Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Bài tập tình huống với rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng việt cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.74 KB, 96 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Lời nói đầu
Tiếng Việt là một mơn học có vị trí đặc biệt quan trọng trong nhà
trường tiểu học. Dạy học tiếng Việt nhằm giúp học sinh có những hiểu
biết sơ giản về tiếng Việt, hình thành và phát triển ở các em những kỹ
năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong cuộc sống. Nó
địi hỏi phải có sự dày cơng nghiên cứu, biên soạn nội dung chương
trình và sử dụng phương pháp dạy học thích hợp.
Tìm hiểu thực trạng dạy học tiếng Việt ở tiểu học hiện nay,
chúng tôi nhận thấy vấn đề rèn luyện các kỹ năng thực hành tiếng
Việt: đọc, nghe, nói, viết cho học sinh cịn nhiều hạn chế, đặc biệt là
những khó khăn trong việc sử dụng bài tập dạy Tiếng. Vì vậy, chúng
tơi đi sâu nghiên cứu về vấn đề "Bài tập tình huống với việc rèn luyện
kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh tiểu học", với mong muốn
góp tiếng nói chung vào vấn đề đang được mọi người quan tâm - vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học.
Nhân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cơ
giáo hướng dẫn Lê Thị Thanh Bình, cùng các thầy cơ giáo trong khoa,
các thầy cô ở trường tiểu học Hà Huy Tập I và các bạn đã động viên,
giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo, giúp chúng tơi hồn thành luận văn này.
Đề tài được thực hiện trong thời gian ngắn và điều kiện gặp
khơng ít khó khăn, tầm hiểu biết của người viết cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tơi rất mong nhận được sự góp ý,
chỉ bảo của các thầy cô và các bạn.

1
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Vinh, tháng 5 - 2003

Tác giả

Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thế kỷ XXI mở đầu một thiên niên kỷ mới. Đất nước chúng ta bước
vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một q trình đầy gian khổ,
kéo dài vài chục năm, dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trình
độ phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật, cơ cấu xã hội, thu nhập quốc dân. Gần
đây, trên thế giới cũng như nước ta bắt đầu đặt ra những vấn đề như nền kinh tế
tri thức, công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hóa, tồn cầu hóa trong kinh tế,
vấn đề hội nhập, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc…Những thay đổi đó về mặt
xã hội đã được phản ánh vào giáo dục, địi hỏi phải có những đổi mới tư duy
trong giáo dục và đào tạo.
1.2. Trong sự đổi mới tồn diện và sâu sắc đó của đất nước, đổi mới con
người là khâu đột phá có tính quyết định. Đất nước phát triển địi hỏi con người
phải có sự hiểu biết, phải chủ động, sáng tạo; giáo dục phải đổi mới, cần khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện sự tích cực của người học.
Bậc tiểu học là bậc nền móng, bậc học phương pháp. Nhà trường tiểu học
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, ban đầu về tự nhiên, xã hội và
con người; đồng thời hình thành ở các em những kỹ năng, kỹ xảo, hành
vi…Những kỹ năng, kỹ xảo đó rất bền vững, khó đổi thay. Bởi vậy, cần có sự
đổi mới tồn diện nội dung chương trình dạy học ở bậc tiểu học là một yêu cầu
cấp thiết. Nghị quyết của kỳ họp Quốc Hội lần thứ 8 về đổi mới chương trình
giáo dục phổ thơng đã ghi rõ:
2
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

"Mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng là xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thơng mới nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…".
Cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt ở tiểu học cũng có sự đổi
mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới nói trên trong
phạm vi mơn học, bậc học của mình.
1.3. Mơn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Việc dạy tiếng Việt nhằm vào cả hai chức
năng của ngôn ngữ (công cụ của tư duy và công cụ của giao tiếp), chú trọng vào
cả 4 kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết. Vì vậy, nội dung chương trình cũng như
phương pháp dạy học tiếng Việt đều được đổi mới.
Tuy nhiên tìm hiểu thực trạng dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học hiện
nay, bên cạnh những thành cơng vẫn cịn những bất cập so với yêu cầu đề ra.
Hiệu quả của những giờ Tiếng Việt chưa cao, việc nắm tri thức tiếng Việt chưa
đi liền với việc sử dụng tiếng Việt, đã chú ý đến thực hành nhưng chưa phải là
thực hành trong giao tiếp, giờ học Tiếng Việt chưa tạo hứng thú cho học sinh…
Quá trình tìm hiểu cho thấy, vấn đề sử dụng bài tập trong dạy học tiếng
Việt là một vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên, đặc biệt là việc xây dựng bài tập
tình huống nhằm rèn luyện kỹ năng thực hành ngôn ngữ cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài "Bài tập tình huống
với việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh tiểu học".
2. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn đưa ra một hệ thống bài tập tình huống để rèn kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh tiểu học, khắc phục những hạn chế của hệ thống bài tập
trong sách giáo khoa bài tập Tiếng Việt hiện hành, nhằm nâng cao chất lượng
3

Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

dạy học môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, phát huy được tính tích cực, sáng tạo ở
học sinh trong quá trình học tập.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học tiếng Việt ở Tiểu học.
Đối tượng nghiên cứu: Bài tập tình huống để rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
4. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học được
nhiều nhà nghiên cứu sư phạm quan tâm. Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu như:
Lê Phương Nga, Nguyễn Trí, Lê Hữu Tĩnh, Đỗ Xuân Thảo, Trần Mạnh
Hưởng…Mỗi tác giả, mỗi bài viết đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của quá
trình dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
Các kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các bài báo đăng trên các tạp
chí và tập trung lại trong cuốn "Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học" qua
từng thời kỳ. Bên cạnh việc đề cập đến những vấn đề chung về dạy học tiếng
Việt ở tiểu học, các tác giả đã đưa ra phương pháp dạy học ở từng phân môn
Tiếng Việt. Đặc biệt, các tác giả đã xây dựng hệ thống bài tập nhằm phát huy
được khả năng sử dụng ngôn ngữ và phát triển được tư duy của học sinh. Đó
cũng chính là vấn đề thời sự đang được các nhà giáo dục quan tâm.
Với luận văn này, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu cụ thể hơn về hệ thống bài
tập tình huống và việc sử dụng chúng với mong muốn góp phần vào việc nâng
cao hiệu quả giờ học Tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học
sinh Tiểu học.
5. Giả thuyết khoa học.
Dạy Tiếng Việt theo tinh thần đổi mới bằng việc xây dựng được hệ thống

các bài tập tình huống phù hợp nhằm rèn luyện kỹ năng thực hành ngôn ngữ cho

4
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

học sinh, từ đó hình thành năng lực cảm thụ văn học, năng lực sử dụng tiếng
Việt cho học sinh trong học tập nói riêng và trong giao tiếp cuộc sống nói chung.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học hiện nay.
- Xây dựng hệ thống bài tập tình huống nhằm rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để thu thập kết quả, đánh giá hiệu quả
của việc sử dụng bài tập tình huống trong thực tiễn dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp thống kê - phân loại: để khảo sát, phân loại các bài tập
trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học hiện hành.
7.2. Phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu lý luận nhằm nghiên cứu những thành tựu mới
nhất trong tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học để xây dựng cơ sở lí luận cho
đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm tìm hiểu thực tiễn dạy học tiếng
Việt ở tiểu học hiện nay, nhất là thực trạng rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt

của học sinh và bài tập tình huống để rèn luyện kỹ năng năng sử dụng tiếng Việt
ở tiểu học. Từ đó, thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập tình huống nhằm đưa lại
hiệu quả dạy học tiếng Việt tốt hơn.
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
5
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Phương pháp này nhằm xem xét, xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và khẳng
định tính khả thi của việc sử dụng bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt
cho học sinh Tiểu học.
7.4. Phương pháp thống kê miêu tả.
Phương pháp này xử lý kết quả thu được qua thực nghiệm, tính điểm trung
bình và độ lệch chuẩn để đánh giá hiệu quả của q trình thực nghiệm.
8. Đóng góp của luận văn.
Đề xuất hệ thống bài tập tình huống của luận văn sẽ có tác dụng nhằm
nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt, phát triển năng lực cảm thụ văn học và
năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
9. Bố cục của luận văn.
Phần I: Mở đầu.
Phần II: Nội dung: Gồm 3 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của bài tập tình huống với việc rèn
luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
Chương II: Hệ thống bài tập tình huống để rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.
Phần III: Kết luận.
Tài liệu tham khảo


6
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Phần II: Nội dung

Chương I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. KỸ NĂNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC

1.1. Kỹ năng là gì ?
Theo quan niệm của tâm lý học hiện đại, trong quá trình dạy học, giáo
viên thường truyền đạt cho học sinh những tri thức. Nắm được tri thức là hiểu
biết và ghi nhớ được những khái niệm khoa học. Tiến thêm một bước nữa là vận
dụng tri thức, khái niệm, định nghĩa, định luật…vào thực tiễn thì sẽ có kỹ năng.
Nhưng kỹ năng vẫn cịn là hành động ý chí địi hỏi phải "động não", suy xét, tính
tốn, phải có nỗ lực ý chí thì mới hồn thành được. Như vậy, kỹ năng chính là sự
vận dụng những kiến thức đã thu nhận được ở một lĩnh vực nào đó vào việc thực
hiện có kết quả một thao tác, một hoạt động tương ứng phù hợp với mục tiêu và
điều kiện thực tế đã cho.
Kỹ năng không đơn thuần là những thao tác chân tay mà là những thao tác
trí tuệ. Nội dung của kỹ năng là một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm làm
7
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

biến đổi và làm sáng tỏ những thơng tin chứa trong tình huống và nhiệm vụ để
đối chiếu và xác lập quan hệ với các hành động cụ thể.
Bản chất của việc hình thành kỹ năng là sự lĩnh hội các cách thức hành
động, các thủ thuật thao tác mà loài người đã xây dựng nên. Cơ chế hình thành
kỹ năng là quá trình chuyển cách thức hành động, thủ thuật thao tác từ hình thức
vật chất sang hình thức tinh thần dựa trên cơ sở các hành động học tập mà học
sinh tiến hành.
Để hình thành kỹ năng ở học sinh, giáo viên phải giúp học sinh biết cách
tìm tịi để nhận ra yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ của chúng trong
các tình huống và trong các bài tập. Giáo viên đồng thời phải giúp học sinh hình
thành một mơ hình khái qt để giải quyết các bài tập, đối tượng cùng loại. Giáo
viên còn là người giúp học sinh xác lập được mối quan hệ giữa các kiến thức và
bài tập có tính mơ hình tương ứng.
Trong thời gian học ở trường tiểu học, một loạt các kỹ năng cần và sẽ
được hình thành ở trẻ: kỹ năng học tập, lao động, vệ sinh…Có những kỹ năng
chung (lập kế hoặch cho công việc, tự kiểm tra, tự đánh giá…). Có những kỹ
năng riêng. Và cũng trong quá trình học tập, mỗi bộ mơn địi hỏi có những kỹ
năng đặc trưng. Đối với mơn tốn là kỹ năng tính tốn. Đối với các mơn tìm hiểu
tự nhiên đó là kỹ năng quan sát. Cịn đối với mơn Tiếng Việt chính là kỹ năng sử
dụng tiếng Việt. Vậy kỹ năng sử dụng tiếng Việt là gì ?
1.2. Kỹ năng sử dụng tiếng Việt.
Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là sự vận dụng những hiểu biết về tri thức lý
thuyết tiếng Việt việc vào thực hành: đọc, nghe, nói, viết.
Trong nhà trường, kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh thể hiện ở khả
năng thực hiện có hiệu quả các hoạt động ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp.
Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là trọng tâm học và luyện tập suốt bậc Tiểu

học. Đồng thời các kỹ năng này cũng gắn liền với cuộc sống của con người. Vì
vậy nó cần được rèn luyện một cách có hệ thống và liên tục.
8
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Việc rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt phải gắn với hoạt động của các giác
quan và gắn với họat động của tư duy: kỹ năng sử dụng tiếng Việt có hai phương
diện: phương diện kỹ thuật và phương diện thông hiểu hoặc diễn đạt nội dung.
Một người muốn nói hoặc muốn viết được trước tiên phải xây dựng nội dung các
thông báo (lập mã), sau đó truyền thơng báo đi (bằng âm thanh hoặc chữ viết).
Một người muốn nghe hoặc đọc được trước tiên phải biết tiếp nhận được các
thông báo (qua việc nghe âm thanh hoặc đọc chữ viết), sau đó giải mã để hiểu
được nội dung chứa đựng trong thơng báo đó. Như vậy, hàng loạt các thao tác tư
duy được huy động như lựa chọn, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống
hóa…Việc rèn luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học
không chỉ dừng lại ở mặt kỹ thuật, phải tiến tới sự thông hiểu nội dung của việc
sử dụng tiếng Việt.
Rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt phải trên cơ sở tri thức tiếng Việt.
Các kỹ năng sử dụng tiếng Việt và tri thức tiếng Việt có mối quan hệ nội tại chặt
chẽ. Các kỹ năng sử dụng tiếng Việt nhằm giúp cho học sinh nhận diện, phát
hiện, hoàn thiện các tri thức tiếng Việt. Tri thức tiếng Việt góp phần ý thức hóa
các kỹ năng vừa học.
Kỹ năng sử dụng tiếng Việt cần được luyện tập trong các dạng hoạt động
lời nói, trong các tình huống giao tiếp đa dạng. Các nội dung và yêu cầu luyện
tập phải gắn bó với sự hành dụng của tiếng Việt, các kỹ năng được dạy không
nên tách rời nhau. Dạy tập đọc, dù nhấn mạnh yêu cầu luyện đọc nhưng cần kết
hợp dạy nghe, nói, viết. Dạy chính tả, dù nhấn mạnh yêu cầu viết nhưng cần kết

hợp luyện kỹ năng đọc, nghe. Đó là cách dạy tổng hợp các kỹ năng trong các
hoàn cảnh giao tiếp, trong hoạt động lời nói. Đồng thời, luyện tập các kỹ năng sử
dụng tiếng Việt ở nhà trường cần gắn với việc học văn hóa ứng xử bằng ngôn
ngữ của người Việt và kinh nghiệm giao tiếp bằng tiếng Việt. Việc gắn liền dạy
tiếng Việt với dạy văn hóa, dạy tiếng Việt với dạy người, đó cũng chính là thể
hiện quan điểm tích hợp trong dạy học tiếng Việt ở nhà trường phổ thông.
Các kỹ năng sử dụng tiếng Việt là một hệ thống phức hợp các kỹ năng bộ
phận và kỹ năng tổng hợp. Bởi vậy có sự phân chia thành các bộ phận để luyện
9
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

tập từ mức độ thấp đến mức độ cao, từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Việc phân chia mức
độ đó được thể hiện ở hệ thống bài tập được sử dụng trong dạy học tiếng Việt.
Đặc biệt, để phát huy được vai trị tích cực trong hoạt động nhận thức của học
sinh, cần cho học sinh làm quen với việc độc lập giải quyết vấn đề. Và bài tập
tình huống chính là hạt nhân của việc dạy học giải quyết vấn đề đó.
Vậy kỹ năng sử dụng tiếng Việt gồm những kỹ năng bộ phận nào ?
1.3. Cấu trúc của kỹ năng sử dụng tiếng Việt.
Kỹ năng sử dụng tiếng Việt bao gồm 4 kỹ năng bộ phận là đọc, nghe, nói
và viết. Hiệu quả của việc sử dụng tiếng Việt là học sinh phải biết nghe chính
xác, nói trơi chảy, đọc thơng, viết thạo, nhằm đáp ứng yêu cầu, nội dung học tập
và giao tiếp trong cuộc sống.
1.3.1. Kỹ năng đọc.
Đọc là hoạt động nhận tin. Hoạt động đọc chỉ xảy ra khi người đọc nắm
được chữ viết. Đọc là dùng mắt và cơ quan thị giác để chuyển các ký hiệu chữ
viết trong văn bản thành dịng âm thanh ngơn ngữ (vang lên trong khơng khí
hoặc trong đầu). Sau đó, người đọc phải dùng các thao tác tư duy để thông hiểu

nội dung văn bản.
Ở trường tiểu học, phân mơn tập đọc có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh
kỹ năng đọc. Kỹ năng đọc là sự vận dụng những tri thức lý thuyết về đọc vào
việc thực hiện đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm một văn bản. Yêu cầu đọc
đúng, đọc rõ ràng, rành mạch, đọc thông thạo và lưu loát là yêu cầu đầu tiên nhà
trường phải rèn luyện cho học sinh. Yêu cầu đọc hiểu là một yêu cầu quan trọng
cần chú ý khi dạy tập đọc. Yêu cầu đọc diễn cảm với quan niệm nhằm mục đích
rèn luyện kỹ năng đọc và kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng đọc. Đó là khả năng hoạt động
của cơ quan thị giác và cơ quan phát âm, trình độ am hiểu về đề tài sẽ đọc, năng
lực cảm thụ văn học, các kỹ thuật xử lý giọng đọc để diễn đạt cảm xúc…Vì vậy,
người giáo viên phải có biện pháp dạy học tác động vào cả mặt kỹ thuật và mặt
10
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

thông hiểu nội dung của q trình đọc; xác định phương pháp dạy học thích hợp
cho từng lớp học để đưa lại hiệu quả của việc hoạt động ngôn ngữ.
1.3.2. Kỹ năng nghe.
Nghe là một hoạt động nhận tin nhờ bộ máy thính giác. Đầu tiên người
nghe phải nghe chính xác, đầy đủ thơng báo. Sau đó, nhờ các hoạt động của tư
duy mà chúng ta hiểu được nội dung các thông báo.
Trong trường tiểu học, học sinh phải nghe trong nhiều trường hợp, phổ
biến nhất là nghe thầy giảng bài, nghe phát biểu ý kiến xây dựng bài, nghe trao
đổi thảo luận khi học…Nhiều trường hợp học sinh nghe mà chỉ hiểu một phần,
thậm chí khơng hiểu hoặc có hiểu thì hiểu khơng thấu đáo, đầy đủ, không hiểu
hết sự tinh vi của lời người nói. Vì vậy, nhà trường cần rèn luyện cho học sinh
kỹ năng nghe.

Kỹ năng nghe là sự vận dụng những tri thức lý thuyết về nghe vào việc
nghe đúng, nghe chính xác để thực hiện các nhiệm vụ học tập. Trong các phân
mơn của tiếng Việt: tập đọc, chính tả và kể chuyện có nhiều điều kiện rèn luyện
kỹ năng nghe (chủ yếu là hình thức nghe độc thoại) cho học sinh. Chính tả rèn
cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác để viết lại đúng, chính xác các bài chính
tả. Tập đọc rèn cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác và nghe tinh tế để nhận
sự diễn cảm trong giọng đọc. Có lẽ kể chuyện có ưu thế hơn cả. Học sinh không
những được rèn luyện nghe đúng, chính xác mà cịn được rèn luyện khả năng
nghe hiểu nội dung câu chuyện để sau đó có khả năng tái tạo lại.
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kỹ năng nghe của học sinh ? Trước tiên
là sự lành mạnh của cơ quan thính giác. Sau đó là vốn hiểu biết xung quanh đề
bài sẽ nghe, là tâm thế khi bước vào nghe. Và cuối cùng là khả năng ghi chép khi
nghe. Vì vậy, nhà trường Tiểu học phải giúp học sinh rèn luyện dần mới đạt
được kết quả sử dụng.
1.3.3. Kỹ năng nói.
Nói là hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên người nói
phải xác định nội dung lời nói, lựa chọn ngơn ngữ để diễn tả nội dung đó. Sau
11
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

đó, người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi chuỗi lời nói đã được xác
định.
Ở nhà trường, học sinh nói trong nhiều trường hợp. Các em nói khi chơi
đùa, trao đổi với bạn bè ngồi lớp. Các em nói trong giờ học: trả lời câu hỏi,
trình bày các nội dung hoặc câu chuyện nghe được, đọc được, thảo luận…Cũng
như kỹ năng nghe, nhà trường phải dạy cho học sinh kỹ năng nói, từ cách chào
hỏi, xưng hơ đến cách trình bày hoặc trả lời câu hỏi.

Kỹ năng nói là sự vận dụng những hiểu biết về lý thuyết lời nói và việc
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập vào trong giao tiếp cuộc sống, thể
hiện trình độ văn minh lịch sự của người có học. Cùng với yêu cầu của việc sử
dụng kỹ năng ngơn ngữ, kỹ năng nói ngày càng được coi trọng trong dạy học
tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng nói, cũng như kỹ năng nghe, phải
kể đến hoạt động của bộ máy phát âm. Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu
rộng của người nói, khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh, cách chọn đề
tài…là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của bài nói hoặc câu trả lời.
Ngồi ra các thủ thuật để lời nói gây sự hấp dẫn (cách sử dụng giọng nói, lời kể,
các yếu tố phụ trợ…) là những yếu tố cần tính tới khi rèn luyện kỹ năng nói.
1.3.4. Kỹ năng viết.
Chữ viết là một hệ thống ký hiệu ngơn ngữ bằng đồ hình được quy định
thống nhất ở từng quốc gia hoặc từng dân tộc. Để viết được chữ, người viết phải
nắm được mẫu chữ, nắm các thao tác viết, các loại nét chữ, nắm các quy định về
cách ngồi viết, cách cầm bút đưa bút thành nét…
Sự vận dụng những tri thức về chữ viết cùng với sự sáng tạo trong nhận
thức để viết chữ và viết văn bản, thực hiện nhiệm vụ học tập gọi là kỹ năng viết.
Kỹ năng viết gồm kỹ năng viết chữ và kỹ năng viết văn bản.
Kỹ năng viết chữ là kỹ năng thiên về mặt kỹ thuật, đòi hỏi sự khéo léo,
kiên trì luyện tập. Ở tiểu học, kỹ năng này được thực hành từ bài học âm đầu
tiên, kéo dài suốt đến lớp 3 và học kỳ I của lớp 4.
12
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Kỹ năng viết văn bản đối với Tiểu học ở mức độ thấp là chép lại, ghi lại
các văn bản đã có theo lời người khác đọc hoặc dựa vào trí nhớ. Đó là loại bài

chính tả, kỹ năng viết chính tả được rèn luyện suốt bậc Tiểu học. Ở mức độ cao
là sự sáng tạo các loại văn bản theo đề tài tự chọn hoặc quy định. Có loại kỹ
năng thường gắn với các thao tác tư duy như: kỹ năng xác định yêu cầu của đề
tài, kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, kỹ năng phát triển ý…Có loại kỹ năng thiên về mặt
ngôn ngữ như kỹ năng diễn đạt ý thành câu và đoạn, kỹ năng liên kết đoạn và
bài, kỹ năng viết câu, dùng từ, kỹ năng sửa chữa lỗi…Các kỹ năng viết văn bản
một cách sáng tạo được luyện tập từ lớp 2 đến lớp 5 với các mức độ tương ứng.
Như vậy, kỹ năng viết không chỉ đơn giản là sự thuần thục trong viết chữ
mà quan trọng hơn là thể hiện được suy nghĩ, quan điểm của mình trong học tập
và trong giao tiếp cuộc sống.
Dạy Tiếng Việt là dạy cho học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Đó là
4 kỹ năng: đọc, nghe, nói và viết. Để tối ưu hóa q trình dạy học Tiếng Việt, tối
ưu hóa hoạt động ngơn ngữ của học sinh, cần hướng học sinh vào việc giải quyết
các bài tập tiếng Việt. Và bài tập tình huống là một trong những hình thức bài
tập hiệu quả cho việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh tiểu
học.
2. BÀI TẬP TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC

2.1. Bài tập tình huống là gì ?
2.1.1. Tình huống:
Tình huống là sự diễn biến của tình hình địi hỏi phải đối phó.
C.L.Rubinstein nhấn mạnh rằng: "Tư duy chỉ bắt đầu ở nơi xuất hiện tình huống
có vấn đề. Nói cách khác là ở đâu khơng có vấn đề ở đó khơng có tư duy". Tình
huống có vấn đề luôn luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ
cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ…Và do vậy, kết quả của việc nghiên
cứu và giải quyết tình huống có vấn đề sẽ là những tri thức mới, nhận thức mới
hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.

13
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Trong dạy học, việc tạo ra các tình huống có vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức của người học, giúp người
học lĩnh hội tri thức mới, đồng thời cũng làm xuất hiện mâu thuẫn mới tạo ra nhu
cầu, động cơ để giải quyết mâu thuẫn mới. Phương tiện để đạt được hiệu quả đó
chính là việc sử dụng bài tập tình huống.
2.1.2. Bài tập tình huống.
Bài tập tình huống là việc đưa ra những yêu cầu đòi hỏi học sinh phải biết
vận dụng những điều đã học, biết tìm tịi khám phá để giải quyết vấn đề gặp
phải. Nói cách khác, bài tập tình huống là bài toán Ơristic chứa đựng mâu thuẫn
nhận thức. Mâu thuẫn này phải có tác dụng kích thích được tính tích cực trong
học sinh, học sinh chấp nhận nó như một nhu cầu và có khả năng giải quyết được
hoặc dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà học sinh có thể giải quyết được.
Nhìn ở khía cạnh tâm lý, bài tập tình huống được hiểu là những "trở ngại"
xảy ra trong quá trình nhận thức của học sinh, học sinh chấp nhận nó như một
nhu cầu cần giải quyết nhằm đưa lại tri thức mới. Tự mình khám phá ra vấn đề
đem lại cho học sinh niềm vui trí tuệ khác thường. Đó là một trong những tình
cảm hân hoan trong sáng nhất trong quá trình học tập.
Việc đưa những bài tập tình huống vào trong giờ học có thể trở thành một
phương tiện giáo dục phát triển vô cùng quan trọng trong nhà trường hiện nay.
Các loại khó khăn như vậy càng được vượt qua nhiều bao nhiêu và có kết quả
bao nhiêu thì càng phát triển được cho trẻ nhiều phẩm chất tốt như tính độc lập,
tính tích cực sáng tạo bấy nhiêu và các em càng được chuẩn bị tốt để bước vào
đời. Cảm xúc phấn chấn đi liền khi giải quyết được các nhiệm vụ, khắc phục
được khó khăn và tiến hành cơng việc đến nơi đến chốn góp phần thuận lợi cho
việc giáo dục một cá nhân có tính mục đích, có ý chí, phát triển những phẩm chất
cần thiết cho con người tích cực cải tạo cuộc sống. Chính vì vậy mà trong những

năm gần đây, các tập thể sư phạm lưu ý nhiều đến việc dạy học gợi vấn đề, nó
mở ra những khả năng mới mẻ cho việc giáo dục tư duy tích cực.
2.2. Bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt ở Tiểu học.
14
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt là việc định hướng cho học
sinh tự khai thác, chiếm lĩnh tri thức tiếng Việt. Đây là phương tiện rất có hiệu
quả trong việc rèn luyện năng lực ngôn ngữ và phát triển tư duy cho học sinh,
nâng dần trình độ giao tiếp bằng tiếng Việt của các em.
Bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt nhằm mục đích rèn luyện cho
học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt, đó là các kỹ năng: đọc, nghe, nói và viết.
Vì vậy, trước tiên phải giúp học sinh hiểu được tri thức tiếng Việt và việc sử
dụng tiếng Việt.
Tuy nhiên, cũng như các môn học khác, dạy học tiếng Việt khơng phải là
việc giáo viên phân tích, bình giảng, truyền thụ kiến thức đến học sinh một cách
áp đặt mà phải giúp học sinh tìm tịi, phát hiện ra vấn đề, từ đó hình thành năng
lực cảm thụ văn học, rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Dạy học tiếng Việt
không phải là việc chỉ ra cho học sinh phải như thế này, như thế kia mà là phải
giúp cho học sinh hiểu nhiều hơn về cuộc sống, biết sử dụng ngôn ngữ trong
cuộc sống thường ngày.
Với yêu cầu về tri thức ngôn ngữ ở bậc tiểu học còn ở mức sơ giản, chưa
yêu cầu các em nắm bản chất ngơn ngữ. Vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của bài tập là
hình thành, rèn luyện các kỹ năng, các thao tác xác định quy trình thực hiện nó.
Đối với học sinh tiểu học có thể xem việc giải bài tập Tiếng Việt là một
phương tiện rất có hiệu quả và khơng thể thay thế được trong việc giúp học sinh
hình thành năng lực ngơn ngữ, phát triển tư duy. Hoạt động giải bài tập là điều

kiện thực hiện tốt các mục đích dạy học. Vì vậy, tổ chức thực hiện có hiệu quả
các bài tập này có vai trị quyết định đối với chất lượng dạy học nói chung và
chất lượng dạy học tiếng Việt nói riêng.
Tình huống trong dạy học tiếng Việt là các tình huống ngơn ngữ. Vậy đặc
điểm của nó như thế nào ?
2.2.1. Đặc điểm của bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt ở Tiểu học.
a. Bài tập tình huống phải phù hợp với mục đích, yêu cầu của từng phân
môn, từng bài học cụ thể.
15
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Trong dạy học tiếng Việt nói chung và trong các phân mơn của Tiếng Việt
nói riêng luôn đặt ra những mục tiêu rất cụ thể, rõ ràng.
Về mặt kiến thức: đó là sự lĩnh hội, hiểu biết tri thức tiếng mẹ đẻ.
Về mặt kỹ năng: luôn đặt ra 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt: đọc, nghe, nói, viết
Về mặt thái độ: là gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc.
Mục tiêu đó được thể hiện trong việc xây dựng nội dung ở tất cả các phân
môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Mỗi phân môn coi trọng những kỹ năng nhất định.
Phân môn tập đọc rèn luyện kỹ năng đọc, phân môn tập viết rèn luyện kỹ năng
viết, phân môn tập làm văn rèn luyện kỹ năng nói, viết. Riêng kỹ năng nghe
khơng được đặt trọng tâm như vậy nhưng nó được rèn luyện một cách tự phát
qua việc học tất cả các phân mơn từ tập đọc, chính tả đến kể chuyện…Vì vậy,
trong dạy học tiếng Việt nói chung và dạy học theo phương pháp nêu vấn đề (ở
đây là sử dụng bài tập tình huống) nói riêng phải căn cứ vào mục tiêu của từng
phân môn nhất định. Chẳng hạn, cùng rèn luyện kỹ năng nghe nhưng chính tả
rèn cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác để viết đúng, chính xác bài chính tả.
Tập đọc rèn cho học sinh nghe đúng, nghe chính xác, nghe tinh tế để nhận ra sự

diễn cảm trong giọng đọc. Và nghe trong kể chuyện còn yêu cầu cao hơn là rèn
luyện khả năng nghe hiểu nội dung câu chuyện để sau đó tái tạo lại câu chuyện.
Dạy học theo phương pháp mới yêu cầu người giáo viên phải linh hoạt
trong quá trình dạy học. Thay vì áp đặt cho học sinh giọng đọc của các nhân vật,
giáo viên có thể đưa ra yêu cầu: "Các em hãy theo dõi cô đọc bài, phát hiện ra
giọng đọc và thể hiện lại giọng đọc đó". Như vậy, vừa giúp học sinh rèn luyện kỹ
năng nghe, kỹ năng đọc vừa tạo cơ sở cho các em tự khai thác nội dung bài học.
Có như vậy mới đạt được mục tiêu của giờ học.
b. Bài tập tình huống phải phù hợp với thể loại, nội dung bài học từng
phân môn của Tiếng Việt.
Mỗi phân môn Tiếng Việt đặt ra một nhiệm vụ trọng tâm. Dù là phương
pháp hay hình thức dạy học nào cũng khơng nằm ngồi u cầu chung của mơn
học.
16
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngữ liệu sử dụng trong môn Tiếng Việt rất phong phú. Trong phân môn
Từ ngữ - Ngữ pháp, đó là các trích đoạn theo các phong cách khác nhau. Ở phân
môn tập làm văn, các yêu cầu rất gần gũi với cuộc sống thực tế của học sinh,
hướng vào phục vụ cuộc sống của các em, giúp các em có khả năng vận dụng
vào việc học tập và giao tiếp hàng ngày. Có thể nói, đặc trưng của ngữ liệu môn
Tiếng Việt được thể hiện rõ trong phân mơn tập đọc. Đó là các tác phẩm mang
đậm tính văn chương. Các tác phẩm đó có thể là thơ, là văn hay truyện…Vì thế,
bài tập tình huống cần khai thác trên cơ sở của ngữ liệu bài học đưa ra.
Bài tập tình huống phải dựa trên thể loại của tác phẩm, dựa vào nội dung
của bài học để hình thành tri thức và kỹ năng tiếng Việt cho học sinh. Cùng một
tác phẩm khi sử dụng trong một phân mơn phải có hình thức bài tập phù hợp.

Cùng tác phẩm "Chú mèo con" (Tiếng Việt 3 - tập 2 - CCGD) nhưng trong tập
đọc giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ: "nép", "rình", "chồm", "nhảy". Cịn
trong ngữ pháp, giúp học sinh hiểu được hình thức sử dụng: Đó là các từ tả động
tác, hoạt động của chú mèo và những từ đó là động từ. Và tác phẩm đó cũng có
thể là bài tham khảo cho học sinh khi đứng trước đề bài tập làm văn: Tả con vật
mà em yêu thích.
Như vậy, với mỗi thể loại, mỗi bài học, mỗi tiết học cần phải xây dựng
những bài tập phù hợp vừa trách được sự nhàm chán, vừa kích thích được sự
hứng thú học tập của các em.
c. Bài tập tình huống phải phù hợp với tiến trình giờ học.
Phương pháp dạy học hiện đại là phương pháp dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, nghĩa là hướng đến sự hoạt động tích cực của học sinh, học sinh phải
tự mình tìm kiếm tri thức. Vì vậy, quá trình dạy học là quá trình giáo viên hướng
dẫn, tổ chức còn học sinh là người chủ động tìm hiểu nội dung, bản chất của vấn đề.
Thơng thường, một giờ học bao giờ cũng có giới thiệu bài; nội dung bài và
luyện tập củng cố. Với những tiến trình đó có những cơng việc thích hợp.
Nội dung của bài học luôn yêu cầu học sinh phải phát hiện ra các yếu tố
của vấn đề, tái hiện được các yếu tố đó dưới dạng trả lời câu hỏi hoặc giải mã bài
17
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

tập và cuối cùng là nâng cao, khái quát hóa được bản chất vấn đề. Bài tập tình
huống trong dạy học tiếng Việt đồng thời cũng phải phù hợp với tiến trình đó.
Q trình tự giải mã bài tập theo lôgic của sự phát triển tư duy (phát hiện  tái
hiện  nâng cao) sẽ kích thích được sự tích cực tự giác của học sinh, giúp các
em hiểu rõ, khắc sâu nội dung bài học. Và trong dạy học Tiếng Việt, hệ thống
bài tập sẽ giúp cho học sinh nắm được các tri thức tiếng Việt và các kỹ năng sử

dụng chúng. Vì vậy, bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt phải phù hợp,
phải theo suốt tiến trình giờ học.
d. Bài tập tình huống phải phong phú, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học
sinh.
Khoa học về tâm lý trẻ em đã chỉ ra một đặc trưng riêng biệt ở trẻ đó là
hay bắt chước, nhanh thuộc, chóng quên. Các em thích làm quen, thích tìm hiểu
với những vấn đề mới mẻ. Vì vậy, nhà trường có nhiệm vụ tạo ra cái mới, chứ
không chỉ khai thác, tận dụng cái trẻ em đã đạt được. Việc sử dụng bài tập tình
huống trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học cũng vì thế mà phải đa dạng, phong
phú. Đó cũng chính là địi hỏi của riêng mơn Tiếng Việt với sự phong phú về
phân mơn. Có như vậy mới kích thích được sự hứng thú học tập của học sinh,
tránh cảm giác nhàm chán, uể oải trong quá trình tự chiếm lĩnh tri thức.
Bài tập tình huống trong quá trình dạy học đồng thời phải phù hợp với đặc
điểm nhận thức cũng như năng lực ngôn ngữ của học sinh.
Triết học Mac - xít đã chỉ ra con đường của sự nhận thức chân lý đó là "từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn". Nhận thức của học sinh Tiểu học cũng khơng nằm ngồi chân lý ấy. Nếu
như học sinh lớp 1 có nhu cầu tìm hiểu "cái đó là gì ? " thì học sinh các lớp cuối
bậc học lại có nhu cầu giải quyết các câu hỏi "tại sao ? " và "như thế nào? ".
Chính vì vậy, việc sử dụng bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt phải tính
đến đặc điểm này của học sinh Tiểu học.
Bên cạnh đó, ngơn ngữ của các em cịn nhiều hạn chế. Về mặt số lượng,
những gì các em có được vẫn chưa đáp ứng được dầy đủ nhu cầu trong những
18
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

hoàn cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống. Về mặt chất lượng, sự hiểu biết

nghĩa từ của các em còn nghèo nàn, chưa sinh động. Câu nói khi diễn đạt những
ý tương đối phức tạp thì mang nhiều sai phạm về ngữ pháp. Ngơn ngữ của các
em thường dùng là một kiểu loại khẩu ngữ, hồn nhiên nhưng thiếu gọt giũa nên
nhiều chỗ chưa được chuẩn. Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà chúng ta đặt ra và
coi trọng hơn vấn đề dạy lý thuyết ngôn ngữ. Việc dạy lý thuyết ngôn ngữ được
tiến hành song song với việc thực hành ngơn ngữ, hình thành ở các em các kỹ
năng sử dụng tiếng Việt: đọc, nghe, nói và viết.
Dạy học Tiếng Việt vừa phải phát huy được vốn ngơn ngữ sẵn có của học
sinh, vừa hướng đến sự phát triển ngôn ngữ của các em. Các nhiệm vụ trên chỉ
có thể thực hiện được thơng qua hệ thống bài tập tương ứng. Có như vậy, việc
dạy - học Tiếng Việt mới đạt được hiệu quả mong muốn.
e. Bài tập tình huống phải chính xác, rõ ràng, ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu.
Để đáp ứng nhu cầu học tập và khả năng ngôn ngữ của học sinh Tiểu học,
nhà trường cần đưa đến cho các em nội dung học tập phong phú, đảm bảo tính
khoa học, hiện đại và chuẩn mực cuộc sống. Vì vậy, bài tập tình huống cần đạt
đến độ chuẩn xác cao, nội dung kiến thức cần cung cấp cho học sinh phải đảm
bảo tính chất khoa học của ngơn ngữ. Đồng thời, yêu cầu nội dung bài tập cũng
phải rõ ràng, dễ hiểu. Xây dựng bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt để
phát triển kỹ năng thực hành ngôn ngữ cho học sinh Tiểu học thể hiện trước hết
ở lệnh đề của bài tập và những gợi ý định hướng để học sinh tự khám phá tri
thức. Yêu cầu này thể hiện ở việc dùng từ, đặt câu và diễn đạt ý.
Dùng từ phải chính xác, trong sáng, dễ hiểu, mỗi từ phải mang một nội
dung xác định, loại trừ các cách dùng từ mang tính nhiều nghĩa của phong cách
nghệ thuật. Đặc biệt, hệ thống thuật ngữ được sử dụng phải rất chuẩn xác, đúng
lúc, đúng chỗ, đúng mức độ, không để các em hiểu sai các thuật ngữ này, khơng
để các thuật ngữ làm rối trí các em, không buộc các em phải nhớ các thuật ngữ
khi không cần thiết.

19
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đặt câu và dùng câu phải ngắn gọn, rõ ràng, sáng sủa. Số câu phức cần
hạn chế, tăng cường sử dụng câu đơn để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp nhận tri thức
mà bài tập cần cung cấp.
Diễn đạt trong bài tập phải mạch lạc, khúc triết; kết hợp hợp lý giữa kênh
hình và kênh chữ, giữa lệnh đề và nội dung, hình thức bài tập.
Có thể nói, đây là đặc điểm mang tính trực quan nhất, thể hiện được vai
trò của việc sử dụng ngôn ngữ đối với học sinh Tiểu học.
Như vậy, trong dạy học tiếng Việt bằng phương pháp sử dụng bài tập tình
huống, việc tiếp thu chủ đề của bài học trở thành nhu cầu của bản thân học sinh,
một nhu cầu nảy sinh từ sự cần thiết, đã ý thức được, phải tìm tịi cách giải quyết
vấn đề tốn tại. Nhu cầu này trở thành một nguồn động cơ thúc đẩy sự phát triển
của hoạt động nhận thức chủ đề trên và giúp học sinh huy động những nỗ lực ý
chí của mình, làm cho ý thức của mình tập trung vào đối tượng, tăng cường tư
duy tích cực và tiềm năng phản ứng của tư duy và như vậy là góp phần cho việc
dạy học đạt kết quả tốt.
Cách thức giải quyết một tình huống có vấn đề khơng có sẵn trong những
tri thức đã tích luỹ được. Vì vậy, nó địi hỏi phải vận dụng những hành động trí
tuệ tương ứng nhằm tìm ra câu trả lời.
Trong cơ cấu hoạt động học tập của học sinh, tư duy sáng tạo của các em
đóng vai trị chủ đạo, nó do giáo viên điều khiển và hướng vào việc tìm tịi điều
cần biết. Vai trị của sự tìm tịi trong học tập càng lớn bao nhiêu thì kết quả học
tập càng cao bấy nhiêu, cả về mặt lĩnh hội tri thức lẫn mặt phát triển trình độ tư
duy.
Và việc sử dụng các bài tập tình huống để rèn luyện kỹ năng trong dạy học
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học cần xây dựng theo các đặc điểm trên. Có như
vậy, vừa đảm bảo được mục tiêu của giờ học, vừa phát huy được tính tích cực

sáng tạo trong học tập của học sinh, mang lại hiệu quả giờ học cao.
2.2.2. Nguyên tắc xây dựng bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt
ở Tiểu học.
20
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Để thực hiện được quan điểm về bài tập tình huống và đáp ứng được
nhiệm vụ của phân mơn, hệ thống bài tập tình huống rèn luyện kỹ năng thực
hành ngôn ngữ cần phải xây dựng theo những nguyên tắc sau:
a. Đảm bảo tính khoa học.
Bài tập tình huống phải chỉ rõ được vai trị, vị trí của các thành phần kiến
thức của từng bài học cụ thể. Đối với môn Tiếng Việt, phải đảm bảo tính chính
xác, hiện đại của nội dung dạy học, chỉ đạo việc xác định chuẩn kiến thức cho
bài tập được đưa vào sử dụng trong giảng dạy.
b. Đảm bảo tính hệ thống.
Tình huống có vấn đề phải đảm bảo được tính lơgic nhận thức, từ hiện
tượng đến bản chất, mối quan hệ bản chất giữa các bài học và các nội dung học
tập khác có liên quan. Hệ thống bài tập tình huống trong dạy học tiếng Việt phải
được xây dựng trên cơ sở hệ thống các văn bản dạy trong chương trình Tiếng
Việt tiểu học. Ở đây, chỉ xây dựng những bài tập tình huống để rèn luyện cho
học sinh kỹ năng thực hành ngôn ngữ: đọc, nghe, nói, viết.
c. Đảm bảo tính vừa sức.
Việc xây dựng bài tập tình huống phải tính đến q trình nhận thức của
học sinh, phải vừa sức đối với học sinh. Hay nói cách khác khi xây dựng bài tập,
giáo viên cần chú ý đến sự phát triển của hệ thống các kiến thức và khả năng
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa của học sinh, phải đảm bảo được sự hoạt động
tư duy, sáng tạo từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, để từ đó học sinh bằng hoạt động

của mình rút ra được những kiến thức phức tạp, đa dạng của nội dung trong bài
học.
Bài tập trong dạy học tiếng Việt còn phải chú ý đến việc bồi dưỡng kỹ
năng thực hành ngôn ngữ cũng như năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu
học. Bởi vì Tiếng Việt là khoa học mang đặc trưng riêng mà các ngành học khác
khơng có được. Qua việc thực hiện bài tập, học sinh cảm nhận được những điều
kì thú và hấp dẫn theo đặc trưng của từng phân môn.
21
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

d. Đảm bảo tính khả thi.
Nội dung và hình thức của bài tập tình huống phải thể hiện yêu cầu đổi
mới về phương pháp dạy học. Khi xây dựng bài tập, chúng ta cần chú ý đến mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học, phải căn cứ vào thành tựu của các ngành khoa học có
liên quan và căn cứ vào điều kiện dạy học tiếng Việt ở nhà trường tiểu học hiện
nay.
Các loại bài tập phải phong phú, đa dạng về nội dung và hình thức, tòan
bộ bài tập là một hệ thống việc làm đòi hỏi học sinh phải có sự phối hợp một vài
hành động, thao tác. Và vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút được tất cả học
sinh cùng tham gia thực hiện và thực hiện được hệ thống bài tập ấy một cách nhẹ
nhàng, sinh động và đạt hiệu quả cao.
Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu về đặc điểm riêng trong kỹ năng sử dụng
tiếng Việt của học sinh Tiểu học. Chúng ta cũng đã nghiên cứu những ứng dụng
của giáo dục học về phương pháp dạy học tích cực và việc đổi mới phương pháp
dạy học bằng hệ thống bài tập. Đó chính là cơ sở về mặt lý luận cho việc xây
dựng hệ thống bài tập tình huống nhằm rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho
học sinh Tiểu học.

2.2.3. Các loại bài tập tình huống.
Dạy học bằng bài tập tình huống là một hình thức của việc dạy học giải
quyết vấn đề địi hỏi phải xuất phát từ mục tiêu, nội dung của từng mơn học,
từng bài học cụ thể. Chính vì vậy, việc phân loại bài tập tình huống cũng có
những căn cứ khác nhau và có hệ thống bài tập tình huống tương ứng.
- Hệ thống bài tập tình huống theo phương pháp dạy học có bài tập tình
huống dùng lời, bài tập tình huống thực hành, bài tập tình huống luyện tập, ơn tập.
- Hệ thống bài tập tình huống theo các bước lên lớp gồm bài tập tình
huống vào bài, bài tập tình huống phát triển bài, bài tập tình huống luyện tập
củng cố.

22
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

- Hệ thống bài tập tình huống theo cấu trúc của kỹ năng sử dụng tiếng Việt
có bài tập tình huống rèn luyện kỹ năng nghe, bài tập tình huống rèn luyện kỹ
năng nói, bài tập tình huống rèn luyện kỹ năng đọc và bài tập tình huống rèn
luyện kỹ năng viết.
- Hệ thống bài tập tình huống theo các loại tình huống có các bài tập: bài
tập tình huống phát hiện, bài tập tình huống lựa chọn, bài tập tình huống bế tắc,
bài tập tình huống nghịch lý, bài tập tình huống tự luận, bài tập tình huống giả
định, bài tập tình huống đóng vai.
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng hệ thống các bài tập tình huống
phân theo các loại tình huống tương ứng và trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học,
đó là các tình huống ngơn ngữ. Việc đưa ra các bài tập tình huống ngơn ngữ mục
đích để rèn luyện các kỹ năng: đọc - nghe - nói - viết ở các phân mơn của tiếng
Việt. Đó là việc luyện tập kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong các dạng hoạt động

lời nói, trong tình huống giao tiếp đa dạng. Và vì vậy, mỗi kỹ năng có u cầu
rèn luyện riêng.
Rèn luyện kỹ năng nghe là rèn luyện cả kỹ năng nghe trong hội thoại và
trong nghe hiểu văn bản.
Rèn luyện kỹ năng nói là việc rèn luyện khả năng nói trong những tình
huống giao tiếp cụ thể.
Rèn luyện kỹ năng đọc là rèn luyện các kỹ năng bộ phận: kỹ năng đọc
thành tiếng, kỹ năng đọc thầm và kỹ năng đọc hiểu văn bản.
Rèn luyện kỹ năng viết là rèn luyện cho học sinh các kỹ năng viết chữ, kỹ
năng viết chính tả và kỹ năng luyện tập viết văn bản.
Để đạt được mục đích rèn luyện, việc thực hành các kỹ năng Tiếng Việt
cần được đưa vào các tình huống cụ thể. Hệ thống bài tập tình huống theo các
loại tình huống đã đáp ứng được nhu cầu đó.
- Bài tập tình huống phát hiện: Đây là bài tập được sử dụng rộng rãi trong
các phân môn của Tiếng Việt, đặt học sinh trước một vấn đề, yêu cầu học sinh
23
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

tìm ra nội dung của vấn đề. Trong dạy học tập đọc, đó là việc tìm ra cách đọc của
bài, các từ ngữ, chi tiết quan trọng của bài. Trong dạy học ngữ pháp là việc phát
hiện ra các dấu hiệu ngữ pháp. Trong dạy học chính tả là việc phát hiện ra cái
chuẩn để có kỹ năng sử dụng. Trong dạy học tập làm văn là việc xác định yêu
cầu, trọng tâm của bài làm…Muốn phát hiện được bản chất của vấn đề, học sinh
phải đọc kỹ nội dung, nghiên cứu nó. Khả năng làm quen với tiếng Việt và rèn
luyện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt, nâng cao năng lực cảm thụ văn học cũng
được hình thành qua việc giải quyết các bài tập tình huống này.
- Bài tập tình huống lựa chọn: Là bài tập đặt học sinh trước một mâu thuẫn

với nhiều phương án giải quyết. Các em phải tìm ra được phương án giải quyết
đúng nhất. Trong dạy học Tiếng Việt, các tình huống đó là các tình huống ngơn
ngữ và sự lựa chọn đó là sự lựa chọn theo đặc trưng môn học. Chẳng hạn, việc
lựa chọn nghĩa của từ trong phân mơn từ ngữ là việc tìm nghĩa chuẩn nhưng
trong phân mơn tập đọc đó là nghĩa của văn cảnh. Bài tập này được sử dụng
nhiều trong dạy học Tiếng Việt. Đó có thể là bài tập lựa chọn đúng sai, lựa chọn
bằng trắc nghiệm, lựa chọn bằng gạch nối và lựa chọn điền thế, điền từ. Để giải
quyết được các loại bài tập này, học sinh cần có vốn tri thức về tiếng Việt, khả
năng vận dụng chúng vào việc học. Trên cơ sở đó các kỹ năng đọc, nói, viết của
học sinh sẽ được rèn luyện và củng cố.
- Bài tập tình huống bế tắc: Khi xây dựng bài tập này phải chứa đựng "nút" bế
tắc, học sinh thoạt đầu không thể lấy kiến thức cũ để giải quyết được. Các em
phải tìm tịi, tháo gỡ khó khăn gặp phải. Đây là loại bài tập thường gắn liền với
việc tìm ra khái niệm, bản chất của ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, tri thức tiếng
Việt được cung cấp ở hầu hết các phân môn nhưng thể hiện rõ nhất là trong phân
môn tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp và tập làm văn. Việc tháo được "nút" sẽ là động
lực thúc đẩy học sinh tự tìm kiếm, lĩnh hội tri thức. Đây cũng là phương tiện để
học sinh luyện nói, viết có hiệu quả.

24
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

- Bài tập tình huống nghịch lý: Dựa vào mâu thuẫn trong nhận thức của
học sinh, các em phải phân tích, lý giải, bác bỏ hay công nhận về một kết quả
thuận và nghịch với lôgic thông thường, lôgic trong nhận thức ngôn ngữ văn học.
Điểm đặc biệt trong dạy học Tiếng, những nghịch lý ấy là nghịch lý của
ngơn ngữ. Nó địi hỏi một sự lý giải thấu đáo của cá nhân học sinh về một lôgic

trừu tượng, nghệ thuật. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nó khơng mang tính
chính xác, khoa học. Bài tập tình huống nghịch lý tạo điều kiện cho học sinh có
khả năng trao đổi, thảo luận, bàn bạc, vừa mang tính tập thể, vừa mang tính cá
thể. Nó rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết, kỹ năng nói và đặc biệt là kỹ năng
lập luận vấn đề. Đây là kỹ năng rất quan trọng hỗ trợ cho học sinh trong học tập
và giao tiếp cuộc sống.
- Bài tập tình huống tự luận: Đặt học sinh trước một vấn đề văn học, ngôn
ngữ, học sinh phải bộc lộ được khả năng của riêng mình, khẳng định được những
hiểu biết, những kỹ năng vận dụng ngơn từ của mình. Tình huống tự luận đặt học
sinh trước vấn đề luyện viết (kỹ năng dùng từ, đặt câu), luyện nói (trình bày,
diễn thuyết). Hiệu quả của quá trình này trong dạy học Tiếng Việt rất phong phú,
đa dạng. Trong tình huống ngữ pháp sử dụng câu theo mục đích sẽ có nhiều câu
đối thoại bất ngờ. Trong tập đọc sẽ có những khám phá, những sáng tạo thú vị.
Trong tập làm văn sẽ có sản phẩm độc đáo. Tất cả đều không theo một khuôn
mẫu cho trước. Đây là loại bài tập đòi hỏi cao về năng lực sử dụng tiếng Việt của
học sinh Tiểu học.
- Bài tập tình huống giả định: Học sinh được dặt mình vào một tình huống
nào đó như là có thật, lấy đó làm căn cứ để trình bày những suy nghĩ hợp với
lơgic nhận thức của các em. Trong mơn Tiếng Việt, tình huống giả định thường
được sử dụng trong phân môn ngữ pháp, tập đọc và tập làm văn. Tình huống giả
định là phương tiện để học sinh rèn luyện kỹ năng nói. Trong phân mơn ngữ
pháp, học sinh được luyện nói trong giờ luyện tập, thực hành. Trong tập đọc tình
huống giả định giúp học sinh thể hiện được sự ứng xử cá nhân. Trong tập làm
văn, học sinh được nói, viết bằng chủ thể chính mình. Vì thế đã kích thích được
hứng thú học tập của học sinh trong quá trình học Tiếng.

25
Trịnh Thị Nhung: 40A1 - GDTH



×