Hồ Chí Minh, 2012


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, ngồi sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tơi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều Thầy, Cơ trong và ngồi trường.
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS.
Đoàn Minh Duệ, thầy đã trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tơi hồn thành
luận văn này.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cơ trong khoa
Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh và Ban giám hiệu cùng các thầy, cô
Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tơi trong q trình học tập, nghiên cứu .
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia
đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ tơi trong suốt thời gian qua!

TP. Hồ Chí Minh, năm 2012
Tác giả

Nguyễn Thị Bích Hồng


4

MỤC LỤC
Trang

A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….6
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………...12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD
LỚP12…………………………………………………………………………….12
1.1. Lý luận chung về tự học………………………………………………12
1.2. Cơ sở thực tiễn để phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua
dạy học môn GDCD 12…………………………………………………………..28
Chương 2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN
GDCD LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, BIÊN HÒA,
ĐỒNG NAI………………………………………………………………………44
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm………………………………………………………44
2.2. Nội dung thực nghiệm………………………………………………………45
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 Ở
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, BIÊN HÒA, ĐỒNG
NAI………………………………………………………………………………77
3.1. Những căn cứ đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học
sinh Trường THPT chun Lương Thế Vinh, Biên Hịa, Đồng Nai thơng qua dạy
học môn GDCD lớp 12……………………………...…………………................77
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh Trường THPT
chun Lương Thế Vinh, Biên Hịa, Đồng Nai thơng qua dạy học môn GDCD lớp
12………………………………………………………………………………….80
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………………104
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………108
PHỤ LỤC………………………………………………………………………111


5


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT: Công nghệ thông tin
GDCD: Giáo dục cơng dân
GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

SL:

Số lượng

TB:

Trung Bình

THPT: Trung học phổ thông
TP:

Thành phố

TL:


Tỉ lệ

TT:

Thứ tự


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người dù sống hay làm việc ở bất cứ môi trường nào cũng phải hội đủ
năng lực đạo đức, kiến thức sáng tạo và tinh thần tự chủ, ý chí vươn lên để tồn tại
và phát triển. Với xu thế hiện nay thì các yếu tố này địi hỏi chúng ta phát huy
triệt để mới có thể đáp ứng và hội nhập với xu thế thời đại - xu thế toàn cầu hóa.
Vì vậy, u cầu mỗi cá nhân phải làm chủ tri thức, năng động, sáng tạo, cần khai
thác chất xám, phát huy ý thức tự học, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu rõ “Đổi mới căn bản và tồn diện giáo
dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương
pháp thi kiểm tra theo hướng hiện đại. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống, lịch sử cách mạng,
đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp,
ý thức trách nhiệm xã hội” [13; 216].
Trong hệ thống giáo dục và đào tạo bậc THPT, môn GDCD giữ một vị trí, vai trị quan
trọng trong việc trang bị các giá trị chuẩn mực đạo đức, bước đầu xây dựng nền tảng hệ thống
quy định pháp luật cơ bản. Thơng qua nội dung bài học trong chương trình nhằm xây dựng lối
sống, giáo dục nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Qua đó giúp các em xác định
được trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của nhà nước. Mặt khác, mỗi học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để đánh giá các

vấn đề xảy ra trong cuộc sống thực tiễn, lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với các hành vi xã
hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại các trường THPT nói chung và trường THPT chun nói
riêng, mơn GDCD chưa được quan tâm đúng mức, từ người quản lý, giáo viên bộ môn, học
sinh đến phụ huynh chưa thấy được tầm quan trọng, vai trị và vị trí của mơn GDCD thậm chí
cho rằng đây là mơn học phụ, môn học bổ trợ hoặc đồng nhất môn học này với mơn chính trị
hay thuần túy là dạy đạo đức, nhất là đối với học sinh trường chuyên, nơi đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho xã hội.


7

Môn GDCD bậc THPT lượng kiến thức cần truyền tải cho HS rất nhiều, nội dung kiến
thức tổng hợp mang tính khái quát và tính trừu tượng cao nhưng với lượng thời gian 1 tiết
/tuần nên việc giảng dạy chỉ mới đảm bảo truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản
trong sách giáo khoa.Vì vậy, muốn phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh cần
phải hình thành và xây dựng thói quen tự học để tự lĩnh hội tri thức. Trong thời đại “bùng
nổ thông tin” với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ, sự tăng
nhanh chóng và thường xuyên của khối lượng thông tin tri thức nên việc dạy học khơng cịn
giới hạn trong phạm vi truyền đạt kiến thức mà thông qua hoạt động dạy- học nhằm tăng
cường rèn luyện phương pháp, thái độ và nhận thức để tự định hướng, tự cập nhật làm giàu
tri thức của mình đáp ứng u cầu của xã hội.
Nói đến phương pháp học thì vấn đề cốt lõi là phương pháp tự học đây là cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Để rèn luyện cho học sinh có được kỹ
năng, phương pháp, thói quen tự học, biết vận dụng các kiến thức đã học, biết tự lực
phát hiện và giải quyết vấn đề trong cuộc sống thực tiễn. Đặc biệt đối với học sinh
trường chuyên năng lực tư duy, óc suy diễn và sự tưởng tượng đánh giá rất cao. Do
đó, GV phải có phương pháp dạy phù hợp để phát huy hết năng lực tư duy của học
sinh, chú trọng gợi mở, hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học, đào sâu kiến
thức.
Xuất phát từ những lý do trên nên tác giả chọn vấn đề “Phát triển năng lực tự

học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12” (qua khảo sát
tại Trường PHPT chuyên Lương Thế Vinh, Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT không phải là một vấn đề
mới, mà từ trước đến nay có rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia và
nhiều GV đề cập ở những góc độ khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những năm 1950 của thập kỷ XX, khi nói về
cơng tác huấn luyện và học tập đã nhấn mạnh “Phải nâng cao và hướng dẫn tự học”.


8

Năm 1997 trong cuộc hội thảo về công tác huấn luyện mang tên “Nghiên cứu
và phát triển tự học, tự đào tạo” đã thu hút được được sự quan tâm của nhiều giáo sư
và những nhà nghiên cứu đầu ngành. Ngay sau đó tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 21998 ra riêng một số báo đặc biệt đăng tải một số bài tiêu biểu trong hội thảo.
Cũng trong năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt cuốn “Tự học, tự đào
tạo, tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”, của Trung tâm nghiên
cứu và phát triển tự học, GS. Nguyễn Cảnh Toàn và GS. Nguyễn Như Ý chịu trách
nhiệm xuất bản.
Năm 1999 có cuốn sách “tự học là một nhu cầu của thời đại” của Nguyễn Hiến
Lê; “tôi tự học” của Nguyễn Duy Cần và Thu Giang; “Luận bàn về kinh nghiệm tự
học” của GS. Nguyễn Cảnh Toàn… Những cuốn sách là tài liệu quý, đã đúc kết
nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình học hỏi vươn lên của các tác giả.
Nguyễn Cảnh Tồn là một người thầy vơ cùng tâm đắc và luôn trăn trở với vấn
đề tự học đã cho ra đời hai cuốn sách quý giá “Học và dạy cách học”, Nxb Giáo dục
và tuyển tập tác phẩm “Tự giáo dục, tự học” tập 1 và tập 2, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I, do Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2001.
Cuốn sách là những lời tâm sự, đúc kết các phương pháp tự học có hiệu quả và
những thành cơng của Giáo sư về vấn đề tự học.

Các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường trong
cuốn sách “Quá trình dạy- tự học” đã khẳng định năng lực tự học của HS dù còn
đang phát triển vẫn là nội lực quyết định của bản thân người học, GV là tác nhân
hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo cho HS.
Tự học không phải là mảnh đất mới chưa được “cày xới” mà là vấn đề được
các nhà giáo dục khai thác ở những khía cạnh khác nhau. Ở Trường Đại học Vinh
thời gian gần đây có một số luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này như: Nguyễn
Thị Thanh Hương “Vận dụng phương pháp tổ chức hoạt động tự học để nâng cao
năng lực học tập phần CNXHKH của sinh viên các trường cao đẳng. (Qua khảo sát
tại Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An). Lê Thị Long cũng đã tìm hiểu đề tài “Hướng


9

dẫn học sinh tự học chương trình GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Phan Bội
Châu”;…và một số luận án tiến sĩ được bảo vệ ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội
như: “Biện pháp tăng cường hoạt động tự học của học sinh Trường Trung học Sư
phạm Thanh Hóa” của Đặng Thị Ngần; “Bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh
THPT khối chun hóa thơng qua bài tập hóa” của Trần thị Thu Hằng…
“Tự học như thế nào?” của Rubakin với bản dịch của Nguyễn Đình Cơi, xuất
bản 1982, giúp chúng ta tự học tập, nâng cao kiến thức tự học của mình. Lê khánh
Bằng đã dịch từ nguyên văn tiếng Anh “Phương pháp dạy học và dạy cách học ở
Đại học” được Trường Đại học Sư phạm Hà Nội lưu hành 2001.
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều khẳng định tự học có ý nghĩa và vai trị
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người là nhân tố
quan trọng để nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh
hội tri thức, kỹ năng và hình thành thái độ. Những giáo trình, tài liệu, cơng trình
nghiên cứu về lý luận tự học nói chung khá phong phú và đã định hướng mục tiêu
tầm quan trọng và những kinh nghiệm về tự học. Nhưng những cơng trình nghiên
cứu về phát triển năng lực tự học của học THPT nói chung và năng lực tự học mơn

GDCD của học sinh trường chun thì chưa nhiều. Do vậy, trong luận văn này một
mặt tác giả kế thừa những vấn đề lý luận về tự học nói chung của các tác giả, mặt
khác cố gắng phân tích, triển khai áp dụng vào một vấn đề mới hơn, có ý nghĩa thực
tế hơn, liên quan trực tiếp đến chun mơn và nghiệp vụ của mình thơng qua đề tài
luận văn cao học thạc sỹ mà tôi lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học cho học
sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12. Từ kết quả khảo sát, thực nghiệm
khoa học đề ra một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


10

- Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm phát triển năng lực tự học cho học
sinh THPT thơng qua dạy học mơn GDCD lớp 12 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
của quá trình dạy học .
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm những giải pháp nhằm phát triển năng lực tự
học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 tại Trường THPT
chuyên Lương Thế Vinh,Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT
thông qua dạy học môn GDCD lớp 12.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi
mới nội dung và phương pháp dạy học. Ngồi ra, tác gỉa cịn kế thừa những vấn đề
lý luận nói chung về tự học và phát triển năng lực của các tác giả khác.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin cũng như các ngành khoa học xã hội, ngoài ra tôi đặc biệt sử dụng kết
hợp một số phương pháp sau :
- Phương pháp điều tra xã hội học;
- Phương pháp phỏng vấn;
- Phương pháp tổng hợp, phân tích và thống kê;
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Do địa bàn Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh rộng, nhiều lớp nên tác
giả chọn 4 lớp khối 12 để tiến hành điều tra, khảo sát, thực nghiệm và vận dụng
các giải pháp.
5.1. Phạm vi nghiên cứu


11

Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của các giải pháp nhằm phát triển năng
lực tự học và thực trạng tự học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế
Vinh, Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Đề ra một số phương pháp nhằm phát triển năng
lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy một số bài cụ thể của môn GDCD lớp 12.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các em sinh viên cũng như các
bạn học viên cao học ngành chính trị.
Ngồi ra đây sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các bạn đồng nghiệp xa gần.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định được năng lực tự học và những biểu hiện của năng lực tự học môn
GDCD lớp 12, đồng thời căn cứ vào mục tiêu của dạy học môn GDCD trong trường
THPT hiện nay thì luận văn có thể đề xuất được giải pháp có luận cứ khoa học đảm

bảo tính khả thi, có hiệu quả góp phần nâng cao năng lực tự học cho học sinh THPT.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết
cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm phát triển năng lực tự học cho sinh
THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12.
Chương 2. Thực nghiệm sư phạm các biện pháp nhằm phát triển năng lực tự
học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 tại Trường THPT
chuyên Lương thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh
THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 tại Trường THPT chuyên Lương Thế
Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai.


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC
MÔN GDCD LỚP 12
1.1. Lý luận chung về tự học
1.1.1. Các quan niệm về tự học
Tự học là một nội dung vừa có tính truyền thống vừa có tính thời sự khơng
chỉ ở nước ta mà cịn là vấn đề của nhiều nước. Ngay từ xa xưa, Khổng Tử đã ý
thức được tầm quan trọng của việc tự học đối với mỗi con người. Theo ông học
không chỉ ở trường mà còn học ở bạn bè, học ở mọi nơi mọi chổ, học ở mọi
người bằng ý chí và nghị lực và niềm say mê là cách tự học của Khổng Tử. Ông
đã chỉnh lý một số sách cổ kinh điển của nho gia như: Kinh thi, Kinh thư, kinh
lễ… Có được thành tựu này là do ông luôn có tinh thần tự học hỏi, tự bồi dưỡng

và quan trọng hơn là ông biết cách tự học.
Bác Hồ là tấm gương lớn của tự học, Người đã đến với Chủ Nghĩa Cộng Sản
củng bằng con đường tự học và sự tự học của Người gắn chặt với mục tiêu lý tưởng
mà Người đã vạch ra. Đặc biệt, Bác rất chú trọng sự thực hành trong tự học và ln
coi thư viện là trường học lớn của mình. Người cho rằng tự học chính là sự nổ lực
của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học một cách có kế hoạch
trên tinh thần tự động học tập.
Nguyễn Kỳ cho rằng, “Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của
người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý
các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình, nhận biết vấn đề, thu thập xử
lý thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử lý
tình huống, thực nghiệm các giải pháp, kết quả, kiến thức mới mình đã tự lực tìm ra,
tự học thuộc q trình cá nhân hóa việc học” [30; 15]. Khi nghiên cứu các biện pháp
tổ chức hoạt động tự học, tác giả Nguyễn Thị Tính cho rằng: “Tự học là một quá


13

trình, trong đó dưới vai trị chủ đạo của GV, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng, thơng qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh phán
đoán …) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học
tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để vượt qua
chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích lũy kiến thức cho bản thân
người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành
kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học” [36; 23].
Phan Trọng Luân thì cho rằng “học là công việc của cá nhân. Học là công việc
của bản thân người học... một trong các mục đích quan trọng của dạy học là dạy
cách học” [33; 8].
Trong cuốn sách “Tự học như thế nào”, Rubakin khẳng định rằng tự học là một
quá trình so sánh đối chiếu và giải đáp, đó là sự so sánh giữa lý thuyết và thực hành,

giữa sách vở và thực tế cuộc sống, từ đó rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng
tạo.Trong q trình tự học con người khơng hồn tồn phụ thuộc vào cuộc sống mà
cần phải cải tạo cuộc sống sao cho ngày càng cao hơn.
Nguyễn Cảnh Toàn, người đã giành nhiều tâm huyết vào vấn đề tự học, đã
đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem là hồn chỉnh “Tự học là tự mình
dùng các giác quan để thu thập thơng tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng
lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải
sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả
nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào
đó, một kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng
rồi biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là
hình thức tự học cao cấp” [43; 407].
Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng, tự học là học với sự độc lập và
tích cực, tự giác ở mức độ cao. Tự học là q trình mà trong đó chủ thể người học tự
biến đổi mình, tự biến đổi các giá trị của mình, tự làm phong phú giá trị của mình
bằng các thao tác tư duy và ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân.


14

Tổng hợp các quan điểm của các tác giả, chúng tơi cho rằng có thể phân biệt
các hình thức tự học sau đây:
Thứ nhất, tự học của HS diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của GV với sự hỗ
trợ của các phương tiện kỹ thuật ở trên lớp. Với hình thức này, việc tự học của HS
chịu sự định hướng và điều khiển của GV nhằm đạt được mục tiêu của giờ dạy đã
xác định từ trước. Lúc này, việc tự học của HS có đầy đủ các yếu tố: GV, bạn, SGK,
tài liệu… Trong môi trường lớp học truyền thống hiệu quả tự học lúc này phụ thuộc
rất nhiều vào nghệ thuật điều khiển của GV, tuy nhiên, với từng HS vẫn có các hoạt
động riêng, sự sáng tạo riêng và do đó hiệu quả học tập cũng rất khác nhau. Kết quả
của quá trình tự học này là sự thống nhất biện chứng giữa sự hướng dẫn của GV và

sự tự giác học tập của HS.
Thứ hai, tự học của HS diễn ra ngoài phạm vi lớp học nhằm đáp ứng yêu cầu của
môn học đã được học trong nhà trường. Với hình thức này, HS chỉ có tài liệu liên quan
đến các mơn học dưới sự hướng dẫn trước của GV. Tuy nhiên, HS phải tự tổ chức việc
học tập của mình ở nhà nhằm ôn tập, hệ thống hóa, làm các bài tập, rèn luyện các kỹ
năng, kỹ xảo …theo yêu cầu của GV, đáp ứng chính các yêu cầu của bản thân người
học để lĩnh hội tri thức các môn học.
Thứ ba, tự học nhằm đáp ứng yêu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng,
nâng cao các kiến thức trong chương trình đào tạo ở nhà trường, thậm chí HS có thể
tìm hiểu về những tri thức khơng quy định nhằm mở mang hiểu biết của mình. Với
hình thức này người học hoàn toàn chủ động lựa chọn kiến thức cần bổ sung, lựa
chọn tài liệu cần đọc, tự mình sắp xếp các tri thức học được vào hệ thống tri thức
mà mình đang có. Đây là mức độ tự học rất cao, vì HS tự mình tổ chức tồn bộ các
hoạt động của q trình tự nhận thức. Từ đó cho thấy năng lực tự học của HS THPT
có những đặc trưng sau:
Người học phải tự đề ra cho mình phương pháp học từ đầu cho đến kết thúc
quá trình học và đóng vai trị mấu chốt bằng sự hứng thú, tham gia tích cực và có
trách nhiệm trong suốt q trình học. Trong tự học tính độc lập, chủ động càng có


15

vai trị quan trọng và được coi là cơng cụ đắc lực khơng có gì thay thế giúp cá nhân
tích lũy kinh nghiệm, tri thức khoa học, hoàn thiện nhân cách.
Học sinh ln phải rèn luyện cho bản thân có ý thức tự giác trong học tập và
hứng thú đối với các kiến thức mà mình đang tiếp thu. Điều này sẽ giúp người học
tham gia tích cực và biết tiếp tục quá trình học bằng cách tạo ra một hình thức phù hợp
với tính cách của mình. Như vậy, khi thực sự trở thành chủ thể học cũng có nghĩa là
ngươì học đã tự giác xác định được động cơ, mục đích học tập. Người học tiến hành
việc học dựa trên trách nhiệm cá nhân và sự điều khiển của ý chí thì hoạt động học trở

thành q trình tự học, tự giác chủ động, có phong cách và phương pháp cá nhân.
Trong hoạt động tự học khả năng lựa chọn cao, rộng rãi về cả nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức học tập. Sự lựa chọn này luôn hướng đến sự phù
hợp giữa người học và điều kiện bên ngồi.
Tự học mang tính cá nhân rất cao, tự học phải dựa trên chính tiềm năng của
người học và dựa trên ý thức trách nhiệm của người học. Mỗi người có một phương
pháp học tập khác nhau, cách tổ chức học tập khác nhau và ý chí cá nhân khác nhau
nên hiệu quả tự học cũng khác nhau.
Tóm lại, tự học là người học tự thân vận động, nổ lực thường xuyên, cố gắng
liên tục để đạt bằng được mục đích, yêu cầu học tập đã đề ra. Tự học là cách học tự
giác, cần mẫm, siêng năng, kiên trì bền bỉ và phải biết vượt qua hồn cảnh và vượt
qua chính mình, biết tự vận dụng tất cả từ ý chí nghị lực, tư duy, nhân cách, tâm
hồn, mục đích sống đến khát vọng của bản thân nhằm chiếm lĩnh tri thức của nhân
loại. Người tự học là người biết biến những kiến thức có trong sách vở, tài liệu,
trong thực tiễn đời sống thành kiến thức của mình một cách vững chắc qua quá trình
sàng lọc, lựa chọn. Hoạt động tự học được diễn ra trong mọi thời điểm từ tự học ở
nhà, tự học ở trường và tự học cả bên ngoài xã hội. Trong nhà trường GV chỉ là
người hướng dẫn, là “ ngoại lực”, cịn kết quả học tập phụ thuộc hồn toàn vào bản
thân người học, gọi là “chủ thể nội lực”. HS biết tự học mới thực là học, GV biết


16

hướng dẫn HS tự học, tự nghiên cứu mới là thực dạy. Tự học là gốc của học tập và
xây dựng xã hội học học tập.
1.1.2. Năng lực tự học của học sinh THPT
Năng lực là một vấn đề khá trừu tượng, cho đến nay vẫn có nhiều cách tiếp cận
và diễn đạt khác nhau:
Theo Giáo Sư Phạm Minh Hạc thì cho rằng, “năng lực là một tổ hợp đặc điểm
tâm lý của một người, tổ hợp này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết

quả của một hoạt động nào đấy” [18; 145].
Đặng Thành Hưng khẳng định, “năng lực được cấu thành từ các bộ phận
như: tri thức về hoạt động hay quan hệ đó; kỹ năng tiến hành hoạt động hay xúc
tiến ứng xử với quan hệ đó; những điều kiện tâm lý để tổ chức và thực hiện tri
thức và kỹ năng nào đó trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ
ràng. Tương ứng là ba dạng năng lực chuyên biệt: năng lực biết, năng lực làm,
năng lực biểu cảm” [19; 25- 27].
Cấu trúc của năng lực là tổng hợp nhiều kỹ năng thực hiện những hoạt động thành
phần có liên hệ chặt chẽ với nhau. Năng lực của HS chỉ nảy sinh và quan sát được trong
hoạt động giải quyết những yêu cầu học tập và gắn liền với tính sáng tạo. Năng lực của
mỗi người là có sự khác nhau về mức độ.
Như vậy, năng lực tự học là một năng lực cụ thể của người học, là một hình thức
của năng lực thực hiện hành động cá nhân trong việc giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Tự học trong nhà trường THPT trên thực tế vẫn còn là một vấn đề chưa được
thực hiện một cách thường xuyên và phổ biến, mặc dù giáo dục hiện đại đã được
đề cập đến từ lâu nay. Không thể phủ nhận trong trường THPT vẫn có những học
sinh say mê học hỏi và ln có ý thức tự học nhưng chưa nhiều.Trong xu thế xã
hội ngày càng phát triển, vấn đề tự học trong nhà trường lại càng được quan tâm
hơn bao giờ hết. Tự học cần phải trở thành một trong những kỹ năng quan trọng
số một của giáo dục, năng lực trong mỗi cá nhân HS. Bản thân người học cần
phải làm quen với vấn đề tự học, hình thành một năng lực tự học để sau này có


17

điều kiện học tiếp nữa hay khơng vẫn có thể tự học hỏi để trau dồi tri thức và
thích nghi với thời đại. Cho nên, vấn đề tự học của HS THPT là một vấn đề cần
thiết mang tính chiến lược.
Tự học của HS THPT cũng như tự học của HS nói chung là tổng hợp của nhiều
năng lực. Mục đích tự học của HS là hồn thành tốt những phần nào đó trong nhiệm vụ

học tập của mình mà khơng có thầy bên cạnh. Như vậy, tự học của HS THPT ln gắn
với năng lực chủ động, tích cực, HS phải tự nghiên cứu tài liệu, tự mình phát hiện kiến
thức, tự mình nắm bắt một phần kiến thức. HS phải thường xun tự tìm tịi những tài
liệu liên quan đến bài học để có sự so sánh, đối chiếu, tự biết vận dụng, chuyển hóa
kiến thức bài học dưới sự định hướng và dẫn dắt của GV.
Năng lực tự học của HS THPT mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp, nhưng đây lại
là cơ sở vô cùng quan trọng cho việc hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu ở
mức độ cao sau này. Nhà trường sẽ là nơi tạo dựng một nền móng vững chắc cho
kinh nghiệm tự học, tự nghiên cứu thuần thục của một nhà khoa học sau này.
Trong quá trình tự học, HS luôn tự chủ, năng động và sáng tạo, biết học hỏi và
đánh giá, biết so sánh và đối chiếu, biết kiểm nghiệm và xử lý tình huống. Quan
trọng hơn là HS phải biết tự tìm cho mình một cách tự chiếm lĩnh tài liệu. Song
song với việc phát huy tối đa nội lực của học sinh trong quá trình tự học, vai trị của
GV vơ cùng quan trọng. Nếu như việc tự học ngồi xã hội, người học có quyền
chọn kiến thức để tự học và tự học một cách tự do. Thì tự học trong nhà trường có
tính chất định hướng, GV có trách nhiệm hướng dẫn các em từ cách tự mình nghiên
cứu SGK đến việc điều chỉnh kiến thức mà các em thu nhận được để có được lượng
kiến thức chính xác nhất. Qua đó, GV hình thành và phát triển năng lực tự học cho
HS với những cách suy nghĩ, tìm tịi để có thể tự đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề và
tự nghiên cứu. Những định hướng của GV cịn có tác dụng phát huy tính năng động,
tự giác và lịng say mê học hỏi trong quá trình học tập của HS.
Như vậy, tự học của HS THPT khơng địi hỏi mức độ cao như tự học của các
nhà nghiên cứu, mà chủ yếu dựa vào bài học cụ thể trong SGK, những tài liệu có


18

liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho quá trình nhận thức
của HS mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Mục đích tự học của HS
THPT giúp các em hiểu sâu sắc, trọn vẹn bài học bằng chính năng lực của mình và

biết vận dụng kiến thức thành kinh nghiệm của bản thân.
1.1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và vấn đề phát triển năng lực tự học
cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12
1.1.3.1. Dạy học và vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông
qua dạy học môn GDCD lớp 12
Theo Đặng Thành Hưng thì về mặt sư phạm, bản chất của dạy học chính là gây
ảnh hưởng có chủ định đến hành vi học tập và quá trình học tập của HS, tạo môi
trường và những điều kiện để người học duy trì việc học, cải thiện hiệu quả, chất
lượng học tập, kiểm sốt q trình và kết quả học tập của mình. Dạy học phải đạt
các yêu cầu sau:
Tập cho HS có nhu cầu học tập, động cơ học tập đúng đắn. Rèn luyện cho HS ý
chí học tập, tinh thần vượt khó trong học tập. Dạy học để cho HS có kỹ năng và biện
pháp học, biết chủ động và độc lập trong học tập nhằm đạt kết quả cao hơn.
Theo Đanilốp “dạy học là tập hợp những hành động liên tiếp của GV và của
HS, được GV hướng dẫn những hành động này nhằm làm cho HS tự giác nắm
vững hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và trong q trình đó phát triển được
năng lực nhận thức” [15; 23].
Nhìn chung các tác giả đều cho rằng năng lực tự học của HS, trước hết được
quyết định bởi chính bản thân HS với tư cách là chủ thể của hoạt động học tập, đó
chính là yếu tố từ phía người học. Tuy nhiên, sự tích cực nổ lực của chủ thể không
thể đem lại kết quả tốt nếu tách rời các điều kiện khác đó là GV dạy và môi trường
học tập. Các yếu tố tác động của GV và môi trường học tập trong những trường hợp
cụ thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả học tập của HS, những yếu tố này khơng
thể thiếu trong việc hình thành và phát triển năng lực tự học cho HS.


19

Dạy học của GV khơng có nghĩa là truyền thụ tri thức, những sản phẩm có sẵn mà
cần phải tổ chức, điều khiển hoạt động tự nhận thức của HS nhằm hình thành cho HS

thái độ, năng lực và phương pháp học tập và ý chí học tập để HS tự khám phá những tri
thức. Điều này có nghĩa hoạt động dạy học của GV nhằm xây dựng những quy trình,
các thao tác chỉ đạo hoạt động nhận thức của HS, hình thành cho HS nhu cầu thường
xuyên học tập, tìm tịi kiến thức, kích thích năng lực sáng tạo, phát triển ở HS năng lực
tổ chức lao động trí óc một cách hợp lý, hình thành thói quen tự kiểm tra, tự đánh giá.
Khi nói đến năng lực tự học của HS thì yếu tố đầu tiên là tính tích cực nhận
thức và tính độc lập trong tư duy và trong hành động của HS.
Theo Kôn.V.O điều kiện quyết định để phát triển tính độc lập tư duy là việc
nắm tri thức mới bằng con đường giải quyết các vấn đề. Có thể nói tính độc lập của
tư duy khi tự chúng ta biết giải quyết vấn đề và giải quyết vấn đề một cách hợp lý,
biết kiểm tra chất lượng giải quyết vấn đề bằng một phương thức tốt nhất. Một mức
thấp hơn của tính độc lập là tự giải quyết vấn đề do một người khác đặt ra và tùy
theo khả năng của mỗi người để tìm cách kiểm tra kết quả. Các trình độ của tính độc
lập tư duy cũng đồng nghĩa với trình độ tự lực đặt và giải quyết vấn đề, kiểm tra vấn
đề. Đây cũng là trình độ tự học, tự nghiên cứu. [26; 136- 138].
Tính độc lập trong tư duy và trong hành động của HS là biểu hiện quan trọng
của tính tích cực của HS góp phần vào sự phát triển của ý chí. Hành động độc lập và
tư duy độc lập đòi hỏi HS phải cố gắng, tinh thần khắc phục khó khăn. Tính độc lập
cũng tạo điểu kiện thuận lợi để phát triển các phẩm chất trí tuệ khác như tư duy sáng
tạo, lòng dũng cảm…Như vậy, phương pháp dạy học phát triển tính độc lập của tư
duy cũng chính là phương pháp dạy học phát triển được năng lực tự học của HS.
Việc HS giải quyết độc lập những tình huống pháp luật có tính vấn đề sẽ thúc đẩy
sự phát triển năng lực sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy chỉ có thể được nảy sinh
trên cơ sở của tư duy độc lập. Tính độc lập của tư duy và tính sáng tạo khơng khác
nhau về bản chất. Tư duy sáng tạo là một dạng của tư duy độc lập, tạo ra ý tưởng
mới, độc đáo và có hiệu quả cao trong giải quyết vấn đề. Tư duy sáng tạo trong giải


20


quyết vấn đề đồng nghĩa với khả năng tự lực trong nhận thức của HS ở mức độ rất
cao. Trong dạy học rèn luyện và phát triển được tư duy sáng tạo chính là đã phát
triển năng lực tự học, tự nghiên cứu ở trình độ cao nhất. Chỉ khi HS thực sự tự lực
trong tự học, tự nghiên cứu thì mới có tư duy sáng tạo. Khi đã có tư duy sáng tạo
HS sẽ tự mình đặt ra các vấn đề và giải quyết vấn đề theo những hướng, những cách
thức rất độc đáo riêng. Như vậy, phương pháp dạy học phát triển được tư duy sáng
tạo cho HS cũng chính là phương pháp phát triển được năng lực tự học cho HS hơn
nữa còn ở mức độ cao nhất.
1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển năng lực tự
học môn GDCD lớp 12 của HS THPT
Thứ nhất, là sự tự ý thức và động cơ nhận thức, đây là yếu tố thuộc về chủ thể
nhận thức, có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với quá trình hình thành và phát triển
năng lực tự học của HS. Bởi vì, chất lượng học tập phải là kết quả trực tiếp của sự
nỗ lực chính bản thân người học. Nếu HS khơng tự giác tích cực, chủ động tổ chức
các hoạt động học tập ở lớp cũng như ở nhà thì mọi cố gắng của GV cũng như các
yếu tố khác đều kém hiệu quả. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự
học, Người cho rằng, “Trong tự học điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục
đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Chỉ khi có mục đích, động cơ
học tập đúng đắn thì HS mới có thể phát huy được “nội lực” trong học tập từ đó tổ
chức được các hoạt động nhận thức một cách hợp lý và có hiệu quả” [45; 21- 23].
Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người dựa trên cơ sở nhận thức đúng vai trị
quyết định của tự học đến sự tích lũy kiến thức cho bản thân. Khi việc học trở thành tự
giác thì mọi khó khăn trong việc tự học như thiếu thời gian, thiếu tài liệu, sách vở, thiếu
các điều kiện khác đều có thể vượt qua. Một trong những nhiệm vụ của GV dạy môn
GDCD là phải làm cho HS thấy được cần thiết phải học và có hứng thú với việc học nội
dung kiến thức này. GV cần làm cho HS thấy được tầm quan trọng, mục đích dạy học của
môn GDCD ở trường THPT và tác dụng của môn học này đối với cuộc sống hàng ngày


21


của mỗi HS. Thông qua các giờ học cụ thể làm cho các em thấy được cái hay, cái đẹp của
việc học pháp luật và tác dụng của nó trong đời sống thực tiễn.
Thứ hai, ảnh hưởng của suy nghĩ, tâm lý, thói quen khơng đúng về vấn đề tự
học như: Thiếu lòng tin vào khả năng tự học, cho rằng tự học là khó khăn, chỉ
những người thơng minh và có bản lĩnh mới tự học thành cơng. Khi có tư tưởng như
vậy thì HS khơng có ý chí để vượt qua khó khăn gặp phải trong q trình tự học.
Hơn nữa, chính sự nơn nóng, muốn chiếm lĩnh các tri thức khoa học bằng con
đường dễ dàng nhất làm cho HS nóng vội dẫn đến khơng nắm chắc được kiến thức
cơ bản và q trình học khó mà đạt kết quả cao.
Thứ ba, vốn kiến thức và phương pháp học. Kiến thức chuyên môn là cơ sở để
người học có thể tiếp tục nghiên cứu các kiến thức của bộ mơn đó ở mức độ cao
hơn. Nếu khơng có kiến thức ở mức độ thấp thì sẽ khơng có kiến thức ở mức độ cao
hơn. Để tự học có hiệu quả người học phải tự trang bị cho mình vốn kiến thức tối
thiểu đủ để có thể tự nghiên cứu các vấn đề mình quan tâm. Với mơn GDCD lớp 12,
có nội dung kiến thức pháp luật rất gần gủi liên quan đến cuộc sống hàng ngày của
HS. Cho nên, mỗi HS phải nắm và hiểu được những kiến thức cơ bản của pháp luật
thì mới giải quyết được các tình huống pháp luật có liên quan.
Thứ tư, phương pháp học tập của mỗi cá nhân HS, mỗi HS có một phương pháp học
tập, phương pháp làm việc riêng, khơng ai giống ai. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố chung
trong phương pháp học tập, vì vậy để hình thành phương pháp học tập cho HS, GV cần
phải trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về vấn đề này “phương pháp tự học như thế
nào thì cũng do chính học viên tự mày mị điều chỉnh dần với sự hướng dẫn của các thầy
để có được cách học phù hợp nhất với hoàn cảnh, điều kiện, tư chất của mình” [43; 412].
Việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm học tập của những người đi trước là một yếu
tố quan trọng để mỗi HS tự hình thành và phát triển năng lực tự học của HS. Mỗi
HS phải tự mình tìm ra và hồn thiện phương pháp học tập cho bản thân.
Thứ năm, ảnh hưởng của năng lực trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến khả năng nắm bắt tri thức khoa học nhanh hay chậm của mỗi HS. Yếu tố này



22

ảnh hưởng rất lớn đến khả năng học tập nói chung và khả năng tự học nói riêng.
Những HS có khả năng trí tuệ đặc biệt tốt thường có khả năng tự học rất cao, khi đã
đủ vốn tri thức tối thiểu thì đơi khi họ khơng cần thầy hướng dẫn.
Thứ sáu, cách dạy học trong nhà trường, hệ thống tài liệu, SGK và các điều
kiện về cơ sở vật chất, gia đình, xã hội đối với việc tự học của HS.
Hiện nay, hầu hết các tri thức và kỹ năng, kỹ xảo mà các em có được đa phần
do tiếp thu được qua các giờ học ở nhà trường. Vì vậy, cách dạy học của nhà trường
là một yếu tố ảnh hưởng quyết định đến cách học và phương pháp tự học của HS.
Hệ thống tài liệu, SGK, các phương tiện dạy học, với tư cách là phương tiện,
công cụ giúp HS nắm bắt được tri thức, có ảnh hưởng đến việc phát triển khả năng
tự học của HS. Nếu tài liệu, SGK được biên soạn theo hướng dẫn để HS có thể tự
học sẽ phát triển được khả năng này, ngược lại sẽ kìm hãm hoặc gây khó khăn cho
việc tự học của HS.
Bên cạnh đó trong quá trình dạy học, người học và người dạy cịn chịu ảnh
hưởng bởi mơi trường xung quanh đó là các yếu tố về điều kiện dạy học, văn hóa,
xã hội. Đây là những yếu tố không thể không quan tâm trong quá trình hình thành
và phát triển năng lực tự học của HS.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và vấn đề phát triển năng lực tự
học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim “việc học tập tự giác, tích cực chủ động và sáng
tạo địi hỏi HS phải có ý thức về những mục đích đặt ra và tạo được động lực bên trong
thúc đẩy bản thân họ hoạt động để đạt được mục đích đó. Điều này thực hiện trong dạy
học không chỉ đơn giản bằng việc nêu rõ mục đích mà quan trọng hơn là gợi được động
cơ” [27; 29].
Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tự học của HS, đặc biệt là khi
HS tự học ở nhà. Trong giờ học các nhiệm vụ học tập là rất rõ ràng, nếu GV tạo được
hứng thú học tập, tạo được khơng khí học tập thuận lợi trong lớp thì sẽ lơi kéo HS tham

gia vào q trình dạy học. Trong khi đó, ở bên ngồi nhà trường các điều kiện này khơng


23

còn nữa, nên giáo dục để HS tự xác định động cơ, mục đích học tập để từ đó HS hình
thành ý chí học tập là rất quan trọng và có tính chất quyết định đến chất lượng tự học của
HS.
Phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, chi phối sự hình thành
hứng thú học tập của HS. Bởi vì, chỉ khi có hứng thú học tập thì mới kích thích
được tư duy của HS, các em mới tự tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề, tự
mình nắm lấy các tri thức. Trong một giờ học, để HS nắm được một đơn vị kiến
thức nào đó trong một thời gian hạn chế thì các thủ pháp dạy học của GV là rất quan
trọng, là nghệ thuật dạy học.
Chính vì vậy trình độ dạy học của GV ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tiếp thu
tri thức cũng như năng lực tự học của HS.
Phương pháp dạy học, trình độ tổ chức dạy học của GV không những ảnh
hưởng đến phương pháp học và tự học của HS mà còn ảnh hưởng đến việc phát
triển năng lực tự học của HS.
Hiện nay, các xu hướng dạy học hiện đại đã khẳng định rằng để phát huy được
năng lực tự học của HS cần áp dụng mô hình dạy học tích cực lấy người học làm
trung tâm. Bởi vì, theo mơ hình này, “Mối quan hệ giữa dạy và tự học là mối quan
hệ giữa ngoại lực và nội lực. Trong mối quan hệ đó thì năng lực tự học của HS là
nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân người học” [44; 13].
Như vậy, các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học có ảnh
hưởng quyết định đến hoạt động tự nhận thức của HS nhằm tiếp thu tri thức. Trong
học tập cũng như trong cuộc sống, phương pháp học tập của cá nhân, năng lực tự
học được hình thành chủ yếu qua con đường nhà trường mà cụ thể là qua các tiết
học của các bộ mơn. Vì vậy, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học là các
nhân tố ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự phát triển năng lực tự học của HS.

Trong quá trình học tập, dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của GV tính tự giác, tích
cực trong học tập của HS phát triển. Theo Đanilốp “Bản chất của việc động viên HS
học tập là tạo điều kiện giúp HS hiểu ý nghĩa của việc học tập, đào sâu những mâu


24

thuẫn giữa nhiệm vụ mới và trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo đã có, giữa kỹ thuật
mới và những biểu tượng và khái niệm mà HS nắm được. Do đó, nảy sinh lịng ham
hiểu biết điều mới, muốn bồi dưỡng những kỹ xảo còn thiếu và ứng dụng thành thạo
kỹ thuật mới vào thực tiễn” [15; 31].
Sự phát triển tính độc lập tư duy của HS là cơ sở của toàn bộ những hoạt động
tự học, do vậy dạy học phải dạy cho HS những biện pháp để phát triển tư duy độc
lập. Bởi vì, trong quá trình học tập tính tự giác của HS bắt đầu từ việc ý thức được
nhiệm vụ nhận thức, hứng thú đối với cơng việc đó và nhu cầu giải quyết nhiệm vụ
nhận thức. Bên cạnh đó, trong q trình dạy học GV phải dạy cho HS cả biện pháp
hoạt động sáng tạo và tính tích cực chủ động, vì đây là biểu hiện cao nhất của năng
lực tự học. Tư duy sáng tạo và tính tích cực chủ động khơng thể tự nhiên được hình
thành mà nó phải được hình thành và phát triển một cách từ từ bằng các hoạt động
tự học của HS trong suốt q trình học tập.
Thơng qua quá trình dạy học, HS lĩnh hội kiến thức ngày càng chắc chắn, phát triển
năng lực nhận thức ngày càng toàn diện. Theo Đanilốp “sự lĩnh hội kiến thức và sự phát
triển năng lực nhận thức của HS là hai mặt gắn bó qua lại với nhau của cùng một quá
trình. Trong khi lĩnh hội những kiến thức khoa học hồn thành nhiệm vụ nhân thức nhất
định, thì đồng thời HS cũng phát triển những năng lực nhận thức của mình” [15; 31].
Trong quá trình tiếp thu tri thức nói chung và q trình tự học, tự nhận thức nói riêng, kết
quả học tập của HS tùy thuộc vào tư duy tích cực của các em. Sự tìm tịi trong học tập
càng lớn bao nhiêu thì kết quả học tập càng cao bấy nhiêu, cả về mặt lĩnh hội tri thức và
trình độ tư duy, đây là biểu hiện cao nhất của sự tự học.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, đánh giá của GV cũng ảnh hưởng đến hoạt động

tự kiểm tra, tự đánh giá của HS. Trong quá trình tự mình tìm ra kiến thức, người học có
thể tìm hiểu được một lượng kiến thức nhất định nào đó, lúc đầu có thể chưa chính xác,
chưa đầy đủ nhưng căn cứ vào sự kiểm tra, kết luận của GV, HS tự kiểm tra sản phẩm
của mình để sửa sai hoặc tự điều chỉnh, bổ sung để có được những kiến thức chính xác
và hồn thiện nhất. Q trình này sẽ làm cho khả năng tự học, tự nghiên cứu của HS


25

ngày càng phát triển. Cũng qua quá trình kiểm tra, đánh giá, GV biết được khả năng học
tập, suy nghĩ, tìm tịi, và động cơ của người học, để có thể giúp đỡ người học điều chỉnh
hoặc phát huy khả năng của mình, từ đó rèn luyện và phát triển năng lực tự học của HS.
Khả năng tự đọc, tự nghiên cứu tài liệu học tập của HS là kết quả của sự rèn luyện
và hướng dẫn công phu của GV. Tự học ở nhà là đọc lại bài giảng của GV, đọc SGK
và tài liệu tham khảo để bổ sung cho kiến thức đã học trên lớp. Bằng cách riêng của
mình HS hệ thống, sắp xếp lại kiến thức mà GV đã trình bày ở trên lớp và tìm cách hòa
nhập các tri thức ấy vào vốn tri thức đã có của bản thân mình. Với mơn GDCD lớp 12,
HS tự đọc nhằm hiểu được những nội dung về pháp luật một cách cụ thể, tự mình đặt
ra các tình huống và giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung kiến thức đã học
trên lớp. Khả năng đọc và nghiên cứu tài liệu của HS không thể tự hình thành mà phải
thơng qua sự hướng dẫn của GV và quá trình luyện tập của từng cá nhân. Nếu khơng
có kỹ năng này HS khơng thể tự học thành công.
Dạy học bằng cách rèn luyện và phát triển năng lực tự học trở thành một trong
những phương thức phát huy tính năng động, sáng tạo, phát triển tư duy cho HS.
Dạy học cho HS cách tự học thì GV mới có thể giúp HS khai thác tối đa tiềm năng bộ
não của mình trong học tập. Đặc biệt đối với HS trường chuyên, đa số các em vốn là
những HS thơng minh, sáng tạo và có tinh thần ham học hỏi. Cho nên GV phải làm sao
để khơi gợi niềm đam mê, hứng thú học tập nơi các em. Thông qua cách dạy cho HS tự
học, HS sẽ nhận biết được tầm quan trọng của việc tự học trong quá trình học tập, tự các
em sẽ vận động thay đổi cách học của mình cho phù hợp với yêu cầu của dạy học hiện

đại. Năng lực tự học mà các em có được trong nhà trường THPT giúp các em biết vận
dụng kiến thức, phương pháp đã học vào việc nhận thức các đối tượng trong cuộc sống
một cách sâu sắc và chủ động.
1.1.4. Cấu trúc chương trình môn GDCD lớp 12
Trong nhà trường THPT, bộ môn GDCD cùng với tất cả các bộ mơn học khác góp
phần hình thành và phát triển dần dần nhân cách, năng lực và phẩm chất người công
dân. Khác với các bộ mơn khoa học khác, mơn GDCD góp phần đào tạo nên những


×