Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học cho học sinh lớp 11 trung học phổ thông ở tỉnh đăk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.46 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục 1
Danh mục các chữ viết tắt 3
MỞ ĐẦU 5
NỘI DUNG 9
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ HÓA HỌC 9
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức 9
1.1.1. Kinh nghiệm xã hội được tồn tại và truyền đạt lại cho thế hệ sau được
là nhờ ngôn ngữ 9
1.1.2. Ngôn ngữ làm cho các quá trình của nhận thức cảm tính ở người mang
một chất lượng mới 10
1.1.3. Vai trò của ngôn ngữ là không thể thiếu trong nhận thức lý tính 12
1.2. Khái niệm ngôn ngữ hóa học 14
1.2.1. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện nhận thức trong khoa học và
dạy học 14
1.2.2. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện tích cực để nhận thức hóa học15
1.2.3. Các chức năng nhận thức của ngôn ngữ hoá học 15
1.2.4. Ngôn ngữ hoá học trong chương trình hóa học trường phổ thông 16
1.2.5. Ngôn ngữ hoá học làm tối ưu hóa quá trình lĩnh hội môn hóa học, phát
triển tư duy cho học sinh 16
1.2.6. Vai trò của ngôn ngữ hoá học trong nhiệm vụ giáo dục tư tưởng đạo
đức học sinh 17
1.3. Sơ lược thực trạng phát triển ở tỉnh Đăk Nông, chất lượng giáo dục của
tỉnh Đăk Nông 17
1.4. Thực trạng của việc dạy học hoá học và sử dụng ngôn ngữ hoá học trong
dạy học tại tỉnh Đăk Nông 19


- 1 -
1.4.1. Đã tiến hành khảo sát thực trạng việc dạy học hoá học ở phổ thông của
tỉnh Đăk Nông 19
1.4.2. Nội dung, đối tượng và phương pháp khảo sát 19
1.4.3. Tiến trình và kết quả khảo sát 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 24
Chương 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ HÓA HỌC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐĂK NÔNG 25
2.1. Hệ thống về ngôn ngữ hoá học 25
2.1.1. Những nội dung kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hoá học trong
trường phổ thông 25
2.1.2. Những kỹ năng về ngôn ngữ hóa học cần rèn luyện cho học sinh 30
2.2. Những nguyên tắc cơ bản và các quan điểm chỉ đạo trong việc rèn luyện
ngôn ngữ hóa học cho học sinh 30
2.2.1. Những nguyên tắc cơ bản 30
2.2.2. Các quan điểm chỉ đạo xây dựng quy trình rèn luyện kỹ năng về ngôn
ngữ hoá học cho học sinh 31
2.3. Quy trình về rèn luyện kỹ năng về ngôn ngữ hoá học cho học sinh trong quá
trình học hóa học 32
2.3.1. Mục tiêu của quy trình 32
2.3.2. Các bước các giai đoạn rèn kỹ năng 33
2.4. Những yêu cầu đối với giáo viên trong quá trình rèn luyện kỹ năng ngôn
ngữ hoá học 36
2.4.1. Năng lực cần thiết của người giáo viên 36
2.4.2. Phẩm chất cần thiết của người giáo viên 37
2.5. Những bài giảng nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ hoá học
cho học sinh 37
2.5.1. Nội dung chủ yếu giáo viên và học sinh cần lĩnh hội 37
2.5.2. Phân tích phương pháp rèn luyện kỹ năng cho bài giảng trên 52
2.6. Lựa chọn và sử dụng hệ thống bài tập hoá học để rèn luyện kỹ năng sử

dụng ngôn ngữ hoá học cho học sinh 54
KẾT LUẬN VỀ CHƯƠNG 2 65
- 2 -
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 66
3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm 66
3.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 66
3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 66
3.3.1. Lựa chọn mẫu thực nghiệm 66
3.3.2. Mẫu đối chứng 66
3.3.3. Nội dung thực nghiệm 67
3.3.4. Chuẩn bị tiến hành thực nghiệm 67
3.4. Xử lý kết quả thực nghiệm 68
3.4.1. Đã tiến hành kiểm tra đánh giá ở mỗi chương ở các mức độ 68
3.4.2. Trao đổi với một số giáo viên giàu kinh nghiệm 68
3.4.3. Vận dụng thống kê để thực nghiệm 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 75
KẾT LUẬN CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
PHỤ LỤC
- 3 -
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt Viết đầy đủ
BT : Bài tập
CT : Công thức
CB : Cơ bản
CTCT : Công thức cấu tạo
DHHH : Dạy học hóa học
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HS : Học sinh

NC : Nâng cao
NNHH : Ngôn ngữ hóa học
NXB : Nhà xuất bản
PP : Phương pháp
QTDH : Quá trình dạy học
SGK : Sách giáo khoa
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
- 4 -
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhìn lại quá khứ qua tài liệu lịch sử để lại, ta thấy được sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật, lượng kiến thức mà nhân loại tiếp thu hàng ngày lớn gấp nhiều
lần so với trước đây.
Ngay cả các nước đã phát triển, việc đổi mới giáo dục vẫn luôn được quan tâm
hàng đầu sao cho sự phát triển giáo dục thích ứng với sự phát triển của xã hội và cho
hiệu quả kinh tế ngày càng cao, thành quả và sản phẩm giáo dục mang lại phải đi
trước sự phát triển của khoa học công nghệ cho ra đời đội ngũ công nhân lành nghề
trình độ kỹ thuật cao.
Ở Đăk Nông nhiều dân tộc sinh sống cho nên sử dụng nhiều ngôn ngữ khác
nhau – nhiều dân tộc phát âm không chuẩn tiếng phổ thông. Ngôn ngữ là chìa khóa để
tiếp cận tri thức, mở rộng tri thức, trao đổi tri thức giữa thầy với trò và giữa trò với trò
để mở rộng hiểu biết và học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng dạy và học hóa
học ở vùng này.
Đăk Nông có đặc điểm tình hình địa lý khá phức tạp, với đặc điểm nhiều dân
tộc anh em cùng chung sống trên một địa bàn rộng lớn. Đây là vùng đất được sự quan
tâm đặc biệt của Đảng và nhà nước nhưng tình hình kinh tế và chính trị luôn là điểm
nóng cần được quan tâm nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do hạn chế về mặt nhận thức,
mặt bằng chung của giáo dục còn nhiều yếu kém và lạc hậu nên dễ bị thế lực thù địch
lôi kéo và dụ dỗ. Trước tình hình đó phải đổi mới nội dung phương pháp (PP) dạy học

thích hợp nhằm phát huy tính chủ động tự lực cho học sinh (HS) tư duy khoa học,
sáng tạo, nâng cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề.
Đối với HS trung học phổ thông (THPT), các em lĩnh hội được kiến thức và
hiểu kiến thức hóa học đó, nhưng các em thường không thể diễn đạt và trình bày một
cách logic và rành mạch cho thầy cô và các bạn hiểu vấn đề khoa học mà các em đã
lĩnh hội. Do đó cần rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học (NNHH) ở trường
phổ thông.
Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu đó là “Rèn luyện kỹ năng sử
- 5 -
dụng ngôn ngữ hóa học cho học sinh lớp 11 trung học phổ thông ở tỉnh Đăk Nông”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
NNHH và sử dụng NNHH trong dạy học không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở
Việt Nam. Nhưng, Đăk Nông - một tỉnh được tách ra từ năm 2004 - một vùng đất mà
có nhiều giáo viên (GV) trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều, cần có nhiều biện pháp để đổi
mới, thì nghiên cứu NNHH và việc sử dụng NNHH trong dạy học hoá học (DHHH)
cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
2.1. Các nhà khoa học đã có những công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau về nội dung của NNHH (như ngôn ngữ của một ngành khoa học cụ thể)
qua các báo cáo, công trình đăng trên các tạp chí:
- Vấn đề “Lịch sử đặt tên các nguyên tố hóa học” được tác giả Nguyễn Duy Ái
tập hợp và hệ thống lại đăng trên Tạp chí Hóa học ngày nay (số 21.12/1994; số 22 –
1/1995), tác giả Phúc Đường có bài viết “Du lịch qua tên gọi các nguyên tố hóa học
“đăng trên tạp chí Thế giới mới số 511 (trang 53 – 54) và 512 (trang 58 – 60) cung
cấp những tư liệu về nguồn gốc tên gọi của phần lớn các nguyên tố trong Hệ thống
tuần hoàn các nguyên tố hóa học.
- Về thuật ngữ hóa học nói chung có một số tư liệu tập trung nghiên cứu về nội
dung các thuật ngữ (gắn với các khái niệm hóa học) nhằm mục đích tra cứu: từ điển
hóa học phổ thông, thí nghiệm hóa học dành cho thiếu nhi, của nhà xuất bản (NXB)
Văn hóa – Thông tin. Về thuật ngữ và tên gọi các hợp chất vô cơ được tác giả Đào
Quý Chiêu đề cập về những nguyên tắc và mối liên hệ với bản thân các chất, sự phân

loại các chất.
- Năm 2000, NXB Giáo dục đã xuất bản cuốn sách “Danh pháp hợp chất hữu
cơ” của tác giả Trần Quốc Sơn (chủ biên) và Trần Thị Tửu, được tái bản tháng 11 năm
2003. Trong lời nói đầu tác giả đã viết: “Vấn đề thuật ngữ và danh pháp hóa học ở
nước ta đang được nhiều người quan tâm đặc biệt, không những vì tầm quan trọng của
nó trong giảng dạy hóa học mà còn vì chưa có sự thống nhất về nguyên tắc xây dựng
thuật ngữ hóa học bằng tiếng Việt và về cách luân phiên chuyển tiếng nước ngoài
thành tiếng Việt”.
- Tháng 3/2009, Hội hoá học Việt Nam báo cáo tổng kết đề tài tại Hà Nội “Xây
dựng hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học Việt Nam”.
2.2. Vấn đề NNHH chưa được đề cập nhiều trong các giáo trình “Lý luận dạy
học hóa học” ở các trường sư phạm. Các tài liệu Lý luận dạy học hóa học hiện có
- 6 -
thường chỉ lưu ý đến việc GV cần rèn luyện NNHH cho HS mà không trình bày cụ thể
nội dung của khái niệm “ngôn ngữ hóa học”.
Vấn đề NNHH chỉ được trình bày trong tài liệu: Ngôn ngữ hóa học – phương
tiện nhận thức trong DHHH, gồm những nội dung: – Ngôn ngữ hóa học, PP nhận thức
hóa học trong khoa học và trong dạy học – Vị trí, chức năng của NNHH trong hệ
thống các phương tiện dạy học – Những cơ sở lý luận của sự hình thành NNHH – Nội
dung kiến thức và kỹ năng NNHH trường trung học – những giai đoạn cơ bản của quá
trình hình thành NNHH trong DHHH – Những điều kiện để lĩnh hội nội dung và sử
dụng ngôn ngữ hóa học.
“Ngôn ngữ hóa học” là cách gọi ngắn gọn của “ngôn ngữ của khoa học hóa
học”, bao gồm: thuật ngữ hóa học, danh pháp và biểu tượng hóa học, trong đó thuật
ngữ hóa học là thành phần cơ sở của NNHH. Ngôn ngữ hóa học thực hiện các chức
năng nhận thức hóa học trong hệ thống các phương tiện nhận thức và phương tiện dạy
học hóa học.
2.3. Sinh viên đã có những đóng góp dưới nhiều góc độ khác nhau về nội dung
của NNHH, đó là các báo cáo sau:
Danh pháp hợp chất hữu cơ trong chương trình hóa học THPT - Trần Văn

Dương - Khóa học 2004 - 2008, TS.Trịnh Đình Chính hướng dẫn.
Phân loại và đại cương danh pháp hợp chất hữu cơ – Nghiên cứu và đề xuất
hướng giải quyết các vấn đề khó và mới trong hóa học hữu cơ trong SGK thí điểm
(ban khoa học tự nhiên) ở THPT – SV: Lê Thị Mỹ Huyền – Khóa học 2003 - 2007,
TS. Trịnh Đình Chính hướng dẫn.
2.4. Vấn đề sử dụng NNHH trong DHHH nói chung và DHHH ở miền núi nói
riêng chưa có các công trình nào nghiên cứu và công bố kết quả cụ thể ở Việt Nam.
3. Mục đích chọn đề tài
Đi thực tế, khảo sát thực trạng việc dạy học ở tỉnh Đăk Nông ở lĩnh vực:
- Sử dụng NNHH trong DHHH để giảng dạy cho HS trên địa bàn tỉnh miền
núi.
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng NNHH cho HS trong các vấn đề diễn đạt ngôn
ngữ, viết phương trình hóa học, đọc tên chất hóa học. Từ đó giúp cho các em giải bài
tập (BT) hóa học, nhằm nâng cao chất lượng học tập.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: GV, HS tỉnh Đăk Nông.
- 7 -
- Đối tượng nguyên cứu: Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ giao tiếp trong
DHHH trong mỗi tiết dạy.
5. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học (QTDH), người GV phải rèn luyện kỹ năng sử dụng
tốt NNHH cho HS, sẽ giúp các em trao đổi kiến thức lẫn nhau “giữa thầy và trò, giữa
trò và trò”, là chìa khóa để tiếp cận tri thức, mở rộng tri thức, phát huy được tính tích
cực, tự lực, tự nghiên cứu sáng tạo của HS. Đó là một trong những vấn đề quan trọng
giúp HS phát triển năng lực nhận thức cao hơn nhằm nâng cao chất lượng DHHH ở
các trường THPT ở tỉnh Đăk Nông.
6. Nhiệm vụ của đề tài
- Tổng quan và tìm hiểu việc sử dụng NNHH của GV và HS ở tỉnh Đăk Nông.
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng NNHH cho HS qua các giờ giảng bài hóa học ở trên
lớp, chủ yếu là rèn luyện kỹ năng sử dụng danh pháp hóa học cho HS lớp 11 THPT.

- Sử dụng NNHH bằng cách sử dụng BT hóa học cho HS THPT, để rèn luyện
kỹ năng sử dụng NNHH.
7. Phương pháp nghiên cứu
1) Nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các tài liệu về NNHH, các tài liệu danh pháp hóa học, và các tài
liệu về PP DHHH.
2) Nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra thực trạng rèn luyện kỹ năng sử dụng NNHH của GV phổ thông,
danh pháp trong việc DHHH cho HS THPT tỉnh Đăk Nông tuân theo sách giáo khoa
(SGK) phổ thông.
- Đúc kết kinh nghiệm bản thân và trao đổi kinh nghiệm với một số GV trong
và ngoài tỉnh.
3) Thực nghiệm sư phạm và xử lý kết quả.
8. Những đóng góp mới của đề tài
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng NNHH cho HS THPT.
- Xây dựng và lựa chọn hệ thống BT về danh pháp để rèn luyện kỹ năng đọc,
viết cho HS tự nghiên cứu.
- Đề xuất một số hướng xây dựng hệ thống BT, câu hỏi có sử dụng NNHH nhằm
giúp cho HS trong quá trình học tập, nhằm phát huy tính tích cực, tự lực cho HS. Kết hợp
BT tự luận - trắc nghiệm khách quan trong rèn luyện HS lớp 11 tỉnh Đăk Nông.
- 8 -
- Đề xuất việc sử dụng những sản phẩm tin học (một số phần mềm về hóa học)
vào việc rèn luyện NNHH cho HS miền núi.
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ HÓA HỌC
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức
1.1.1. Kinh nghiệm xã hội được tồn tại và truyền đạt lại cho thế hệ sau được là
nhờ ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt dùng làm phương tiện giao tiếp và
công cụ tư duy. Ngôn ngữ là phương tiện hình thành, giữ gìn và chuyển giao thông tin
từ thế hệ này sang thế hệ khác, là phương tiện giao tiếp giữa mọi người, là hiện tượng
xã hội đặc biệt. Ngôn ngữ là hình thức vật chất của các quy luật và hình thức tư duy,
là hệ thống thông tin ký hiệu đặc biệt đảm bảo chức năng hình thành, giữ gìn và
chuyển giao thông tin.
Ngôn ngữ là một hiện tượng bao hàm nhiều mặt, nhiều nhân tố không thể
tách rời nhau, mà trước khi xuất hiện học thuyết về chủ nghĩa duy vật biện chứng,
nhà ngôn ngữ học F. De Sausure đã quan niệm “là bộ phận xã hội của hoạt động
ngôn ngữ, tồn tại bên ngoài cá nhân”, nó là một sản phẩm xã hội lưu trữ trong óc
mỗi người.
Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Tuy ngôn ngữ không phải là tư duy
nhưng tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ thì không có tư duy.
Những tư tưởng và những sự trừu tượng hóa không thể tồn tại độc lập được và chúng
nhất thiết phải được vật chất hóa ra dưới dạng các âm thanh (ngôn ngữ nói) hay các ký
hiệu chữ viết (ngôn ngữ viết). Mác cho rằng ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng, tư tưởng chỉ có thể thể hiện một cách hiện thực trong ngôn ngữ.
Tư duy trừu tượng gián tiếp, khái quát, không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ,
nó phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện cho mình. Nếu không có ngôn ngữ thì bản
thân quá trình tư duy không diễn ra được, đồng thời các sản phẩm của tư duy cũng
- 9 -
không được chủ thể và người khác tiếp nhận. Ngôn ngữ cố định lại các kết quả của tư
duy và nhờ đó làm khách quan hóa chúng cho người khác và cho cả bản thân chủ thể
tư duy.
Ngôn ngữ được chia thành ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ nhân tạo. Ngôn ngữ
tự nhiên – hệ thống thông tin ký hiệu âm thanh đặc biệt và chữ viết – được hình thành
trong lịch sử xã hội, biểu thị các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ngôn ngữ
nhân tạo là hệ thống ký hiệu hỗ trợ được tạo ra bằng cách riêng trên cơ sở của ngôn
ngữ tự nhiên nhằm chuyển giao chính xác và kinh tế các thông tin khoa học và thông
tin khác. Ngôn ngữ nhân tạo được sử dụng rộng rãi trong khoa học và kỹ thuật hiện

đại như toán học, hóa học, vật lý lý thuyết, kỹ thuật tính toán, máy tính điện tử.
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong đời sống tâm lý con người, là thành tố quan
trọng nhất về mặt nội dung và cấu trúc tâm lý người đặc biệt là quá trình nhận thức.
1.1.2. Ngôn ngữ làm cho các quá trình của nhận thức cảm tính ở người mang một
chất lượng mới
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới ba hình thức là cảm giác, tri
giác, biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc mọi sự
hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài
của sự vật vào các giác quan con người, là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật
vào các giác quan con người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành
yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo Lênin, là hình ảnh của thế giới khách quan.
Ngôn ngữ ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng nhạy cảm của cảm giác, làm cho cảm
giác được thu nhận rõ ràng, đậm nét hơn.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về
sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác. So với
cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính, nó đem lại cho chúng
ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Ngôn ngữ làm cho quá trình tri giác diễn ra dễ dàng, nhanh chóng hơn và làm
cho những cái tri giác được trở thành khách quan, đầy đủ và rõ ràng hơn. Ví dụ việc
tách đối tượng ra khỏi bối cảnh (quy luật về tính lựa chọn của tri giác), việc xây dựng
- 10 -
một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng tùy theo nhiệm vụ của tri giác (quy luật về tính
trọn vẹn của tri giác) nếu được kèm theo bằng lời nói thầm hay nói thành tiếng thì
diễn biến sẽ nhanh hơn và kết quả sẽ rõ hơn.
Vai trò của ngôn ngữ đối với quá trình quan sát càng cần thiết hơn, vì quan sát
là tri giác tích cực, có chủ định và có mục đích (tức là có ý thức). Tính có ý thức, có
mục đích, có chủ định đó được biểu đạt và điều khiển, điều chỉnh chính nhờ ngôn ngữ.
Không có ngôn ngữ thì tri giác của con người vẫn là tri giác của động vật. Tính có ý

nghĩa trong tri giác của con người là một chất lượng mới làm cho tri giác người khác
xa tri giác của con vật. Chất lượng mới này chỉ được hình thành và được biểu đạt
thông qua ngôn ngữ.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực
tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về
sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên
trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Trong biểu tượng
chỉ lưu giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại
trước đó. Biểu tượng thường được hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích
đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự tưởng
tượng đã mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong hoạt động
sáng tạo khoa học.
Ngôn ngữ cũng giữ một vai trò to lớn trong tưởng tượng. Nó là những phương
tiện để hình thành biểu đạt và duy trì các hình ảnh của tưởng tượng. Ngôn ngữ giúp ta
làm chính xác hóa các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy sinh, tách ra trong chúng
những mặt cơ bản nhất, gắn chúng lại với nhau, cố định chúng lại bằng từ và lưu giữ
chúng trong trí nhớ. Ngôn ngữ làm cho tưởng tượng trở thành một quá trình ý thức,
được điều khiển tích cực, có kết quả và chất lượng cao.
Ngôn ngữ cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với trí nhớ của con người. Nó
tham gia tích cực vào các quá trình trí nhớ, gắn chặt với các quá trình đó. Việc ghi
nhớ sẽ dễ dàng và có kết quả tốt hơn nếu ta nói lên thành lời điều cần ghi nhớ.
Không có ngôn ngữ thì không thể thực hiện sự ghi nhớ có chủ định, sự ghi nhớ có
ý nghĩa và kể cả sự ghi nhớ máy móc (học thuộc lòng)… ngôn ngữ là một phương
tiện để ghi nhớ, là một hình thức để lưu giữ những kết quả cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ
- 11 -
con người có thể chuyển hẳn những thông tin cần nhớ ra bên ngoài đầu óc con
người. Chính bằng cách này con người lưu giữ và truyền đạt được kinh nghiệm của
loài người cho thế hệ sau.
1.1.3. Vai trò của ngôn ngữ là không thể thiếu trong nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn tiếp theo và

cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó xảy ra trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nếu
chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con
người không thể bằng cảm giác mà hiểu được những cái như: tốc độ ánh sáng, giá trị
hàng hóa, quan hệ giai cấp,… Muốn hiểu được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh
của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.
Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ
vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Muốn tư duy, con người phải sử dụng các PP như so sánh, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa và trừu tượng hóa,… Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện
ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ
và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó.
Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học, là những vật liệu tạo thành
ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy
nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Khái niệm được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ
các từ.
Ngôn ngữ như là một phương tiện thể hiện khái niệm làm cho sự học của con
người thoát khỏi sự ràng buộc với những kinh nghiệm cảm tính, với những đồ vật
riêng lẻ được tri giác trực tiếp và cho phép đưa vào sự học những mối quan hệ, liên hệ
chung, trừu tượng của sự vật, hiện tượng. Nhờ ngôn ngữ mà các mối quan hệ đó của
sự vật, hiện tượng được cố định lại và tồn tại một cách khách quan, do đó được truyền
lại cho người khác và cho các thế hệ tiếp theo. Nắm được ngôn ngữ, con người nắm
được một phương tiện học tập vô cùng hiệu nghiệm, nhờ đó, con người nắm được
những kinh nghiệm quý báu trong nền văn hóa loài người, làm cơ sở quan trọng cho
việc biến đổi hành vi và hoạt động của mình phù hợp với việc giải quyết các nhiệm vụ
- 12 -
của cuộc sống trước mắt và lâu dài. Chính có ngôn ngữ như phương tiện học tập độc
đáo, con người học được tư duy, có được ý thức và những phẩm chất tâm lý cao cấp

và có được những hoạt động thực tế và lý luận.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng
định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
Phán đoán là hình thức liên hệ giữa những khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là
tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó
các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới
hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hay
nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Suy lý là sự liên hệ
giữa các phán đoán, là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình
vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một
cách gián tiếp. Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý
và nhờ suy lý mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực
khách quan.
Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ với tư duy con người. Ngôn ngữ và tư duy không
có mối quan hệ song song. Ngôn ngữ không phải là tư duy và ngược lại tư duy cũng
không phải là ngôn ngữ. Mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ với tư duy là ở chỗ tư
duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ của tư duy, chính nhờ điều này tư duy
của con người khác về chất so với tư duy con vật: con người có tư duy trừu tượng.
Không có ngôn ngữ thì con người không thể tư duy trừu tượng và khái quát được. Mối
quan hệ không tách rời của tư duy và ngôn ngữ được thể hiện trong ý nghĩa của các
từ. Mỗi từ điều có quan hệ với một lớp sự vật, hiện tượng nhất định và gọi tên sự vật,
hiện tượng đó. Khi gọi tên các sự vật, từ tựa như thay thế chúng và nhờ đó tạo ra
những điều kiện vật chất cho những hành động hay thao tác đặc biệt đối với các vật ấy
kể cả khi vật ấy vắng mặt (tức là thao tác với các vật thay thế, với ký hiệu từ ngữ hay
là với ngôn ngữ). Tuy nhiên, từ không chỉ gọi tên sự vật, nhờ vậy, tư duy ngôn ngữ
trừu tượng hóa được những thuộc tính, những bản chất của sự vật và khái quát hóa
được những thuộc tính bản chất của nó. Không có ngôn ngữ thì không thể có tư duy
- 13 -

khái quát – logic được.
Lời nói bên trong là công cụ quan trọng của tư duy, nhất là khi phải giải quyết
các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Nếu nhiệm vụ quá phức tạp thì ngôn ngữ bên trong
chuyển thành lời nói bên ngoài. Người ta nói to lên thì thấy tư duy rõ ràng và thuận lợi
hơn. Nhưng điều đó chứng tỏ không có ngôn ngữ, đặc biệt không có lời nói bên trong
thì ý nghĩ, tư tưởng không hình thành được, tức không thể tư duy trừu tượng được.
1.2. Khái niệm ngôn ngữ hóa học
1.2.1. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện nhận thức trong khoa học và dạy học
Mỗi khoa học đều diễn đạt những kết quả nhận thức bằng ngôn ngữ thuận tiện
cho việc mô tả những kiến thức, phản ánh cái cơ bản và đặc trưng của khoa học đó.
Ngoài ngôn ngữ thông thường là những từ và câu, trong thành phần của ngôn ngữ
khoa học hóa học còn những phần rất đặc trưng: các thuật ngữ hóa học, danh pháp và
biểu tượng, thường gọi là “ngôn ngữ hóa học”. Ngôn ngữ hóa học – đó là sự tổng hợp
của thuật ngữ, danh pháp và biểu tượng hóa học, các quy tắc thành lập chúng, biến
đổi, giải thích và vận dụng giữa chúng.
Thuật ngữ hóa học là thành phần cơ sở của ngôn ngữ hóa học:
Thuật ngữ: từ ngữ biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái
niệm của một ngành khoa học nhất định [Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1998), Đại từ
điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, trang 1599].
Thuật ngữ: Từ, ngữ biểu đạt các khái niệm chuyên môn khoa học, kỹ thuật [Từ
điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), NXB Đà nẵng – Trung
tâm từ điển học, Hà nội – Đà nẵng. 2002. Trang 962].
Như vậy “Thuật ngữ hóa học dùng biểu thị một cách ngắn gọn các khái niệm
hóa học bằng ngôn ngữ riêng biệt. Thuật ngữ hóa học là hình thức ngôn ngữ biểu thị
các khái niệm hóa học. Dạng biểu thị cụ thể của thuật ngữ hóa học là những từ và cụm
từ”. Là hình thức của tư duy, khái niệm liên hệ mật thiết với từ,… Từ là cơ sở vật chất
của khái niệm, không có từ không thể hình thành và sử dụng khái niệm,… Trong các
lĩnh vực khoa học và kỹ thuật khác nhau người ta phải sử dụng các hệ thống thuật ngữ
riêng biệt để biểu thị chính xác các khái niệm”. Hệ thống các thuật ngữ hóa học biểu
thị chính xác các khái niệm hóa học.

- 14 -
Danh pháp hóa học: là những qui tắc gọi tên những nguyên tố, chất, những hạt
vi mô,… trong khoa học hóa học.
Biểu tượng hóa học: là những hình ảnh tượng trưng trong khoa học hóa học (ký
hiệu hóa học, công thức (CT), phương trình, hình vẽ,…) là hệ thống những quy ước
khoa học nhằm khái quát hóa các đối tượng, hiện tượng, quy luật hóa học, vạch ra một
cách tổng quan những dấu hiệu cơ bản của các hiện tượng, quá trình hóa học, chỉ ra
mối liên hệ giữa mặt định tính và định lượng của chúng. Nhờ các biểu tượng mà
NNHH có thể diễn đạt những nội dung tri thức phong phú một cách ngắn gọn, chính
xác, thể hiện mức độ khái quát cao trong việc phản ánh một cách tổng quát những
khái niệm cơ bản, những kiến thức đặc trưng của hóa học.
1.2.2. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện tích cực để nhận thức hóa học
Những kết quả được mô tả bằng NNHH đều thể hiện những nội dung quan
trọng, cơ bản của khoa học hóa học và mối quan hệ giữa chúng.
Thay vì phải dùng nhiều ngôn từ miêu tả các sự vật, hiện tượng, quá trình hóa
học, diễn biến các phản ứng hóa học,… NNHH biểu thị chúng một cách ngắn gọn
dưới dạng những CT, ký hiệu, phương trình, sơ đồ, phản ánh nhiều mối quan hệ khác
nhau giữa các đối tượng của hóa học bằng những ký hiệu.
Trong NNHH, đặc biệt là các biểu tượng có thể phản ánh cùng một lúc kết quả
của tri thức và con đường để nhận thức các tri thức đó.
NNHH còn sử dụng các ký hiệu của nó với ngôn ngữ của khoa học khác: ký
hiệu toán học, logic học, các đại lượng vật lý, các thuật ngữ, khái niệm khoa học nói
chung… tạo điều kiện thuận lợi cho sự mô tả các đối tượng hóa học và các quy luật
giữa chúng.
1.2.3. Các chức năng nhận thức của ngôn ngữ hoá học
Những đặc trưng của NNHH cùng với sự định hướng có tính chất PP luận
của nó cho phép NNHH thực hiện được nhiều chức năng khác nhau trong nhận
thức hóa học:
Cung cấp những thông tin về các chất và hiện tượng hóa học bằng các từ ngữ
và những dấu hiệu quy ước biểu thị các kết quả của nhận thức hóa học, hình thành các

khái niệm cơ bản về hóa học, cụ thể hóa các đại lượng trừu tượng, không có trong
- 15 -
ngôn ngữ thông thường (các loại liên kết hóa học, hóa trị, số oxi hóa…).
Khái quát hóa, hệ thống hóa các tri thức, dự đoán các chất mới và mô hình hóa
con đường tìm ra chúng.
Đơn giản hóa các thao tác của hoạt động trí óc, giảm bớt khối lượng ghi nhớ, tổ
chức một cách hợp lý các thao tác tư duy, kích thích việc tìm tòi sáng tạo.
Cho phép các nhà hóa học có được trình độ giao tiếp ở trình độ quốc tế do sự
quốc tế hóa của NNHH.
1.2.4. Ngôn ngữ hoá học trong chương trình hóa học trường phổ thông
NNHH ở trường phổ thông là NNHH được sử lý sư phạm Lý luận và dạy học
Hoá học để phù hợp với mục đích và nội dung dạy học, phù hợp với đặc điểm của đối
tượng, có chú ý đến đặc điểm lứa tuổi của HS và cơ sở tâm lý của QTDH. Mục đích
của NNHH trong trường phổ thông là làm cho sự lĩnh hội các kiến thức hóa học được
đơn giản, vừa sức đối với khả năng nhận thức của HS. Thuật ngữ hóa học và các biểu
tượng của NNHH cũng được đơn giản hóa.
1.2.5. Ngôn ngữ hoá học làm tối ưu hóa quá trình lĩnh hội môn hóa học, phát
triển tư duy cho học sinh
NNHH được sử dụng trong toàn bộ các giai đoạn của QTDH môn hóa học với
các chức năng đa dạng. Với sự hỗ trợ của NNHH, nội dung hóa học nhà trường được
truyền đạt và lĩnh hội, hình thành những khái niệm hóa học, những PP nhận thức đặc
trưng của bộ môn, hình thành mối liên hệ nội môn và liên môn, phát triển tư duy của
HS và hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho HS.
NNHH tham gia vào tri thức kinh nghiệm, vào sự khái quát hóa và hệ thống
hóa các kết quả của khoa học hóa học, có vai trò to lớn trong PP nhận thức hóa học.
Để khái quát các tri thức lý thuyết, các biểu tượng, các ký hiệu như: sơ đồ liên kết của
phân tử các chất, hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học, những ghi chép về tính
chất chung, những CT chung của các hợp chất, các ion, các phương trình phản ứng
hóa học,… được sử dụng rộng rãi.
Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và vận dụng chúng trong những tình

huống khác nhau là tiêu chuẩn không chỉ của việc nắm vững kiến thức hóa học mà
- 16 -
còn là tiêu chuẩn của sự phát triển tư duy HS. Tất cả các kỹ năng hoạt động với
NNHH đều liên quan đến hoạt động trí tuệ. Sự so sánh, khái quát hóa, trừu tượng
hóa, mã hóa bằng các ký hiệu, mô hình hóa,… đều thuộc về các trình độ nắm vững
NNHH.
Các kỹ năng về sử dụng NNHH cho phép thực hiện các hoạt động nhận thức
một cách có hiệu quả: tìm hiểu tính chất các chất, các khuynh hướng của phản ứng
hóa học, giải thích bản chất các hiện tượng, quá trình hóa học, giải các bài toán hóa
học và mô hình hóa các kết quả thu được.
Cùng với các hoạt động tự lập trong học tập, trên cơ sở nắm vững NNHH, HS
còn làm quen với hoạt động sáng tạo trong nhận thức hóa học.
1.2.6. Vai trò của ngôn ngữ hoá học trong nhiệm vụ giáo dục tư tưởng đạo đức
học sinh
NNHH chứa đựng trong nó những khả năng lớn trong việc thực hiện chức năng
giáo dục trong DHHH.
NNHH có thể sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để hình thành thế giới
quan khoa học cho HS. Để thực hiện được nhiệm vụ này, QTDH hóa học phải đảm
bảo sự thống nhất giữa ý nghĩa về mặt nội dung và hình thức của hệ thống ký hiệu
của NNHH. Nếu không có sự thống nhất này thì những nghiên cứu TN của thế giới
vật chất và sự phát triển của nó sẽ mâu thuẫn với các nội dung trừu tượng của các khái
niệm, dẫn đến sai lệch về thế giới quan trong nhận thức của HS. NNHH được hình
thành một cách đúng đắn sẽ là phương tiện có hiệu quả, tiện lợi để khẳng định những
thuộc tính của thế giới vật chất: tính thống nhất, tính đa dạng, các quy luật vận động,
sự phát triển biện chứng,…
NNHH giúp HS nhận thức được ý nghĩa khách quan và khả năng phán đoán
của lý thuyết trong việc nhận thức thế giới khách quan. Việc vận dụng NNHH giáo
dục cho HS nhiều phẩm chất con người như: hình thành kỹ năng học tập, hình thành
hứng thú với môn học, giáo dục cho HS cách diễn đạt suy nghĩ của mình một cách
chính xác, từ đó, giúp HS hình thành nhiều tính cách tốt như có thói quen tự lực trong

học tập và lao động, tính chính xác, yêu khoa học,…
Những điều trình bày trên đây cho phép kết luận: NNHH là một trong những
phương tiện quan trọng nhất trong DHHH, tham gia tích cực vào việc trang bị kiến
thức, giáo dục tư tưởng và phát triển những năng lực nhận thức cho HS.
- 17 -
1.3. Sơ lược thực trạng phát triển ở tỉnh Đăk Nông, chất lượng giáo dục của tỉnh
Đăk Nông
Tỉnh Đăk Nông có vai trò, vị trí chiến lược, tiềm năng rất to lớn trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Không ai có thể phủ nhận vị trí đặc
biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng,…của khu vực Miền Trung
và Tây Nguyên. Tuy vậy, đời sống kinh tế, văn hoá các dân tộc, cuộc sống ở Đăk
Nông ở mức độ thấp, đặc biệt ở các xã không những thấp mà rất thấp. Về giáo dục:
HS là người dân tộc thiểu số chiếm 30% tổng HS toàn tỉnh. Theo thống kê ta thấy HS
các cấp học thì phát triển ổn định, tỉ lệ HS các dân tộc không ngừng tăng lên. Đặc biệt,
thành công nhất của tỉnh Đăk Nông là huy động trẻ em dân tộc 6 tuổi được huy động
tới lớp đạt 86,1%, trong khi đó năm 2005 là 78,9% với chất lượng các bậc học không
ngừng tăng lên. Riêng bậc học phổ thông có nhiều chuyển biến về chất và về lượng
nhất: HS bỏ học được kéo giảm theo từng năm nhưng vẫn mức độ cao (5,6%). Hiện
tại, 100% HS phổ thông được học đầy đủ chương trình đổi mới và chương trình tin
học, trên 95% HS được học chương trình tiếng Anh 7 năm. Số lượng HS dân tộc tốt
nghiệp THPT đạt 63,3%. Mặc dù đã có chính sách đãi ngộ tốt GV, mà trong vòng 5
năm qua từ một tỉnh với tỉ lệ HS yếu kém ở cấp tiểu học khá cao, tỉ lệ bỏ học ở mọi
cấp học luôn ở mức báo động khắp cả nước, tỉ lệ tốt nghiệp THPT luôn đứng ở cuối
bảng xếp hạng của cả nước, đến nay sau 5 năm Đăk Nông đã vươn lên hàng thứ 52/64
về tỉ lệ đậu tốt nghiệp THPT của cả nước. Về y tế còn yếu kém về mọi mặt từ nhân
lực đến khâu quản lí có tỉ lệ trẻ em nhẹ cân cao nhất cả nước. Về thể dục thể thao còn
nhiều khó khăn đang từng bước đưa thể dục thể thao đến với người dân trong tỉnh.
Về bưu chính viễn thông: tính đến tháng 6 năm 2010, toàn tỉnh Đăk Nông có 12 bưu
cục (trong đó có 1 bưu cục cấp 1, 7 bưu cục cấp 2 và 4 bưu cục cấp 3, 41 bưu điện văn
hoá xã, 110 đại lý bưu điện đa phục vụ, tổng số điểm phục vụ là 163 điểm, bình quân

2,981 người/điểm phục vụ, bán kính phục vụ 3,56 km. Tổng số thuê bao cố định trên
địa bàn tỉnh là 81622 thuê bao, mật độ điện thoại cố định là 16.7 máy trên 100 dân.
Tổng số thuê bao internet là 10076, mật độ thuê bao đạt 2 thuê bao/100dân. Tóm lại:
điện, đường, trường, trạm cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn và bất cập. Các thiết bị
văn phòng và thí nghiệm còn nhiều thiếu thốn, lực lượng lao động mỏng, phần lớn lao
động trẻ vừa được tuyển dụng, thiếu kinh nghiệm xử lí trong công việc.
- 18 -
Nguyên nhân: Tỉnh Đăk Nông được tách ra từ tỉnh Đăklăk (năm 2004) trên cơ
sở 6 huyện gồm 47 xã đặc biệt khó khăn, 6 xã biên giới và 5 thị trấn, điều đáng nói là
tỷ lệ hộ nghèo rất cao, chiếm 50% tổng số hộ, cá biệt nhiều bon, buôn ở vùng sâu,
vùng xa tỷ lệ đói nghèo chiếm 90-100%.
Trước tình hình đó, muốn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, trước hết phải
nâng cao dân trí, bởi vì tình trạng lạc hậu, sự hiểu biết thấp kém, là mảnh đất màu mỡ
cho các tệ nạn xã hội, các thủ tục mê tín dị đoan nảy sinh, tiến bộ khoa học kỹ thuật
không thể có điều kiện phát triển. Muốn nâng cao dân trí, không có cách nào hơn là
phát triển giáo dục, do vậy phải đổi mới suy nghĩ và nhận thức cho HS THPT.
1.4. Thực trạng của việc dạy học hoá học và sử dụng ngôn ngữ hoá học trong dạy
học tại tỉnh Đăk Nông
1.4.1. Đã tiến hành khảo sát thực trạng việc dạy học hoá học ở phổ thông của tỉnh
Đăk Nông
- Đánh giá một cách khách quan và có cơ sở vững chắc về thực trạng DHHH ở
tỉnh Đăk Nông, chỉ ra những khó khăn mà GV và HS thường gặp khi DHHH.
- Thông qua quá trình khảo sát, phân tích các mặt ưu điểm, nhược điểm của
việc DHHH tỉnh Đăk Nông, thấy được thực trạng việc sử dụng NNHH trong DHHH
của GV và HS.
- Phân tích những nguyên nhân của thực tiễn trên, tạo cơ sở để định hướng
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng đó. Đây cũng là hướng
nghiên cứu chính của đề tài.
1.4.2. Nội dung, đối tượng và phương pháp khảo sát
a) Nội dung khảo sát

- Khảo sát tổng quát về tình hình DHHH ở các trường phổ thông tỉnh Đăk
Nông, tìm hiểu ý kiến của GV về tình hình này.
- Khảo sát về việc giảng dạy các nội dung cụ thể ở trường phổ thông với các
PP dạy học cơ bản và cải tiến PP dạy học, về tình trạng cơ sở vật chất phục vụ cho
việc DHHH.
b) Địa bàn và đối tượng khảo sát
- 19 -
- Đã tham khảo ý kiến của cục khảo thí của tỉnh Đăk Nông.
+) Hiện nay trên địa bàn tỉnh có tất cả bao nhiêu trường THPT và dân tộc
nội trú?
+) Cho xin danh sách GV hoá ở các trường THPT ở tỉnh nhà.
+) Hằng năm đồ dùng và thiết bị dạy học Sở được nhận vào thời gian nào?
+) Số lượng HS bỏ học mỗi năm, xin số liệu thống kê mỗi trường gởi lên.
+) Cho xin danh sách GV dạy giỏi cấp tỉnh. Xin các file phần mền có ứng dụng
tin học trong giảng dạy?
- Đã tiến hành khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh Đăk Nông. (có
17 trường THPT và 1 dân tộc nội trú tỉnh): các trường trung học khảo sát có chất
lượng đào tạo tương đối đồng đều, cùng một chương trình chung, chỉ khác nhau hình
thức quản lí.
- Đã tham khảo và trao đổi, rút ra kinh nghiệm để dạy các bài tiếp theo tốt hơn
với các GV giảng dạy bộ môn hoá học tại các trường phổ thông, các cán bộ quản lí ở
trường phổ thông, các cán bộ phụ trách chuyên môn ở Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Đăk Nông.
+) Trường mình có bao nhiêu máy tính xách tay và máy chiếu projector? Máy
tính ấy những ai được dùng, sử dụng với mục đích gì?
+) GV có thường hay ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học không? Bao
lâu? Hay là bao lâu có vài tiết?
+) Phòng thí nghiệm của trường sắp xếp như thế nào? Hoá chất có phong
phú không?
+) GV có hay làm thí nghiệm trong các tiết dạy không? GV có sử dụng các

trang vẽ, đồ dùng trực quan sinh động không?
+) Trường bạn có bao nhiêu GV dạy hoá? Cô giáo hay thầy giáo nào dạy có
tiếng nhất ở trường? Cô/thầy ấy có hay sử dụng thí nghiệm để dạy học không, thầy/cô
ấy có ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết dạy không?
- Tham khảo thư viện đề kiểm tra tại các trường trên địa bàn của tỉnh nhà, thư
viện đề kiểm tra violet, thư viện BT, bài kiểm tra của các đồng nghiệp.
- Tham khảo thời khoá biểu, thời gian thực hiện công tác giảng dạy các trường
- 20 -
trong tỉnh nhà.
c) PP điều tra
- Trao đổi trực tiếp với GV trực tiếp giảng dạy, cán bộ quản lý ở các trường,
cán bộ quản lí ở Sở.
- Gửi và thu phiếu điều tra trắc nghiệm góp ý.
- Dự giờ trực tiếp một số GV giảng dạy hoá học.
- Quan sát tìm hiểu trực tiếp cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy hoá học.
1.4.3. Tiến trình và kết quả khảo sát
1.4.3.1. Tiến trình khảo sát
- Từ những ngày cuối tháng 1/2010: tiến hành khảo sát, gởi phiếu góp ý kiến
về tình hình DHHH, sử dụng PP dạy học của các GV, trao đổi với GV thực
nghiệm(TN), GV cùng bộ môn, cán bộ phụ trách ở các trường, các Sở.
- Từ ngày 20/2/2010: gửi giáo án, giáo án PowerPoint, bài kiểm tra đánh giá về
các trường để TN sư phạm.
• Đã đến 12/17 trường THPT trên địa bàn tỉnh Đăk Nông liên hệ tìm hiểu:
Trường THPT Phạm Văn Đồng, Trường THPT Trường Chinh, Trường
THPT Nguyễn Tất Thành,
• Phát hơn 200 phiếu điều tra để đánh giá tình hình học tập của HS, để
chọn mẫu TN sư phạm để thu được kết quả khả thi hơn.
• Đã xin dự giờ được 14 tiết của GV trường THPT Phạm Văn Đồng.
• Đã trao đổi với:
- Thầy Lưu Đình Tín - chuyên viên cục khảo thí tỉnh Đăk Nông.

- Thầy Hoàng Ngọc Tránh - Hiệu trưởng trường THPT Phạm Văn Đồng.
- Thầy Võ Như Sơn - Hiệu phó trường THPT Phạm Văn Đồng, đồng thời cũng
là cán bộ giảng dạy hoá học tại trường.
- Thầy Phan Văn Tấn - GV Trường THPT Trường Chinh.
- Cô Lan Hương - GV Trường THPT Nguyễn Tất Thành.
- Thầy Đinh Đăng Định - GV Trường THPT Lê Quý Đôn-tổ trưởng của bộ
- 21 -
môn hoá học tại trường.
- Thầy Út - Hiệu phó trường Cưjut, đồng thời cũng là GV có kinh nghiệm
chuyên môn ở Sở.
- Còn nhiều GV khác trên địa bàn của tỉnh nhà.
• Có xin bảng lương (bao gồm sơ yếu lí lịch) của các GV bộ môn của một
số trường.
• Phát hơn 480 bài kiểm tra các loại và chấm gần hơn 400 bài, sử lí thống
kê chỉ 160 bài kiểm tra.
1.4.3.2. Kết quả khảo sát
Về GV:
GV trực tiếp giảng dạy ở tỉnh nhà phần đông là những GV trẻ, phần lớn sinh từ
năm 1978 trở xuống. GV dạy bộ môn tuổi trên 50 rất hiếm phần đông đã chuyển sang
làm công tác quản lí. Phần lớn, GV đều nắm vững các khái niệm hoá học phổ thông.
GV miền núi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ hoá học, tuy vậy, 80% mới dừng lại
ở mức độ giảng dạy nội dung SGK. Đội ngũ GVHH thực sự hiểu sâu sắc các vấn đề
của SGK, khả năng giải và thiết kế BT nâng cao rất ít. Cá biệt còn một số ít GV chưa
hiểu đúng các nội dung kiến thức của chương trình phổ thông, đặc biệt là GV cử
tuyển, GV người dân tộc thiểu số, đã không hiểu kỹ vấn đề tách trường lại đưa họ đi,
dẫn đến thế hệ HS miền núi ngày càng yếu kém hơn. Thậm chí với chính sách ưu tiên
xét tuyển đối tượng DT trước tiên, nên có một số trường vẫn còn nhiều GV thua hẳn
kiến thức HS. Số GV có năng lực diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, gây hứng thú cho HS rất
ít. Chính vì vậy, kết quả học tập môn hoá học ở các trường ở Đăk Nông có sự chênh
lệch lớn so với các trường miền và vùng trung tâm.

Đặc điểm tâm lý và khó khăn của HS trong học tập:
• Một vài nét về đặc điểm tâm lý của HS tỉnh Đăk Nông:
Mỗi dân tộc đều có hệ thống quan niệm, trạng thái và tinh thần lối sống riêng
mang những đặc thù rõ rệt trong phong tục tập quán, trong truyền thống, trong hành
vi ứng xử và thói quen hằng ngày. Những đặc thù về hoàn cảnh, môi trường tự
nhiên, xã hội, gia đình, điều kiện sản xuất đã tạo nên tâm lí riêng đặc trưng của HS
tỉnh Đăk Nông.
- 22 -
a) Về cảm giác và tri giác:
Các em chỉ phát hiện những dấu hiệu bên ngoài mà chưa hiểu toàn vẹn đối
tượng. Trong học tập hầu như chưa phân biệt hoá học hữu cơ-vô cơ, đại số-hình
học, hình học không gian-hình học phẳng, khó hình dung mô hình cấu tạo chất,
obitan,
Các em ít phát hiện ra bản chất các sự vật hiện tượng, chỉ thích những thứ
đơn giản, ít chịu tư duy (do vậy các em chủ yếu sau này lao động, tốn sức ít chịu
suy nghĩ). Do đó các em ít bị hấp dẫn hơn bởi cấu tạo phức tạp gắn với kiến thức
khoa học và kỹ thuật.
Ngôn ngữ sử dụng rất phong phú, HS đồng bào thì giao tiếp với nhau là ngôn
ngữ dành cho tiếng mẹ đẻ. Đối với các em là người dân tộc Kinh, chủ yếu là dân góp
nên sử dụng ngôn ngữ của nhiều vùng miền. GV phần lớn là từ các địa phương khác
đến. Do đó các em HS rất hạn chế sự hiểu biết, khó khăn khi diễn đạt ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết. Nếu em nào mạnh dạn tiếp xúc với công nghệ thông tin thì sẽ nhanh
nhạy hơn.
Phần lớn các em ít chịu giao tiếp phát biểu trong lúc học tập nên khó khăn lại
chồng chất khó khăn.
b) Về tư duy:
- Tư duy trực quan sinh động mạnh hơn tư duy trừu tượng, logic, chậm hiểu bài
nếu GV giảng nhanh, không hiểu cũng không ý kiến.
- Các em ngại trả lời vì sao, thế nào, thích trả lời theo kiểu thiên về tái hiện.
c) Về mặt tình cảm, tính cách: rất chân thật, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, tuy vậy

hay kín đáo bộc lộ, rất nhạy cảm.
d) Về giao tiếp: chủ yếu giao tiếp giữa những người thân quen với nhau, ngại
giao tiếp với người lạ.
• Những khó khăn của HS tỉnh Đăk Nông trong rèn luyện và sử dụng
NNHH
- Ít khả năng biểu đạt.
- Ít khả năng biểu cảm.
- Ít nói, lại thụ động cho nên chủ yếu là làm mẫu bắt chước.
- Ít sáng tạo.
- 23 -
- HS: ý thức còn kém. Mặc dù đã được GV TN hướng dẫn tận tình nhưng các
em vẫn còn tư tưởng đối phó, nhiều phiếu thu về không hợp lệ (có thể có hơn ¼ số
phiếu không hợp lệ).
Về cơ sở vật chất:
Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học các môn khoa học TN đặc biệt hoá
học ở trường là chưa đầy đủ. Có nhiều trường phổ thông không có phòng thí nghiệm,
người phụ trách phòng thí nghiệm, ít ứng dụng công nghệ mới vào dạy học. (Nói cho
cụ thể thì 17 trường khảo sát có trường THPT Chu Văn An là có phòng thí nghiệm
tạm gọi là đủ tiêu chuẩn cho HS làm thí nghiệm, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ đơn
giản, còn những trường khác phòng thí nghiệm bỏ hoang. Mặc dù có cả hoá chất được
cung cấp bởi dự án ODA, đầu năm dạy kiến thức đó thì giữa năm mới được nhận về,
nhưng để sang năm sau dạy: một phần hoá chất không được bảo quản nên bị hư hỏng
thí nghiệm không thành công, cùng với không có phòng thí nghiệm cụ thể nên một
phần dụng cụ được cung cấp hư hỏng dần. Một trường trung bình có 2 máy tính xách
tay, có một số trường được thành phố HCM tài trợ thì số lượng tăng lên từ 3-4 máy
xách tay, và khoảng 2 máy chiếu, nên việc ứng dụng thông tin vào dạy học còn khó
khăn. Trung bình 1 trường khoảng 30% GV là sử dụng thành thạo công nghệ thông
tin, có thể chỉnh sửa cài đặt các phần mền tin học. Còn lại số GV có thể soạn thảo văn
bản đơn giản. Các trường ở thị trấn, thị xã thì số lớp khoảng 30 đến 40 lớp. Các
trường THPT ở xã nghèo thì có từ 3 đến 5 lớp hầu như mỗi khối chỉ có 1 lớp (ví dụ:

Trường THPT Lê Quý Đôn huyện Tuy Đức –Đăkbukso,…)
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này tôi đã trình bày những vấn đề thuộc về cơ sở lý luận và thực
tiễn của đề tài.
1. Cơ sở PP luận của quá trình nhận thức và QTDH là phần lí luận mang tính
chất chỉ đạo về việc nghiên cứu các hoạt động dạy học với tư cách là hoạt động nhận
thức. Trong hoạt động nhận thức thì phương tiện quan trọng nhất là ngôn ngữ.
2. Đã đưa ra cơ sở lí luận và mối quan hệ của ngôn ngữ, NNHH với hoạt
động nhận thức và DHHH, chỉ ra rằng NNHH là phương tiện tích cực trong nhận
thức hoá học.
- 24 -
3. Kết quả điều tra cho thấy trình độ HS miền núi ít theo kịp yêu cầu chung của
xã hội, trong đó phụ thuộc nhiều yếu tố.
Chương 2
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ HÓA HỌC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐĂK NÔNG
2.1. Hệ thống về ngôn ngữ hoá học
2.1.1. Những nội dung kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hoá học trong trường
phổ thông
NNHH là một trong những công cụ nhận thức và mô tả thế giới vật chất, mô tả
sự biến đổi của các chất và các quy luật giữa chúng. Những nội dung của NNHH tuy
không lớn, không tập trung thành từng phần nhưng rải đều trong toàn bộ chương trình
hóa học phổ thông, dung lượng vừa đủ cho việc lĩnh hội những nội dung kiến thức hóa
học. Trong thành phần của NNHH gồm những tri thức về thuật ngữ hóa học, danh
pháp, biểu tượng hóa học cùng với các kỹ năng sử dụng chúng.
a) Thuật ngữ hóa học:
Nắm vững những nội dung của thuật ngữ về mặt kiến thức tức là hiểu rõ tác
dụng và ý nghĩa của những thuật ngữ khoa học nói chung và hóa học nói riêng; mối
liên hệ của chúng với những khái niệm: sự phân tích về ý nghĩa về ngữ nghĩa của
những thuật ngữ.

Những nội dung về mặt kỹ năng là biết phát âm và viết những thuật ngữ, biết
thiết lập mối liên hệ của nó với những khái niệm, biết rút ra nội dung thuật ngữ từ
định nghĩa của khái niệm, biết thay thế thuật ngữ này bằng thuật ngữ khác theo ý
nghĩa và giá trị tương ứng, biết biểu thị phân tích thành phần của chúng, sự chuyển
đổi lẫn nhau giữa các thuật ngữ và ký hiệu, biết làm việc với từ điển thuật ngữ.
b) Danh pháp hóa học:
- 25 -

×