Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tân kỳ trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.8 KB, 63 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

1

Mở đầu
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Tân Kỳ là một huyện miền núi của tỉnh Nghệ An được thành tập từ tháng 4
năm 1963 dựa trên cơ sở cắt một số xã của huyện Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Yên
Thành và nhân dân miền xuôi lên làm kinh tế và nhân dân Vĩnh Linh sơ tán
trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Tuy mới thành lập nhưng địa bàn huyện đã có truyền thống cách mạng
từ lâu đời. Trên mảnh đất Tân Kỳ, từ buổi bình minh lịch sử đã có con người
sinh sống. Họ đã đồn kết bên nhau chinh phục thiên nhiên, chống thú dữ,
khai khẩn, cày bừa làm cho đất đai thành thuộc và liên tục chống lại các thế
lực hắc ám để xây dựng bản làng, cuộc sống.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Tân Kỳ đã có rất nhiều đóng góp cho
q trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là
trong các cuộc kháng chiến chống giặc Minh, kháng chiến chống giặc Pháp,
kháng chiến chống giặc Mỹ v.v,...
Với lòng ngưỡng mộ, tự hào và lòng yêu mến quê hương tha thiết, sau nhiều
tháng sưu tầm và nghiên cứu một số tài liệu của các tác giả từ xưa đến nay,
đặc biệt là các nguồn tài liệu lưu giữ trong dân gian tôi đã chọn vấn đề “Tân
Kỳ trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm” làm đề tài cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
Tơi hy vọng đề tài của mình sẽ góp một phần nhỏ cho việc học tập và
nghiên cứu lịch sử địa phương. Đồng thời cũng là một tài liệu để nhân dân
và con em Tân Kỳ nhìn vào đó, thấy mảnh đất của mình, những gì đã diễn ra,
những gì đã được sáng tạo nên, những gì đã mất đi, cịn lại, bao người đã đổ
mồ hơi, nước mắt vì nó, v.v,... hiểu biết tự hào và đem tất cả năng lực lao
động cũng như trí tuệ, tinh thần, đóng góp, xây dựng Tân Kỳ ngày càng giàu


đẹp hơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

2

Cho đến nay ngồi cuốn “Tân Kỳ truyền thống và làng xã” của nhà
nghiên cứu Ninh Viết Giao thì chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập
đến lịch sử kháng chiến của huyện Tân Kỳ.
Tuy nhiên cuốn “Tân Kỳ truyền thống và làng xã” lại giống như một
tập điều tra cơ bản đầu tiên về vùng đất Tân Kỳ trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, văn hố - xã hội v.v,... trong đó cũng đề cập đến khía cạnh truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân Tân Kỳ nhưng chưa hoàn chỉnh và có hệ
thống. Chưa làm nổi bật được những đóng góp của Tân Kỳ trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Qua việc sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu tôi rằng phần lớn tài liệu đề
cập về vấn đề này hiện nay đang được lưu trữ ở các ban ngành trong huyện
như Huyện đội, Huyện ủy, Phòng văn hóa, Bảo tàng huyện v.v,... số cịn lại
là những tài liệu bằng hiện vật ở các địa phương, tài liệu trong nhân dân,
những nhân chứng lịch sử đang còn sống trên đất Tân Kỳ v.v,...
Vì vậy để hồn thành đề tài này việc sưu tầm tài liệu rất khó khăn,
phức tạp. Tuy nhiên trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi
trước đồng thời dựa vào các nguồn tư liệu địa phương, các chuyến đi thực tế
đã thu thập tìm hiểu, tác giả của đề tài cũng cố gắng để hoàn thành các yêu
cầu đề tài đặt ra.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI


“Tân Kỳ trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm” là một đề
tài rất rộng. Ở đây chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu về những đóng góp của
mảnh đất Tân Kỳ (chủ yếu trên mặt trận quân sự) trong các cuộc kháng chiến
chống giặc Minh, kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Đối
với cuộc kháng chiến chống quân Minh, chủ yếu nghiên cứu những đóng
góp của Tân Kỳ từ năm 1424 - khi nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An
đến khi cuộc kháng chiến thắng lợi (1428). Đối với cuộc kháng chiến chống

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

3

Pháp những đóng góp của Tân Kỳ được thể hiện xuyên suốt từ phong trào
Cần Vương đến năm 1954. Còn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ chúng tơi
chủ yếu

đề cập đến những đóng góp của Tân Kỳ từ khi thành lập huyện

(1963) đến năm 1973.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành đề tài này chúng tôi đã sử dụng rất nhiều nguồn tài liệu
khác nhau. Ngồi các cơng trình nghiên cứu đã có, chúng tơi cịn sử dụng rất
nhiều nguồn tài liệu của các ban ngành trong huyện, các tư liệu ở các địa
phương v.v,...
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng chủ yếu hai phương pháp Logic và

lịch sử để đánh giá sự kiện lịch sử một cách chân thực. Ngoài ra do u cầu
của đề tài chúng tơi cịn kết hợp một số phương pháp khác như: Tổng hợp,
đối chiếu, so sánh để hoàn thiện đề tài.
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI

Để tiện cho việc trình bày được sáng sủa và khoa học bố cục bài khóa
luận này được sắp xếp theo trình tự các phần, chương, mục sau đây:
Mở đầu
Nội dung:
Chương 1: Tân Kỳ: Duyên cách địa lý hành chính.
Chương 2: Tân Kỳ trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược.
Chương 3: Tân Kỳ trong kháng chiến chống Pháp.
3.1. Nghĩa quân Cần Vương chống Pháp trên đất Tân Kỳ.
3.2. Phong trào cách mạng của nhân dân Tân Kỳ trong những năm
1930 -1945.
3.3. Phong trào kháng chiến của nhân dân Tân Kỳ sau cách mạng
tháng Tám 1945.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

4

Chương 4: Tân Kỳ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
4.1. Tổ chức lực lượng chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quê hương.
4.2. Xây dựng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân
dân, làm nghĩa vụ của hậu phương đối với miền Nam ruột thịt.
Kết luận

Tài liệu tham khảo
Để hoàn thành bài khóa luận này, trước hết chúng tơi xin chân thành
cám ơn Phó giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Trọng Văn - người đã tận tâm dìu dắt
chúng tơi những bước đi đầu tiên trên con đường nghiên cứu khoa học. Xin
cám ơn các đơn vị và cá nhân trên địa bàn huyện Tân Kỳ đã giúp đỡ chúng
tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu.
Đề tài này được thực hiện trong một thời gian không dài, với khả năng
có hạn của bản thân, nguồn tài liệu lại tương đối khó tìm do vậy khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tơi rất mong nhận được sự lượng
thứ, đóng góp chân thành của thầy cơ giáo và các bạn sinh viên.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

5

NỘI DUNG
Chương 1
Tân Kỳ: Duyên cách địa lý hành chính

Trong thời kỳ Bắc thuộc, lúc đầu Tân Kỳ thuộc đất Hàm Hoan, đầu đời
Đường (Trung Quốc) thuộc đất Hoan Châu. Năm Quảng Đức thứ hai (764)
nhà Đường tách một phần Hoan Châu, đặt ra Diễn Châu. Diễn Châu là đất
Hàm Hoan đời Ngô, đời Tấn (Trung Quốc) tương đương với vùng Diễn,
Yên, Quỳnh và cả vùng núi Phủ Qùy cũ (bao gồm Quế Phong, Qùy Châu,
Qùy Hợp, Nghĩa Đàn hiện tại). Do đó Tân Kỳ thuộc về đất Diễn Châu.
Đầu thế kỷ X, nước ta chấm dứt đêm trường Bắc thuộc. Các triều đại
kế tiếp nhau Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần đều bỏ hẳn chế độ quận huyện.

Khi thì chia thành Đạo (nhà Đinh), khi thì chia thành Lộ (Tiền Lê), khi thì
chia thành Trại, Phủ, Châu (nhà Lý, nhà Trần). Năm Quang Thái thứ 10
(1397), nhà Trần đổi Châu Nghệ An thành trấn Vọng Giang, đến đời Hồ, nhà
Hồ lại đổi làm phủ Linh Nguyên. Xem thế ta thấy đời Trần - Hồ phủ (lộ, trại,
châu) Diễn Châu hay trấn Vọng Giang hay phủ Linh Nguyên gồm các huyện
Phù Dung (đất của huyện Diễn Châu ngày nay), Phù Lưu, Quỳnh Lâm (đất
của huyện Nghĩa Đàn ngày nay) và cả vùng Qùy Châu cũ. Và như vậy Tân
Kỳ là một phần đất của huyện Quỳnh Lâm và một phần của huyện Thiên
Động.
Nhà Tiền Lê năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông định
lại bản đồ cả nước để thống thuộc vào các phủ, huyện, thừa tuyên mới hợp
cả Hoan Châu và Diễn Châu là một, gọi là Nghệ An thừa tuyên. Năm Hồng
Đức thứ 21 (1490) gọi là xứ, sang đời Hồng Thuận (1509 -1516) đổi làm
trấn. Trấn Nghệ An từ đời Lê cho đến đầu đời Nguyễn có chín phủ. Diễn
Châu là một trong chín phủ của trấn Nghệ An, gồm hai huyện: Đông Thành
và Quỳnh Lưu. Và lúc này, Tân Kỳ cơ bản là đất của huyện Quỳnh Lưu.
Sang đời Nguyễn, Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) mới đặt Nghệ An
và Hà Tĩnh. Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) đặt huyện Yên Thành lệ vào phủ

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

6

Diễn Châu, năm thứ 21 (1840) đặt huyện Lương Sơn (Đô Lương hiện tại) lệ
vào phủ Anh Sơn và cắt bảy tổng của huyện Quỳnh Lưu là Hạ Bì, Nghĩa
Hưng, Phác Lộ, Đường Khê, Nhiêu Hạp, Thuần Cam và Lâm La, và một
tổng của huyện Yên Thành - tổng Cự Lâm, thành lập huyện Nghĩa Đường, lệ

vào phủ Diễn Châu. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), đưa huyện Nghĩa Đường lệ
vào phủ Qùy Châu, năm 1886 kỵ húy Đồng Khánh (Nguyễn Phúc Đường)
đổi Nghĩa Đường thành Nghĩa Đàn. Từ đó Tân Kỳ cơ bản thuộc đất của
huyện Nghĩa Đàn.
Vào những năm trước cách mạng năm 1945 của thế kỷ này, Nghĩa
Đàn có sáu Tổng: Lâm La, Nghĩa Hưng, Thạch Khê, Hạ Sưu, Thái Thịnh và
Cự Lâm.
Năm 1963, huyện Tân Kỳ được thành lập gồm có 13 xã. Trong đó có
10 xã thuộc huyện Nghĩa Đàn mà trước Cách mạng tháng Tám 1945 là đất
hai tổng Cự Lâm và Hạ Sưu. Đó là các xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Bình, Nghĩa
Hồn, Nghĩa Thái, Nghĩa Phúc, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hợp, Tân Hợp, Tiên
Đồng và Giai Xuân. Ba xã còn lại, hai xã là đất của tổng Lãng Điền, huyện
Anh Sơn cũ, là Hương Sơn và Phú Sơn, một xã thuộc là đất của tổng Vân
Hội (Yên Thành) là Kỳ Sơn. Năm 1964, tách xã Tiên Đồng thành hai xã
Tiên Kỳ và Đồng Văn. Năm 1970 tách xã Giai Xuân thành hai xã Giai Xuân
và Tân Xuân. Năm 1972, thành lập thêm xã Nghĩa Hành. Như vậy đến năm
1972, Tân Kỳ có 16 xã. Gần đây, tháng 5/1988 tách xã Kỳ Sơn thành hai xã
Kỳ Sơn và Kỳ Tân, đồng thời Quốc Hội công nhận Trại Lạt vốn là đất của xã
Kỳ Sơn là thị trấn Tân Kỳ.
Ngoài các đơn vị hành chính gồm 17 xã và 1 thị trấn nói trên, cịn có
3 nơng trường trên đất Tân Kỳ: Nơng trường quốc doanh sông Con, Nông
trường quốc doanh Vực Rồng và Nông trường thanh niên An Ngãi. Riêng
nông trường quốc doanh sông Con đã được nhà nước công nhận là thị trấn
nông trường.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp


7

Như vậy trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, vùng đất Tân Kỳ và
những cư dân sinh sống trên đó vẫn hồ nhập vào sự phát triển của lịch sử
dân tộc. Cùng dân tộc Việt Nam trải qua những bước thăng trầm của lịch sử.
Tuy nhiên trong khoảng một thời gian rất dài Tân Kỳ chưa có tên trên bản đồ
Tổ quốc, mà tùy vào các giai đoạn khác nhau Tân Kỳ thuộc vào những đơn
vị hành chính khác nhau. Đến năm 1963, cùng với quyết định thành lập
huyện Tân Kỳ thì cái tên Tân Kỳ cũng ra đời và một duyên cách địa lý hành
chính mới cơ bản đã được hình thành. Tuy nhiên phải đến những năm cuối
thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 thì duyên cách địa lý của Tân Kỳ mới được ổn
định.
Qua việc nghiên cứu chương 1: “Tân Kỳ - Duyên cách địa lý hành
chính” giúp chúng ta hiểu được lịch sử lâu đời của vùng đất Tân Kỳ và sự
phát triển về mặt duyên cách địa lý hánh chính của Tân Kỳ trước và sau khi
thành lập huyện. Trên cơ sở đó khi tìm hiểu nơị dung chính mà tơi đề cập
đến trong bài khóa luận này là: “Tân Kỳ trong các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm0, chúng ta phải có sự liên hệ với các đơn vị hành chính trước
đây có tên gọi khác nhưng sau này được sát nhập lại thành huyện Tân Kỳ để
nhận thức đúng về vai trò của vùng đất - huyện Tân Kỳ trong lịch sử chống
giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh

8



Khóa luận tốt nghiệp

9

Chương 2
Tân Kỳ trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh xâm lược

Trước những chính sách áp bức, bóc lột vô cùng tàn bạo của giặc
Minh xâm lược, ngày 7/ 2/1418 từ vùng đất Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh
Hóa ngày nay) Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, dựng cờ chiêu tập binh
sĩ, hiền tài để “muốn cho ngàn đời sau biết rằng ta không chịu thuần phục
quân giặc tàn ngược” [12, 15], làm nên cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hiển hách
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta kéo dài một thập kỷ, kết thúc với chiến
thắng vẻ vang, oanh liệt. Trải qua hơn 10 năm kháng chiến chống giặc Minh
xâm lược, để có được ngày “Xã tắc từ đây bền vững, giang sơn từ đây đổi
mới” (Bình ngơ đại cáo - Nguyễn Trãi) dân tộc ta nói chung và nghĩa quân
Lam Sơn nói riêng đã phải chịu đựng biết bao khó khăn vất vả, hy sinh mất
mát. Biết bao anh hùng dân tộc đã ngã xuống, những tấm gương như Lê Lai
còn sáng mãi đến ngàn đời sau. Cũn0g trong cuộc kháng chiến nay, để làm
nên những chiến công hiển hách là sự đóng góp hết sức to lớn của nhiều địa
phương, nhiều vùng đất trên lãnh thổ đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Khi
nhắc đến những địa danh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chúng ta khơng thể
khơng nói đến vùng đất Nghệ An nói chung và Tân Kỳ nói riêng. Nơi đã có
những đóng góp to lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần vào cuộc
kháng chiến chống giặc Minh xâm lược của dân tộc ta vào những năm đầu
thế kỷ XV.

Từ khi dựng cờ khởi nghĩa cho đến tháng 5/1423 nhìn chung, nghĩa quân
Lam Sơn chỉ hoạt động ở vùng rừng núi phía Tây của Thanh Hóa ngày nay.
Lợi dụng ưu thế áp đảo về quân số và trang bị, quân Minh liên tiếp tổ chức
các cuộc đàn áp đẫm máu, do vậy Lê Lợi và các nghĩa sĩ Lam Sơn đã phải
chiến đấu vô cùng gian khổ, thậm chí có lúc phải đứng trước nguy cơ bị

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

10

tuyệt diệt. Bao phen Lam Sơn bị tuyệt lương phải đào củ rừng, hái lá rừng
mà sống, Lê Lợi đã phải làm thịt cả voi chiến và ngựa chiến cho quân sĩ ăn.
Cuộc bao vây và đàn áp nghiệt ngã của giặc Minh cộng với bệnh tật bởi lam
chướng của núi rừng đã khiến cho nhân lực của Lam Sơn bị tổn thất nặng nề.
Tình thế quả đúng như Nguyễn Trãi đã mô tả:
"Khi linh sơn lương cạn mấy tuần
Lúc khơi huyện qn khơng cịn một lữ"
(Nguyễn Trãi - Bình Ngơ đại cáo)
Tháng 5/1423, khi mà nghĩa quân Lam Sơn không thể tiếp tục kéo dài
cuộc đối đầu bằng vũ lực, cũng là khi mà quân Minh mệt mỏi bởi những
cuộc động binh triền miên, Lê Lợi đã chủ trương đình chiến với địch dưới
hình thức trá hàng. Ơng nói: “Bên ngồi thì giả hịa hỗn, bên trong thì lo
rèn chiến cụ” [12,23]. Ngay sau khi hai bên thỏa thuận bước vào một thời kỳ
tạm thời hòa hỗn, Lê Lợi cùng các tướng sĩ của mình gấp rút tiến hành một
loạt cơng việc sống cịn của nghĩa quân Lam Sơn như: Sản xuất và tích trữ
lương thực trong các kho bí mật, tu bổ và sắm sửa thêm vũ khí, tuyển mộ và
củng cố lực lượng, tìm cách giao hảo để đề phịng những cuộc tấn cơng bất

ngờ của quân Minh. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là: “Nội tu chiến cụ,
ngoại thác hòa thân” [12,23].
Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, tiềm lực của Lam Sơn chẳng
những được khơi phục mà cịn nhanh chóng phát triển, đủ để có thể bước vào
một thời kỳ chiến đấu lâu dài và ác liệt hơn. Từ đây nghĩa quân Lam Sơn bắt
đầu chuyển sang một thời kỳ hoạt động mới.
Ngày 20/9/1424, tại Lam Sơn, Lê Lợi đã triệu tập và chủ trì hội nghị
bộ chỉ huy nghĩa quân để bàn kế hoạch mới. Trong hội nghị này Lê Lợi và
Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có những quyết định rất quan trọng. Một là, chủ
động tấn công quân Minh, chấm dứt hẳn thời kỳ tạm thời hịa hỗn. Hai là,
bắt đầu giai đoạn chiến đấu mới bằng việc thực hiện kế hoạch chiến lược của

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

11

danh tướng Nguyễn Chích: Đánh vào Nghệ An để tìm “đất đứng chân”
[12,25]. Nguyễn Chích là một dũng tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc và
có một bộ óc chiến lược thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn. Ơng sinh ra trong
một gia đình nơng dân nghèo khổ, cho nên, thủơ ấu thơ đã phải đi ở đợ làm
nghề chăn trâu ở vùng Hoành Sơn và Nghiêu Sơn (Đơng Sơn - Thanh Hóa).
Khi qn Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Chinh đã phát động và lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa khá lớn ngay ở vùng Hoành Sơn và Nghêu Sơn. Khi Lê
Lợi xướng nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Chích rất lấy làm hồ hởi. Nghĩa quân
Lê Lợi và Nghĩa qn Nguyễn Chích đã nhanh chóng phối hợp với nhau để
chống lại kẻ thù chung. Cuối năm 1420, khi Lê Lợi đóng qn tại Mường
Nanh, Nguyễn Chích đã đem tồn bộ lực lượng của mình về với Lê Lợi. Ông

được Lê Lợi cho giữ chức Nhập Nội Thiếu úy - một trong những chức võ
quan cao cấp nhất lúc bấy giờ. Từ đó ơng đã có những đóng góp hết sức to
lớn cho nghĩa quân Lam Sơn. Đặc biệt trong cuộc họp bộ chi huy nghĩa quân
ngày 20/9/1424 ông đã có một ý kiến mang tầm chiến lược tạo ra bước ngoặt
lịch sử cho phong trào Lam Sơn vào cuối năm 1424. Ơng nói: "Nghệ An là
nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất
thông thạo đương đất. Nay ta trước hãy đánh lấy thành Trà Long, chiếm giữ
cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực đất
ấy mà quay cờ trẩy ra Đông Đơ thì có thể tính xong được việc dẹp n thiên
hạ" [12,25]. Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân thấy đó là một ý kiến có tầm
quan trọng chiến lược, vô cùng sáng suốt nên đã tán thành và quyết định tấn
công vào Nghệ An để xây dựng căn cứ địa.
Trên cơ sở ý kiến của Nguyễn Chích, cuối năm 1424 cuộc tấn công bất
ngờ của nghĩa quân Lam Sơn vào Nghệ An bắt đầu. Trước hết nghĩa quân
tiến hành đánh úp thành Đa Căng (Thọ Xuân - Thanh Hóa) tiêu diệt hơn
1000 quân địch và chiếm được thành. Sau đó nghĩa quân tiếp tục theo đường

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

12

núi vào đầu đất Nghệ An là Bồ Đằng (hay Bồ Liệp), nay thuộc xã Châu Nga,
huyện Qùy Châu làm nên "Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật" (Nguyễn Trãi
- Bình Ngơ đại cáo). Đại thắng trận này, nghĩa quân tiếp tục hành quân về
phía thành Trà Long. Một trong những con đường mà nghĩa quân đi qua là
con đường thượng đạo đi từ Đô Lương, qua Tân Kỳ, lên Nghĩa Đàn, ra Như
Xuân, Nông Cống đến Long Linh ở Thọ Xuân (Thanh Hóa),... Con đường

này do tri châu Nghệ An là Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang cho dân phu khai
phá từ năm Quý Mùi (1043). Từ Châu Nga qua Châu Hội rồi Cổ Ba, Bãi
Đinh, làng Đông, làng Rạch ở Qùy Châu, Qùy Hợp, Nghĩa Đàn,...), tức là
con đường 48 chạy men sông Hiếu hiện tại, đã để lại rất nhiều vết tích của
nghĩa quân. Từ làng Đong gần Thái Hòa hiện tại, nghĩa quân đi men theo
sông Con tới Nghĩa Đồng, Nghĩa Thái, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Phúc (Tân Kỳ)
rồi đến tập kết ở bãi Lơi Lơi thuộc đất ba xã Nghĩa Hành, Hương Sơn và Phú
Sơn của huyện Tân Kỳ bây giờ. Trên con đường hành quân này, hiện nay
còn để lại rất nhiều dấu vết của nghĩa quân, tại các xã Nghĩa Đồng, Nghĩa
Thái, Nghĩa Hoàn,... khi bà con đào giếng, đào mương thủy lợi, đào móng
nhà,... đã nhặt được các đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu,... của nghĩa
quân Lam Sơn. Đặc biệt, trong các hang động ở dãy Lèn Rỏi chạy dọc theo
sơng Con cịn chứa đựng rất nhiều vết tích của nghĩa quân, điều này chứng tỏ
dọc đường hành quân, nghĩa quân đã dừng lại trú chân tại đây. Ngồi ra, dấu
vết của nghĩa qn cịn rải rác khắp nơi trên địa bàn của huyện Tân Kỳ.
Tại vùng rừng núi của huyện Tân Kỳ, sau khi dừng chân Lê Lợi và
nghĩa quân Lam Sơn đã thiết lập hành dinh tạm thời để đánh tan đạo quân
của Sư Hựu tại trang Trịnh Sơn (nay thuộc Thạch Ngàn, huyện Con Cuông)
bên kia sông Con. Về sự kiện này, sử cũ chép:
“Vua kén chọn đinh tráng, sửa sang khí giới, chỉnh đốn quân ngũ và
voi chiến, tiến vào Trà Lân. Gần đến xứ Bồ Lạp thì bất ngờ gặp tướng giặc

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

13

là Sư Hựu, cùng bọn ngụy tướng là Cầm Bành và Cầm Lạn đem năm ngàn

quân chặn ngay phía trước. Lúc ấy lại có bọn Trần Trí, Phương Chính, Lý
An và Thái Phúc đem quân đến ở sau lưng. Quân ta trước sau đều có giặc
mạnh. Bấy giờ trời lại gần tối. Vua liền sai đặt phục binh đề chờ. Lát sau,
quân giặc quả nhiên tới nơi. Vua tung phục binh ra đánh quân giặc vỡ to. Ta
chém được hai ngàn đầu giặc, bắt được hơn trăm con ngựa. Ngày hôm sau
vua lại đem quân sĩ và voi chiến xông thẳng vào dinh trại của tướng giặc là
Sư Hựu. Quân giặc lại thua to trận nữa. Ta chém được hơn ngàn đầu, bao
nhiêu quân trang thu được đều đem đốt sạch” [12,165].
Sau khi đánh tan đạo quân của Sư Hựu, Lê Lợi bắt đầu chỉ huy nghĩa
quân Lam Sơn tiến hành bao vây hạ thành Trà Lân. Thành Trà Lân thuộc về
đất Mật Châu đời Trần, nằm trên con đường thượng đạo từ Bắc vào Nam và
từ Đơng sang Tây. Từ bãi Lơi Lơi (chính là bãi Lê Lợi, nhưng bà con ở đây
nói chệch âm thành Lơi Lơi), tháng 10/1424, nghĩa quân bao vây thành Trà
Lân và tìm cách chiêu dụ tướng giặc là Cầm Bành. Cậy có thành lũy kiên cố,
vị trí hiểm yếu và quân số đông, Cầm Bành ra sức cố thủ để chờ viện binh.
Lê Lợi bàn cách khép chặt vòng vây và quyết hạ thành. Quân giặc chống cự
không nổi nên phải đầu hàng. Đây là trận công thành lớn đầu tiên của nghĩa
quân Lam Sơn, trận đánh kéo dài và vô cùng ngay go nhưng với quyết tâm
cao của nghĩa quân và sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân địa phương nên
nghĩa quân đã thu được thắng lợi trong trận đánh này, tạo nên một “Miền Trà
Lân Trúc chẻ tro bay”(Nguyễn Trãi - Bình Ngơ đại cáo), mở đường cho
những thắng lợi tiếp theo của nghĩa quân. Về diễn biến chung của trận này,
sử cũ chép: “Khi ấy, bọn Cầm Bành cứ cố thủ, không chịu theo. Vua vỗ về
nhân dân khuyên lo làm ăn, khiến cho ai nấy đều được yên chỗ. Họ cảm kích
mà cùng vua giết giặc Cầm Bành. Suốt hai tháng trời Cầm Bành cố giữ sơn
trại để chờ viện binh, trong khi đó, bọn giặc thì hoang mang vừa ngờ, vừa

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh



Khóa luận tốt nghiệp

14

sợ, khơng dám đến cứu. Qn sĩ của Cầm Bành oán giận mà làm phản, kéo
nhau ra đầu hàng. Cầm Bành tự liệu đã đến thế cùng, không thể đợi viện
binh được nữa, buộc phải mở cửa ra hàng” [12,165].
Việc hạ thành Trà Lân là một thắng lợi mang nhiều ý nghĩa to lớn.
Thứ nhất, nó chứng tỏ kế hoạch đánh vào Nghệ An tìm “đất đứng chân” của
Nguyễn Chích bước đầu đã thành cơng, tạo niềm tin cho nghĩa quân Lam
Sơn tiếp tục thực hiện kế hoạch. Thứ hai, nó chứng tỏ bước trưởng thành của
nghĩa quân, uy thế của nghĩa quân được tăng lên tạo điều kiện cho việc bổ
sung thêm lực lượng. Sau khi hạ thành, có khoảng 5000 người gia nhập
nghĩa quân.
Để thu được thắng lợi trong trận đánh hạ thành Trà Lân ngồi cơng lao
của nghĩa qn Lam Sơn, cịn có sự đóng góp hết sức to lớn của nhân dân địa
phương Tân Kỳ. Sở dĩ nhân dân địa phương hết lòng ủng hộ nghĩa quân là vì
từ lâu họ phải sống trong sự áp bức, bóc lột hà khắc của quân Minh. Nay có
một lực lượng tự xưng là nghĩa quân Lam Sơn do chủ tướng Lê Lợi cầm đầu
đến dừng chân trên đất họ để đánh giặc Minh nên họ rất phấn khởi. Lúc đầu,
họ chưa thật sự tin tưởng và còn dè dặt nhưng càng ngày qua những việc làm
cụ thể của nghĩa quân Lam Sơn, đặc biệt là chủ tướng Lê Lợi đã “vỗ về nhân
dân, khuyên nên lo làm ăn, khiến cho ai nấy đều được yên chỗ” nên họ đã
một mực tin theo và ủng hộ nghĩa quân hết lòng. Cùng hợp sức với nghĩa
quân đánh hạ thành Trà Long, tạo nên một chiến thắng hết sức quan trọng.
Hiện nay, trong sử cũ cũng như trong các nguồn tài liệu dân gian còn lưu
truyền nhiều sự tích nói lên sự đóng góp của nhân dân Tân Kỳ đối với nghĩa
quân Lam Sơn. Những sự tích này là những điều có thật đã xẩy ra vì nó gắn
liền với những tên đất, tên người cụ thể, những di tích cụ thể mà hiện nay
vẫn cịn tồn tại. Theo sử cũ, nhân dân hai xã Tiên Kỳ và Đồng Văn đã theo

Trương Hán, một tù trưởng người Thái ở Kẻ Trằng (trước thuộc Tiên Kỳ)

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

15

gia nhập nghĩa quân. Trương Hán cùng với hai em là Trương Tâm và
Trương Tham đã đem voi ngựa, trâu bò, gà vịt và lương thực giúp nghĩa
quân. Chính Trương Hán đã dẫn đường cho nghĩa quân tiến vây thành Trà
Lân và cùng với dân làng ngày đêm đem sức của, sức người phục vụ cho
việc xây thành, mai phục giết giặc. Lương thực cạn, nhà có một cây “khầu”,
Trương Hán cho hái hết quả để dùng vào việc nuôi quân. Hái hết quả “khầu”
vườn nhà Trương Hán cho bà con đi tìm quả “khầu” quả “khủa” trong rừng,
rồi đào củ mài, hái rau rừng,... để phò nghĩa quân. Thiên hạ đại định, Trương
Hán được Lê Lợi phong là “Khả lam quốc công”, tặng cho xã Tiên Kỳ một
con dao vàng để kỷ niệm việc nhân dân hái quả khầu, rau rừng phò nghĩa
quân, tặng cho cây “khầu” ở nhà Trương Hán là “Khầu quận công”. Chưa
hết, Lê Lợi còn ban cho địa phương ấy là cái tên là Tiên Kỳ, tức là có cơng
trong buổi đầu dựng nước và cho khoanh một vùng đất gồm “Tam bách đỉnh
sơn” làm địa phận của xã, cái tên Tiên Kỳ bắt đầu có từ đó.
Ở Bãi Chịng thuộc vùng khe Lòa (xã Đồng Văn hiện nay) một vị
tướng của Lê Lợi đi dị xét tình hình đến trú tại một nhà họ Lương. Nhà họ
Lương này đã đem toàn bộ gia sản ủng hộ nghĩa quân. Khi vị tướng này
đang ăn cơm với hai vợ chồng này thì quân Minh ập đến. Chủ nhà ấy đã dấu
vị tướng này trong một cái chum, ngạt thở vị tướng ấy vùng dậy chạy. Quân
Minh đuổi theo, thấy một cây đa có một cái hốc sâu vị tướng ẩn vào đó.
Quân Minh lấy giáo đâm vào, may sao có con chồn trắng chạy ra. Quân

Minh giết chết chồn rồi bỏ đi, nên vị tướng ấy thoát chết. Sau này Lê Lợi cho
lập ở đó một miếu thờ, gọi là miếu Bạch Hổ, hiện nay vẫn còn ở trên địa
phận xã Đồng Văn.
Ở khe Mài gần vực Rồng (thuộc địa phận xã Nghĩa Hợp và Nghĩa
Đồng ngày nay), có một cơ gái đẹp, thông minh tháo vát gia nhập nghĩa
quân, cô được Lê Lợi chọn làm giao thơng liên lạc và tìm hiểu tình hình

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

16

địch. Chưa rõ cơng trạng của cơ như thế nào, nhưng thắng lợi rồi, cô được Lê
Lợi cho một ân tế như thác đao điền của Lê Phụng Hiểu là đứng trên đỉnh
núi gần khe Mài, cô gõ một hồi chuông, tiếng chuông vang đến đâu, phạm vi
đất rừng của cơ ta đến đó. Khi chết, cơ cũng được nhân dân lập đền thờ, gọi
là Đức mẹ đại bàng quang triều Bạch Y ngàn thượng”. Theo bà con truyền
lại, ngày trước đất miền núi Nghệ An “thượng từ Cổ Ba, hạ đến Tam Dương
(lèn Vọt)” là đất của cô ta.
Ở bản Phày, Đồng Khừa (Tiên Kỳ), bà con kể lại: Khi một toán quân
Minh đi “thám báo” tình hình nghĩa quân, chúng cải trang thành người địa
phương. Chúng mò mẫn đột nhâp vào một cứ điểm của nghĩa qn mà nghĩa
qn Lam Sơn khơng biết gì. Ngay lập tức, một vài người dân trong bản đã
nảy ra sáng kiến rất hay. Họ đã cởi áo chụp tổ ong bò vẽ ở bên đường, rồi
chạy tới vứt vào đám quân Minh. Bị ong đốt, chúng kêu bằng tiếng Tàu, la
lối, chửi bới om sòm. Thế là nghĩa quân của ta đã kịp thời biết và tiêu diệt
gọn toán qn Minh đó.
Cịn tại Lèn Rỏi, trong cái hang hướng về Chủng Láng, cách đây

khơng lâu, bà đã tìm được những dao, kiếm, mác,... và theo bà con kể lại thì
trước đây nơi này là chỗ cất dấu vũ khí của nghĩa quân Lam Sơn v.v..
Qua rất nhiều nguồn tài liệu về chữ viết, khảo cổ học những câu
chuyện lưu truyền trong dân địa phương cho ta thấy nhân dân Tân Kỳ, đặc
biệt là nhân dân các xã Tiên Kỳ, Đồng Văn, Nghĩa Hành,... đã có những
đóng góp hết sức to lớn về người và của cho nghĩa quân Lam Sơn trong trận
đánh hạ thành Trà Long (Trà Lân), góp phần tạo nên một thắng lợi hết sức
quan trọng, mang tính chiến lược của nghĩa quân Lam Sơn. Để từ đó nghĩa
quân Lam Sơn liên tiếp thu được những thắng lợi trong các trận đánh tiếp
theo, thực hiện được kế hoạch của Nguyễn Chích “lấy Nghệ An làm đất đứng
chân”, rồi tiến ra Đơng Đơ “tính xong việc dẹp n thiên hạ”.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

17

Sau khi hạ được thành Trà Long, lại được nhân dân Tân Kỳ, nhân dân
Nghệ An một lòng ủng hộ, nghĩa quân Lam Sơn từ yếu chuyển sang mạnh.
Vẫn lấy Tân Kỳ làm chỗ đóng quân, làm hậu phương an toàn vững chắc, Lê
Lợi đã đem quân chủ động tấn công giặc ở các địa phương giáp ranh với Tân
Kỳ. Các trận đánh này nghĩa quân Lam Sơn đều thu được những thắng lợi
hết sức to lớn, đặc biệt trong các trận như trận Khả Lưu, trận Bồ Ải v.v,...
Trong trận Khả Lưu (ở Vĩnh Sơn và Long Sơn hiện tại) nghĩa quân Lam
Sơn đã diệt hơn một vạn tên giặc, khiến cho Trần Trí và Phương Chính phải
vội vã lui qn, khơng dám tiếp tục vào giải phóng thành Trà Lân. Tiếp theo
trận Khả Lưu tại Bồ Ải (ở Đức Sơn - Anh Sơn hiện tại) Lê Lợi đã cho quân
mai phục tấn công giặc. Trận này, “Ta chém được nhiều không kể xiết, chiến

thuyền của chủng ngổn ngang, xác chét nghẽn cả nước, khí giới vất như núi
như gò. Trong trận này ta bắt sống tướng giặc là Chu Kiệt và giết được
tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được 1 vạn quân Minh” [12,80], Trần
Tri và Phương Chính đại bại, phải kéo quân bỏ chạy vào thành Nghệ An.
Với những chiến thắng vang dội ở Trà Lân, Khả Lâu, Bồ Ải,...Thanh thế và
lực lương của nghĩa quân Lam Sơn ngày càng mạnh khiến cho quân giặc vô
cùng hoang mang, lo sợ. Từ điểm tập kết ở bãi Lơi Lơi trên đất Tân Kỳ, Lê
Lợi kéo quân về thẳng động Tiên Hoa rồi Thiên Nhẫn dựng thành Lục Niên,
tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến tiêu diệt quân Minh, thu nhiều thắng lợi
dồn dập. Đến năm 1427, giải phóng được thành Nghệ An và từ việc “lấy đất
Nghệ An làm chỗ đứng chân” nghĩa quân Lam Sơn đã tấn công tiêu diệt địch
trên khắp lãnh thổ nước ta lúc bấy giờ.
Từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 1427, nghĩa quân đã đánh trận
quyết chiến chiến lược cuối cùng với quân Minh trận Chi Lăng - Xương
Giang. Trong trận đánh này nghĩa quân Lam Sơn đã thu được thắng lợi hết
sức to lớn, những tướng cao cấp nhất của giặc như Liễu Thăng và Lương

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

18

Minh bị chém đầu, Thơi Tụ và Hoàng Phúc bị bắt sống, toàn bộ đạo viện
binh 10 vạn tên tiến vào nước ta qua ngả Lạng Sơn, hoặc bị giết hoặc bị bắt
sống. Tiếp theo trận Chi Lăng - Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn lại thu
được thắng lợi ở hai trận lớn Lãnh Câu và Cao Xá, tiêu diệt và bắt sống quá
nửa đạo quân Mộc Thạch.
Thảm bại của cả hai đạo viện binh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ

huy buộc Vương Thông phải qùy gối đầu hàng và nhục nhã rút hết tàn binh
khỏi nước ta vào ngày 3/1/1428. Cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại do Lê
Lợi khởi xướng và lãnh đạo đã kết thúc tồn thắng. Đúng là :
“Càn khơn bỉ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Để từ đây muôn thủơ thái bình
Rủa sạch từ đây ngàn thu nỗi nhục”
(Nguyễn Trãi - Bình Ngơ đại cáo )
Với cương vị lãnh đạo của phong trào Lam Sơn, sau thắng lợi trọn vẹn
của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, Lê Lợi lên ngơi hồng đế, sáng lập ra
triều Lê, một trong những triều đại lớn của lịch sử nước nhà,tạo ra một bước
ngoặt lớn của lịch sử dân tộc.
Khi đánh giá về nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
một trong những nhân tố chủ yếu làm nên thắng lợi là sức mạnh đoàn kết
toàn dân. Đây là điều mà khơng có ý kiến nào phản bác được, vì nó thể hiện
rõ và xun suốt trong tồn bộ q trình khởi nghĩa. Sức mạnh đồn kết tồn
dân. Một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được thể hiện trong
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên nhiều khía cạnh khác nhau. Một trong những
biểu hiện rõ nét có tính hệ thống của nó là sự đóng góp hết lịng về sức người
sức của, của các địa phương mà nghĩa quân Lam Sơn đã đóng quân hoặc
hành quân qua. Trong số đó, với những đóng góp của mình, nhân dân Tân

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

19

Kỳ đã góp phần hết sức to lớn vào việc thực hiện kế hoạch "lấy Nghệ An làm

đất đứng chân" của Nguyễn Chích làm nên thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn. Những kỳ tích chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn còn âm vang
mãi trên đất Tân Kỳ. Những tên đất như bãi Tập Mã, bãi Lơi Lơi, đồng Voi,
núi Đồn, khe Mài, đền Tả Ngạn, đền Bục, đền Bạch Hổ..v.v,... như còn lưu
mãi những ngày tháng hào hùng của nghĩa quân. Để kỷ niệm một thời kỳ
oanh liệt trong lịch sử huyện nhà, cùng nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến
chống giặc Minh xâm lược, đồng thời để chứng tỏ nhân dân Tân Kỳ trải qua
các thế hệ đều ghi nhớ điều này một trường PTCS ở thị trấn Tân Kỳ mang
tên Nguyễn Trãi và một trường THPT mang tên Lê Lợi đã được xây dựng
trên mảnh đất Tân Kỳ. Hằng năm, khi bước vào năm học mới, thế hệ trẻ Tân
Kỳ học tập dưới những mái trường này đã được tham gia những buổi học
tập, tọa đàm về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và những anh hùng dân tộc như Lê
Lợi, Nguyễn Trãi,..v.v,... cũng như những đóng góp của nhân dân Tân Kỳ
trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh.

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh

20


Khóa luận tốt nghiệp

21

Chương 3

Tân Kỳ trong cuộc kháng chiến chống Pháp
3.1. NGHĨA QUÂN CẦN VƯƠNG CHỐNG PHÁP TRÊN ĐẤT TÂN KỲ

Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lựoc nước ta. Với đối sách đầu
hàng, triều đình nhà Nguyễn đã thực hiện kế sách “nhượng bộ” bằng việc ký
liên tiếp các hiệp ước dâng đất đai và chủ quyền nước ta cho giặc.Triều đình
phong kiến đầu hàng, song nhân dân Việt Nam không đầu hàng quân xâm
lược. Trương Định theo nguyện vọng của nhân dân đã khước từ quan chức,
nhận nhiệm vụ của nhân dân giao làm "Bình Tây đại nguyên soái". Nhiều sĩ
phu yêu nước trong phong trào Cần Vương - thực chất là phong trào kháng
chiến cứu nước của nhân dân đã nhận thức rõ muốn bảo vệ được Tổ quốc
phải "đánh cả triều lẫn Tây". Hưởng ứng lời hiệu triệu của vua Hàm Nghi,
từ Bắc chí Nam các cuộc khởi nghĩa đã diễn ra một cách sôi nổi, mạnh mẽ,
quyết liệt. Tại Nghệ Tĩnh - một mảnh đất có truyền thống chống giặc ngoại
xâm từ lâu đời, lúc này, đã trở thành trung tâm của phong trào Cần Vương
chống Pháp. Ở đây, phong trào Cần Vương phát triển hết sức mạnh mẽ và có
hệ thống. Nó khơng chỉ bó hẹp trong một vài địa phương mà phát triển, lan
toả rộng khắp ra hầu hết tất cả các địa phương của hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh. Trong đó tuy khơng nổi bật nhưng vùng đất Tân kỳ đã có những đóng
góp nhất định cho phong trào Cần Vương chống Pháp, đặc biệt trong phong
trào khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn - một lãnh tụ của phong trào Cần
Vương ở Nghệ An.
Với đối sách đầu hàng, tháng 6/1884, triều đình Huế kí hồ ước
Patơrốt (Pate - Notre) chịu sự bảo hộ, dâng toàn cõi Việt Nam cho thực dân
Pháp. Đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho quyền đơ hộ của Pháp tại Việt Nam.
Trước tình hình đó, một số quan lại chủ chiến trong triều đình đứng đầu là

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh



Khóa luận tốt nghiệp

22

Tơn Thất Thuyết đã thực hiện vụ đánh úp kinh đô Huế vào đêm 5/7 /1885.
Tuy nhiên do chuẩn bị không chu đáo và do lực lượng của thực dân Pháp ở
đây còn quá mạnh nên việc đánh úp đã không thu được thắng lợi. Sự việc
không thành Tôn Thất Thuyết và những người đứng đầu phái chủ chiến đã
quyết định đưa vua Hàm Nghi cùng toàn bộ lực lượng có thể có được rời
kinh đơ Huế về Tân Sở (miền Tây Quảng Trị) một căn cứ kháng chiến đã
được phái chủ chiến chuẩn bị trước đó. Khi đến Tân Sở (Quảng Trị) Tôn
Thất Thuyết đã mượn lời Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương lần 1, ngày 13 /7/
1885. Tuy nhiên do thực dân Pháp truy lùng ráo riết nên chỉ sau một thời
gian ngắn Tôn Thất Thuyết phải đưa Hàm Nghi rời Tân Sở dự định ra Thanh
Hoá. Tháng 9 /1885 ra đến Sơn Phong Phú Gia ở chân núi Ấu Sơn thuộc
Hương Khê (Hà Tĩnh), Tôn Thất thuyết quyết định để vua Hàm Nghi ở lại
đây. Tại đây, một lần nữa ông lại mượn lời vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần
Vương lần thứ hai. Vào ngày 20/9/1885 trọng chiếu Cần Vương lần này Tôn
Thất Thuyết tiếp tục tố cáo thực dân Pháp, phản đối bọn quan lại đầu hàng
và kêu gọi văn thân sĩ phu, kêu gọi nhân dân các địa phương giúp vua Hàm
Nghi chống Pháp. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của Hàm Nghi các sĩ phu
yêu nước: Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Nguyễn Xn Ơn, Lê Dỗn Nhã,
Nguyễn Ngun Thành, Đinh Văn Chất, Cao Huy Tuân, Nguyễn Hành,
Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Nguyễn Cao Đơn, Nguyễn Hữu Chính,
Vương Thúc Mậu, Phan Bá Niên, Dương Quế Phổ, Đinh Nhật Tân, Trần
Quang Diệm, Nguyễn Ngọc Ngợi, Quản Báu, Đốc Thiết, Quản Bông,... đã
vùng dậy chiêu mộ nghĩa quân, dựng đồn, đắp luỹ đặt điếm rào làng,... để
đánh Pháp. Cả dải đất Hồng Lam từ Kỳ Anh đến Quỳnh Lưu, từ miền núi
đến miền xuôi, chỗ nào cũng hừng hực khí thế “Bình Tây phục quốc” của
những người dân có chí mạnh tâm hùng.


Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

23

Trong phong trào Cần Vương, khơng có sĩ phu nào dùng Tân Kỳ làm
căn cứ đầu tiên cho cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên toàn bộ vùng đất Tân Kỳ lại
nằm trong khu vực trung tâm của một cuộc khởi nghĩa rất lớn trong phong
trào Cần Vương, đó là một cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn, diễn ra
trong khoảng thời gian từ năm 1885 đến năm 1887. Nguyễn Xn Ơn q ở
Diễn Châu - Nghệ An ơng là một nhà nho cương trực, yêu nước thương dân.
Sau một thời gian làm quan cho triều Tự Đức, bất bình trước cảnh triều đình
nhà Nguyễn khơng quyết tâm chống Pháp, ông đã cáo quan về quê để mưu
toan việc lớn. Hưởng ứng chiếu Cần Vương mùa đông năm 1885 Nguyễn
Xn Ơn cùng những người bạn đồng hương của ơng như: Lê Doãn Nhạ,
Trần Quang Diệm,... đã giấy cờ khởi nghĩa. Với uy tín của mình Nguyễn
Xn Ơn nhanh chóng thu hút các lực lượng chống Pháp và sự tham gia
đông đảo cua nhân dân các vùng Diễn Châu, Yên Thành, Đô lương, Quỳnh
Lưu, Anh Sơn. Lúc này, đội quân chủ lực của Nguyễn Xuân Ôn đã lên tới
2000 người, đóng thành những khu vực ở phía Bắc và phía Tây Bắc Nghệ
An. Đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa đóng ở Đồng Thơng thuộc địa phận
xã Đơng Thành - Yên Thành. Ở Anh Sơn, chánh sứ sơn phòng Lê Doãn
Nhã dựa vào triền núi xây dựng căn cứ kháng chiến suốt một dải dọc bờ Bắc
sông Lam từ Anh Sơn đến Cửa Rào - Tương Dương. Nguyễn Nguyên Thành
cho xây dựng căn cứ ở miền Quỳ Châu nối liền căn cứ Lê Doãn Nhã tạo
thành hệ thống đồn luỹ án ngữ ở miền Tây Nghệ Tĩnh. Ở phía Nam huyện
Quỳnh Lưu là hệ thống đồn luỹ của Phan Bá Niên.

Qua hệ thống đồn luỹ và căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa, ta thấy Tân
Kỳ lúc bấy giờ không thuộc căn cứ địa của một tướng lĩnh chỉ huy nào mà
cùng một lúc chịu ảnh hưởng của nhiều tướng lĩnh. Bởi vì như chúng ta đã
tìm hiểu ở chương 1 “Tân Kỳ - Duyên cách địa lý hành chính” thì lúc này
Tân Kỳ chưa trở thành một đơn vị hành chính độc lập. Mặt khác địa hình

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

24

Tân Kỳ lại giáp với các huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh
Sơn, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, nên đã xảy ra hiện tượng đó.
Qua việc nghiên cứu cuộc khởi nghĩa Nguyễn Xn Ơn và tìm hiểu
những nguồn tư liệu ở các địa phương trên đất Tân Kỳ ta thấy, lúc này, nhân
dân các xã Hương Sơn, Phú Sơn, Nghĩa Hành, Tiên Kỳ,,... đứng dưới cờ của
Lê Doãn Nhã tại đồn Mực (Anh Sơn) hoặc cờ của qn Bơng tại Con Cng.
Ở bên phía Tây Bắc nhân dân các xã Nghĩa Đồng, Nghĩa Bình, Nghĩa Hợp,
Nghĩa Dũng,,... đứng dưới cờ của chủ tướng Nguyễn Xuân Ôn tại Đông
Thành - Yên Thành hoặc dưới cờ của Phan Bá Niên ở Quỳnh Lưu. Các dãy
núi, lèn giáp ranh giữa Yên Thành - Tân Kỳ, Quỳnh Lưu - Tân Kỳ hiện nay
như lèn Rùa, lèn Voi,,... thuộc dãy Bồ Bồ, lúc đó đều có căn cứ đóng quân
của nghĩa quân.
Sau một thời gian chuẩn bị về lực lượng, về căn cứ địa, từ giữa năm
1886, nghĩa quân bắt đầu mở những cuộc tấn công lớn, những trận đánh như
trận đồng Mờm, trận Phủ Lý - Diễn Châu, trận đồn Tràng Thành, trận Cồn
Voi (Minh Thành), trận Xóm Hố (Phúc Thành),,... Trong những trận đánh
này có sự đóng góp về sức người, sức của của nhân dân các huyện trong

phạm vị hoạt động của nghĩa quân, trong đó có Tân Kỳ. Tinh thần chiến đấu
kiên cường, dũng cảm của nghĩa quân cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của
nhân dân địa phương đã làm cho thực dân Pháp và bọn tay sai vô cùng hoảng
sợ. Chúng đã phải hao tốn rất nhiều sức lực cũng như của cải mới đàn áp
được phong trào đấu tranh của nghĩa quân.
Ngoài việc cùng nhân dân các huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu, Anh
Sơn, Diễn Châu,... đóng góp sức người, sức của, căn cứ địa cho việc duy trì
hoạt động của nghĩa qn Nguyễn Xn Ơn và tham gia vào các trận đánh
tấn công bọn Pháp xâm lược. Trong thời gian này, dưới ảnh hưởng của nghĩa
qn, nhân dân Tân Kỳ cịn tự mình đứng lên đấu tranh nhằm thoát khỏi ách

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


Khóa luận tốt nghiệp

25

kìm kẹp của thực dân Pháp và tay sai phong kiến ở đây. Phong trào tự vùng
lên đấu tranh này không được ghi chép trong một thứ sách vở, tài liệu lịch sử
nào, những theo nội dung các tài liệu còn tồn tại trong dân gian như: các bài
vè, các vở chèo, tuồng,... cho ta thấy được điều đó. Một số làng như Làng
Sen, làng Sẻ (xã Nghĩ Đồng), làng Dương Hạp, Đò Nguyên ( Nghĩa Dũng)
nay vẫn còn lưu giữ rất nhiều bài vè kể về thời kỳ này. Theo nội dung bài vè
“Làng Sen ta khi đó”, nhân dân ta thấy: “Tây kéo đến làng xuôi, đốt tất cả
mọi nơi, đốt Tường Lai, Thư Phủ, đốt Đót, Già, Sừng, Mo, đốt Lương, Thọ,
Giai, Cầu; cả bò lẫn trâu; cướp hàng hà sa số ”, ( những địa danh này đều ở
Diễn Châu và Yên Thành) cho nên:
Làng Sen ta khi đó
Ngồi than vắn thở dài

Biết nhờ cậy vô ai
Giáo Tây đang làm hại
Bàn đi bàn lại
Ông Lý Bát với thầy Chánh ra đi
Xuống quan lớn (Nghè Ôn) tâu quỳ
Xin quân lên một đạo
Được "quan ngài" đồng ý rồi, dân về:
Đắp thành đắp luỹ
Đắp luỹ trong luỹ ngoài
Chừa chỗ hỏa mai
Cứ năm thước một
Đã làm làm cho tốt
Đừng tưởng công lênh
Xây hai bức tường thành
Cũng gần một tháng

Nguyễn Quang Lợi - K40B Sử - Đại học Vinh


×