Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

SKKN một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 5 6 tuổi vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.91 KB, 39 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu
Chuẩn bị cho trẻ 5-6 tuổi vào lớp 1 là sự chuẩn bị cho trẻ toàn diện về các mặt
như thể lực, nhận thức, ngơn ngữ,tình cảm và các kỹ năng xã hội cần thiết trong hoạt
động học tập của trẻ. Chuẩn bị cho trẻ bằng những phương pháp phù hợp với sự phát
triển của trẻ cùng với sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường.
Vì sao phải chuẩn bị cho con vào lớp 1? Bởi vì việc học ở trường mầm non là “
học mà chơi, chơi mà học”. Học theo nghĩa là chơi theo một trình tự gần giống như
học. Nhưng khi bước chân vào cánh cổng trường tiểu học là các bé bước vào một môi
trường hồn tồn mới, với thầy cơ, bạn bè mới. Áp lực về bài học, điểm số khiến cho
trẻ khủng hoảng và bối rối.
Bên cạnh đó, thời kì 5-6 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển cái tôi cá nhân mạnh mẽ, sự
ích kỷ cũng khơng ngừng lớn hơn. Trẻ khó hòa đồng với bạn bè và dễ cáu gắt.
Với sự đòi hỏi của xã hội vào thế hệ tương lai và sự kỳ vọng của cha mẹ cũng trở
thành áp lực của con trẻ. Do vậy, nếu không chuẩn bị tốt về mặt thể chất, tinh thần, kỹ
năng sống cơ bản cho trẻ khi trẻ vào lớp 1 sẽ khiến cho con dần bị cơ lập, khó giao tiếp
với bạn bè. Khi đã chuẩn bị hành trang tốt cho trẻ vào lớp 1, sẽ giúp trẻ nhanh nhẹn,
hoạt bát và khả năng tiếp thu kiến thức tốt hơn. Được chuẩn bị tốt về mặt tâm lí, kỹ
năng, thể lực trẻ sẽ tự tin, chủ động giao tiếp với cô và bạn. Có các kỹ năng cần thiết
để thích ứng với các hoạt động học tập, sinh hoạt ở trường tiểu học.
Bản thân tơi là một giáo viên mầm non, có thâm niên hơn mười năm trong nghề và
cũng là phụ huynh từng có con đến tuổi vào lớp 1. Tơi nhận thấy ở một số giáo viên
trong quá trình giảng dạy chưa quan tâm đúng mức, đồng đều đến một số nội dung
quan trọng như: Thể lực, trí tuệ, tâm lý, kỹ năng cho trẻ.
Mặt khác, ở trẻ chưa có tính độc lập trong các hoạt động, cịn ỷ lại. Một số trẻ
chưa mạnh dạn, tự tin vào bản thân mình nên việc thực hiện các cơng việc tự phục vụ,
thực hiện yêu cầu của cô trong bài học đạt kết quả chưa cao. Cịn nhiều trẻ chưa có
1



hiểu biết về môi trường xung quanh, môi trường xã hội, bản thân, gia đình, kỹ năng vận
động cịn chậm chạp. Thậm chí có trẻ đến 5 tuổi mới đến trường.
Nơi tôi công tác là một trường mầm non thuộc ven thành phố. Phụ huynh nơi đây đa
số là những phụ huynh có tuổi đời cịn rất trẻ, có tư duy tiến bộ, đã có sự quan tâm đến
việc học của con. Tuy nhiên, hầu hết đều là công nhân trong các công ty ở các khu công
nghiệp trên địa bàn. Thời gian ca kíp thường đi sớm về khuya nên sự sát sao đến con còn
nhiều hạn chế về mặt thời gian. Là một giáo viên tôi thường xuyên chủ động giao tiếp,
trao đổi với phụ huynh qua các giờ đón trả trẻ và qua mạng internet, zalo, viber. Mỗi bậc
cha mẹ đều có những nỗi lo riêng cho con mình nhưng tập trung nhất vẫn là việc cho con
làm quen chữ viết, nhận mặt chữ. Vì sau năm học cuối cấp mầm non này các con sẽ bước
vào lớp 1. Trước những băn khoăn, lo lắng của phụ huynh tơi đã tiến hành rà sốt thì
nhận thấy rằng 75% số trẻ trong lớp được cha mẹ cho theo học các lớp luyện chữ, toán tư
duy sau giờ tan học ở trường. Chính sự kì vọng q ở trẻ và lo lắng con không theo kịp
bạn khi vào lớp 1 của phụ huynh đã vơ tình trở thành áp lực, trở ngại về mặt tâm lí của
trẻ. Chính từ những lí do và kết quả khảo sát trên đây, năm học 2019 -2020 này tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài và đưa ra “ Một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
vào lớp 1”.
2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 vào lớp 1.
3. Tác giả sáng kiến
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường mầm non Thanh Trù.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng trong các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường
và cơng tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 12 năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Cơ sở lý luận liên quan đến việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Sự chuyển tiếp khoa học giữa chương trình giáo dục Mầm non và chương trình giáo
dục Tiểu học đặt ra cho chúng những vấn đề cần quan tâm: Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một
2



là sự chuẩn bị nhằm đảm bảo tính liên tục, kế thừa sự phát triển. Sự phát triển của trẻ là
một quá trình thống nhất và liên tục qua nhiều giai đoạn. Nếu trẻ được phát triển tốt ở
giai đoạn trước cũng chính là sự chuẩn bị tốt cho giai đoạn tiếp theo. Đây cũng chính là
quan điểm chỉ đạo của ngành học Mầm Non nhằm đảm bảo sự chuyển giai đoạn giữa
Mầm non và Tiểu học nói chung, giáo dục trẻ 5 tuổi nói riêng cùng với giáo dục lớp một
trong giai đoạn hiện nay.
Việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi vào lớp một luôn luôn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà giáo dục học và tâm lý học trong nước cũng như trên thế giới.
Các tác giả đã dành nhiều thời gian nghiên cứu đặc điểm tâm lý và bước ngoặt của trẻ 6
tuổi như: Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết với tài liệu tổng hợp “ Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào
trường phổ thông” hay tác giả Vũ Thị Nho đã thể hiện quan điểm và cơng trình nghiên
cứu của mình trong “ Tâm lý học phát triển”, một số bài viết được dịch lược từ những
nghiên cứu của nước ngồi in trên tạp chí giáo dục như: Thạc sỹ Bùi Thị Việt với “
Chuẩn bị thể lực cho trẻ vào lớp 1”, thạc sỹ Lê Thị Thanh Nga với “ Đổi mới việc chuẩn
bị cho trẻ vào phổ thông”.
Trong nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã nêu rõ “ Cố gắng làm cho
các cháu sớm bộc lộ những mầm mống năng khiếu và phát triển tiềm lực trí tuệ, chuẩn bị
tốt cho việc học tập văn hóa ở trường phổ thơng sau này” ( Phạm Minh Hạc – Giáo dục
con người hôm nay và ngày mai. Tạp chí giáo dục 1995). Như vậy cơng tác chăm sóc,
giáo dục trẻ ở Trường mầm non – Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có một vai trị, tầm quan
trọng đặc biệt, có ý nghĩa lớn trong giai đoạn hiện nay khi “ Thế giới trong nền văn minh
mới là thế giới của sự biến đổi cực kỳ nhanh, với sự phát triển vũ bão về khoa học – Kỹ
thuật – Công nghệ” và xã hội đang dần tiến tới “ Xã hội học tập, mọi người đều đi học,
học thường xuyên, học suốt đời”. Nếu không chuẩn bị cho trẻ tốt ngay tư bậc học Mầm
non thì trẻ sẽ khơng có khả năng cũng như sự thích ứng với mơi trường học tập ở Trường
phổ thơng. Vì thế mà việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một hết sức đặc biệt và ý nghĩa, đóng
một vai trị rất quan trọng giúp trẻ có đủ tự tin, điều kiện để làm quen dần với các hoạt
động học tập, cuộc sống cũng như chế độ sinh hoạt ở Trường tiểu học.
3



7. 2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng của lớp
Qua nhiều năm phụ trách lớp 5 tuổi tôi nhận thấy rằng trẻ ở lứa tuổi này rất thích “
đọc” sách, học chữ…nhưng việc nhận mặt chữ, mặt số trên sách báo của trẻ còn nhiều
hạn chế. Trẻ hay đọc theo qn tính, bắt chước học vẹt, nhiều trẻ nói ngọng không rõ từ.
Năm học 2019 – 2020 này tôi được giao nhiệm vụ phụ trách lớp 5TA với tổng số trẻ là 40
trẻ. Đa số trẻ trong lớp nhanh nhẹn có sức khỏe tốt để tham gia vào các hoạt động của
lớp, tuy nhiên còn một số trẻ thể lực yếu, khả năng thực hiện các bài tập vận động còn
hạn chế. Một số trẻ đến 5 tuổi mới ra lớp nên khả năng nhận thức của trẻ trong lớp chưa
đồng đều. Trẻ chưa biết cách sử dụng vốn từ mình có để diễn đạt suy nghĩ của mình một
cách rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. Nhiều trẻ còn sử dụng tiếng địa phương, phát âm chưa
chuẩn tiếng việt dẫn đến việc trẻ thiếu tự tin khi đứng trước lớp đọc bài hay biểu diễn một
tác phẩm âm nhạc. Khi trẻ đến lớp được các cơ dạy bảo thì những thói quen, nề nếp ở lớp
dần được hình thành nhưng vì một số trẻ mới đến lớp nên cịn khóc nhè, chưa hịa đồng
cùng chơi với bạn. Các kỹ năng tự phục vụ bản thân của trẻ còn nhiều hạn chế, thậm chí
có trẻ cịn chưa tự cởi và mặc áo, ăn cơm không tự xúc cơm. Trẻ trong lớp rất hứng thú
tham gia vào các hoạt động của lớp, thích được giúp đỡ bạn, giúp đỡ cơ khi chuẩn bị đồ
dùng cho bài học.
+ Thuận lợi: Lớp đã được trang bị đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học như máy tính,
loa, máy chiếu, …phù hợp với trẻ. Các cơ giáo ở lớp có trình độ trên chuẩn, yêu nghề,
yêu trẻ tâm huyết với ngành học. Ban giám hiệu đã sát xao tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tập huấn bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn nghiệp vụ. Đồng nghiệp thường
xuyên trao đổi kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ qua sách báo và kinh nghiệm của trường
bạn.
+ Khó khăn: Qua thời gian cơng tác tôi đã nắm bắt được những nhu cầu và hạn chế
của trẻ trong các lĩnh vực phát triển như sau:
Trẻ ở lứa tuổi này còn hiếu động, đa số mải chơi chưa tập trung chú ý trong các giờ
hoạt động.


4


Trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin khi cô mời lên bảng đọc thơ, kể chuyện hay biểu
diễn một tác phẩm âm nhạc.
Cơ sở vật chất đã được trang bị nhưng chưa thực sự đầy đủ.
Bản thân tôi không phải là người địa phương nên cũng gặp khơng ít khó khăn
trong cơng tác.
Thực trạng của việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 ở trường: Thực tế ở trường hiện
nay, việc chuẩn bị cho trẻ 5 – 6 tuổi vào lớp 1 chưa được quan tâm, chú trọng một cách
đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
Đầu năm học 2019 – 2020 tôi đã tiến hành khảo sát trẻ vào đầu tháng 9/2019 và kết
quả thu được như sau:
Tổng số trẻ của lớp 5TA là 40 trẻ trong đó nữ là 17 trẻ, dân tộc thiểu số: 0, trẻ khuyết
tật: 0 trẻ
STT

Tiêu chí

Đạt
Số trẻ

Chưa đạt
Tỷ lệ %

Số trẻ

Tỷ lệ %

1

2

Sức khỏe của trẻ
38/40
Trẻ có kỹ năng sử dụng ngơn 22/40

95
55

2/40
18/40

5
45

3

ngữ rõ ràng mạch lạc
Khả năng thích ứng với mơi 24/40

60

16/40

40

4

trường học tập của trẻ
Khả năng thực hiện các bài tập 25/40


62,5

15/40

37,5

5

vận động
Khả năng nhận thức của trẻ về 26/40

65

14/40

35

chữ cái và chữ số
Từ những hạn chế và kết quả khảo sát trên đây tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp sau nhằm tháo gỡ những khó khăn khi chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
7.3. Một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi vào lớp 1.
7.3.1. Biện pháp thứ nhất: Chuẩn bị thể lực cho trẻ
Chuẩn bị về mặt thể lực cho trẻ là chuẩn bị cả về chất và lượng chứ không đơn thuần
là chỉ phát triển về chiều cao, cân nặng mà quên đi mặt quan trọng là năng lực làm việc
5


bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp độ khéo léo của
bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác quan. Chuẩn bị cho trẻ một thể lực tốt có một ý

nghĩa quan trọng bởi trẻ đang ở những năm đầu của sự phát triển, định hình tính cách
thậm chí là suy nghĩ của trẻ sau này. Nên việc cho trẻ tiếp cận với những mơn thể thao
như bóng đá, cầu lơng…nhẹ nhàng, vừa sức sẽ rèn luyện cho trẻ nhiều đức tính tốt đẹp
đặc biệt là thói quen rèn luyện thể dục thể thao, giúp trẻ phát triển về thể lực là tiền đề để
trẻ phát triển về trí lực. Bởi khi có một sức khỏe tốt thì trẻ mới có thể học tập tốt được.
Khoa học và thực tiễn cũng đã cho thấy việc tập luyện thể dục thể thao cũng là cách tốt
nhất để nâng cao thể lực, phòng ngừa bệnh tật, phát triển các tố chất vận động cho trẻ một
cách tốt nhất và ít tốn kém nhất. Thơng qua các bài tập trong chương trình lĩnh vực phát
triển thể chất cho trẻ mầm non, mỗi bài tập đòi hỏi một nỗ lực cao của trẻ khác nhau. Từ
đó hình thành và giáo dục cho trẻ những phẩm chất đạo đức, nhân cách của con người
một cách tự nhiên như: Tính kỷ luật, ý chí, tính kiên trì, sự tự tin, tinh thần tập thể, ý thức
đồng đội… Cần tạo cho trẻ một mơi trường hoạt động tích cực, thoải mái và có cảm giác
an tồn, tự tin.
Thực hiện đầy đủ các nội dung, tổ chức hoạt động giáo dục dinh dưỡng sức khỏe
và vận động cho trẻ, phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về vận động để có biện pháp
thích hợp giúp đỡ trẻ.
Để trẻ có được năng lực bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần
kinh, cơ bắp, sự nhanh nhạy, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp cịi xuống mức thấp nhất có
thể thì chế độ sinh hoạt ở trường của trẻ cần được xây dựng một cách hợp lý cả về thời
gian cũng như đặc điểm phát triển riêng của lứa tuổi, của trẻ. Trong giờ ăn, cơ giới thiệu
cho trẻ các chất dinh dưỡng có trong món ăn, ích lợi đối với cơ thể. Dạy trẻ thói quen
văn hóa vệ sinh trong sinh hoạt và thói quen giữ gìn sức khỏe như: Khơng nói chuyện khi
đang nhai, ăn cơm, không đùa nghịch khi ăn, ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, không ăn
quà vặt không đảm bảo vệ sinh, phải ăn chín uống chín, rửa tay thường xuyên bằng xà
phòng dưới vòi nước sạch. Dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ khơng an tồn và cách
phịng tránh như: Khơng đến gần nơi nguy hiểm ao, hồ, hố sâu, không trèo cây, tường
6


rào, khơng tiếp xúc với người lạ…Khi trẻ có vấn đề về sức khỏe hay có điều bất ngờ gặp

điều nguy hiểm với bản thân hãy kêu lên và nói với người lớn, người thân tin cậy để được
giúp đỡ. Tạo một khơng khí và trạng thái hoạt động vui vẻ, chuẩn bị đồ dùng học liệu hấp
dẫn, sinh động trong hoạt động giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cho trẻ. Giáo dục trẻ ý
nghĩa và tác dụng của giấc ngủ trưa với sức khỏe con người, thời gian ngủ của trẻ cũng
được cân đối phù hợp với chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường. Giấc ngủ đến với trẻ một
cách từ từ và dễ dàng hơn với những bản nhạc nhẹ nhàng, du dương, cho trẻ dậy dần sau
khi trẻ tỉnh giấc tránh để trẻ mệt mỏi sau giấc ngủ trưa.
Các bài tập vận động được thiết kế và tổ chức một cách hợp lý, vừa sức với trẻ, tạo
sự thoải mái, tự tin kích thích trẻ sẵn sàng vận động. Các trò chơi vận động nhẹ nhàng
cũng được lựa chọn lồng ghép vào bài học nhằm phát triển tối đa thể lực cho trẻ. Kết hợp
với phụ huynh để đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng, sức khỏe và vận động gắn liền với
cuộc sống của trẻ trong gia đình và cộng đồng.
Việc chuẩn bị cho trẻ một thể lực tốt là điều vô cùng quan trọng bởi trẻ đang ở trong
giai đoạn phát triển nhanh, cơ thể mềm dẻo. Tuy nhiên, sức đề kháng của trẻ còn yếu, các
cơ quan nội tạng chưa được phát triển hoàn chỉnh, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh như
hiện nay. Như chúng ta đã biết năm học 2019 -2020 là một năm học đáng nhớ với mỗi
chúng ta. Khi dịch bệnh covid – 19 hoành hành toàn cầu, Việt Nam ta không là nước
ngoại lệ nên kỳ nghỉ phòng dịch của trẻ kéo dài. Vậy làm thế nào để có thể đảm bảo về
thể lực cho trẻ? Câu hỏi đó cứ ám ảnh trong tơi và ngay từ những ngày bắt đầu kỳ nghỉ
tôi đã xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động phụ huynh thông mạng internet, zalo
của nhóm lớp. Trước hết là tuyên truyền tới phụ huynh về sự nguy hiểm của dịch bệnh
SARS – COV- 2 theo thông tin khuyến cáo của bộ y tế. Thứ hai, tuyên truyền và vận
động phụ huynh quan tâm và xây dựng một chế độ sinh hoạt ăn uống, nghỉ ngơi, luyện
tập cho trẻ một cách khoa học, hợp lý cả về thời gian cũng như phù hợp với đặc điểm
phát triển riêng của lứa tuổi. Tôi đã đưa ra một vài gợi ý về chế độ sinh hoạt cho trẻ để
phụ huynh tham khảo như: Sau khi trẻ thức dậy (khoảng từ 6h30 phút đến 7h00 phút), trẻ
tự vệ sinh cá nhân, đánh răng, rửa mặt, đi vệ sinh, rửa tay với xà phòng hoặc dung dịch
7



có cồn. Sau đó trẻ ăn sáng, nghỉ ngơi ( khoảng từ 7h00 phút đến 7h 45 phút) cho trẻ tập
thể dục sáng cùng các cô giáo trong trường qua video bài tập “ Chú voi con ở Bản Đôn”
trên face book của nhà trường hay qua zalo mà tôi đã chia sẻ. Sau khi trẻ tập xong bài tập
cha mẹ cho trẻ học cùng cô qua video hay trên các kênh truyền hình. Trẻ chơi các trị chơi
dân gian trẻ biết hay chơi với đồ chơi sẵn có ở gia đình, khi trẻ chơi xong cho trẻ dọn đồ
dùng đồ chơi và rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước. Trẻ ăn trưa và ngủ trưa ( khoảng
từ 10h30 phút đến 14h00 phút), sau khi trẻ dậy cho trẻ đi vệ sinh, ăn nhẹ, vui chơi, hay
học những chương trình bổ ích trên truyền hình, cho trẻ uống nước ấm thường xuyên và
theo nhu cầu.
7.3.2. Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị về mặt trí tuệ cho trẻ
Theo Phó giáo sư, tiến sỹ tâm lý Huỳnh Văn Sơn thì trí tuệ là những gì cho phép ta
thích ứng được với hồn cảnh bao gồm trí tuệ học đường và trí tuệ thực tiễn. Trí tuệ học
đường là khả năng được đánh giá bởi khả năng thực hiện những nhiệm vụ thông thường ở
trường học hoặc trong các trắc nghiệm đã được chuẩn hóa với trí tuệ thực tiễn. Trí tuệ
thực tiễn là khả năng trí tuệ được phản ánh trong sự thực hiện thành cơng trong hồn cảnh
tự nhiên, trong cuộc sống thường ngày và ngồi trường học. Trẻ có chỉ số trí tuệ học
đường cao chưa có nghĩa là chỉ số trí tuệ thực tiễn cao và ngược lại. Vì vậy, cần phải
chuẩn bị trí tuệ cho trẻ là giúp trẻ, hình thành cho trẻ các kỹ năng thao tác tư duy cho trẻ.
Chuẩn bị về mặt trí tuệ cho trẻ là cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết nhất định về thế giới
xung quanh trẻ, về môi trường xã hội, mối quan hệ giữa người với người, các biểu hiện
về thời gian, khơng gian, đồng thời có kỹ năng hoạt động trí óc như so sánh, phân tích,
tổng hợp… Năng lực trí tuệ cần hình thành cho trẻ chuẩn bị vào lớp một là năng lực nhận
thức, ghi nhớ - nhớ nhận lại, ngôn ngữ, tư duy, những hiện tượng diễn ra trong cuộc sống
hàng ngày. Cung cấp lượng kiến thức dồi dào cho trẻ và cung cấp kiến thức này cho trẻ ở
mọi lúc mọi nơi trong mọi hoạt động. Nêu gương người tốt, việc tốt qua những câu
chuyện kể hay những gương tốt trong cuộc sống gần gũi với trẻ mà trẻ biết và có thể kể
lại với cô và bạn.

8



Phát triển ngôn ngữ cho trẻ: Đây là một nhiệm vụ cơ bản, trẻ ở vùng nông thôn hay
vùng ven đô thị thường sử dụng ngôn ngữ của địa phương hay phát âm ngọng những phụ
âm như l, n , r, d hay vần uên và uyên…Để giao lưu được với mọi người, lĩnh hội được
nền văn hóa của dân tộc thì việc sử dụng thành thạo ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ là điều quan
trọng nhất. Chính vì vậy mà trong các giờ học tập như kể chuyện, đọc thơ, làm quen với
chữ cái, hay trò chơi với chữ cái, trị chuyện cùng trẻ, tơi ln phát âm đúng tiếng việt và
dùng ngữ điệu đúng để trẻ cảm nhận và bắt chước. Tập luyện phát âm cho trẻ những từ
mà trẻ hay ngọng ở mọi lúc mọi nơi trong học tập và trong mọi hoạt động. Rèn cho trẻ sử
dụng ngữ điệu đúng phù hợp với trạng thái, hoàn cảnh, biết lắng nghe, biết thể hiện suy
nghĩ, tình cảm của mình bằng lời nói một cách rõ ràng, đủ thành phần chủ ngữ, vị ngữ và
dễ hiểu.
Việc nhận thức về chữ cái có liên quan mật thiết với văn học, q tình phát triển
tồn diện của trẻ, thơng qua chữ cái giúp trẻ sớm hình thành khả năng tìm tịi, quan sát,
khám phá, nhận biết, phân tích chính xác chữ cái đã học. Trên cơ sở đó bổ sung thêm vốn
ngơn ngữ góp phần tích cực đến sự phát triển trí lực cho trẻ. Để dạy trẻ nhận biết và phát
âm đúng 29 chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt thì người giáo viên phải phát âm đúng
chuẩn, chính xác chữ cái, gần gũi và giúp trẻ sửa ngọng, phát âm sai. Sử dụng các hình
ảnh, trị chơi, bài thơ để luyện phát âm cho trẻ một cách sinh động và cuốn hút. Ví dụ như
trong chủ đề “Gia đình” cho trẻ làm quen nhóm chữ “ a, ă, â” tơi đã giới thiệu với trẻ về
gia đình mình, sử dụng hình ảnh về gia đình có những từ chứa chữ a, ă hay â. Cô ghép
chữ bằng thẻ chữ rời, phát âm chuẩn xác chữ cái cho trẻ làm quen, cho trẻ phát âm chữ
cái, cô sửa sai cho trẻ ( nếu có), Cơ phân tích cấu tạo chữ và cho trẻ nhắc lại. Cho trẻ chơi
trò chơi tìm chữ qua bài thơ có chứa chữ cái mà trẻ vừa được làm quen, tìm nét cịn thiếu
cho chữ, hay cô viết tên trẻ trong lớp lên bảng, đọc tên trẻ lên và cho trẻ tìm xem tên bạn
nào có chứa chữ cái mà cơ vừa cho trẻ làm quen.
Phát triển tư duy ở trẻ: Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ánh Tuyết và những cộng sự
thì đặc điểm tư duy ở trẻ mẫu giáo lớn xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới và
những yếu tố của tư duy logic. Khơng có khả năng tư duy thì trẻ không thể lĩnh hội được
9



những kiến thức xã hội. Ngay trong hoạt động vui chơi, tư duy giúp trẻ giải quyết những
tình huống xảy ra khi chơi làm nảy sinh nhiều sáng kiến. Ví dụ như khi chơi trò chơi bác
sỹ trẻ thực hiện được thao tác, mô phỏng được mối quan hệ giữa bác sỹ với bệnh nhân.
Biết cầm ống nghe đưa vào tai và đặt ống nghe lên người bệnh.
Sự phát triển tư duy trực quan hình tượng là việc giải quyết một nhiệm vụ trên bình
diện hình ảnh trực quan sinh động. Đây là một loại tư duy đặc biệt chỉ có ở người và nhất
là trẻ nhỏ. Để phát triển tư duy trực quan hình tượng nói riêng và tư duy của trẻ nói chung
thì mỗi hoạt động nhất là khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học hay khám phá xã hội.
Các cơ giáo mầm non ln tìm tòi làm những đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu tự nhiên
hay vật liệu phế thải sinh động, hấp dẫn phù hợp với trẻ hay sử dụng những vật thật dễ
kiếm, dễ tìm để trẻ được khám phá, tri giác về sự vật. Ví dụ như cho trẻ khám phá một số
con vật sống dưới nước gần gũi sẵn có ở địa phương cá, cua, tơm, ốc…tơi thường sử
dụng con vật thật. Khi sử dụng con vật thật trẻ được quan sát, sờ, nắm, tác động vào đối
tượng từ đó trẻ được tri giác về đối tượng một cách cẩn thận, hứng thú. Chính vì vậy mà
việc cung cấp những biểu tượng đa dạng, phong phú xung quanh trẻ là việc rất cần thiết,
đồng thời rèn luyện ở trẻ tính linh hoạt, tính khái qt, so sánh, phán đốn của tư duy.
Thiết kế các tình huống chơi thơng qua các hoạt động để trẻ khám phá, tự tìm cách giải
quyết vấn đề; Sử dụng các nguyên vật liệu mở, nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương để
làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, giúp trẻ học tập, khám phá và trải nghiệm. Tổ chức nhiều
các hoạt động thực hành, trải nghiệm cho trẻ được khám phá và rèn luyện các kỹ năng. Ví
dụ như khi tổ chức khám phá khoa học tơi đã chia lớp thành những nhóm nhỏ, mỗi nhóm
có một nhóm trưởng, cho trẻ được quan sát, thảo luận về đối tượng và nhóm trưởng lên
trình bày ý kiến của nhóm. Hay khi cho trẻ củng cố lại chữ cái đã học hay chữ số tôi sử
dụng các hột hạt sưu tầm được cho trẻ xếp chữ, xếp số.
Phát triển thẩm mỹ ở trẻ: Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là một trong những nội dung
nhằm phát triển tồn diện cho trẻ. Thơng qua các buổi tham quan, dạo chơi tôi đã mang
đến cho trẻ những cái nhìn về vẻ đẹp của thiên nhiên, kích thích trí tưởng tượng của trẻ
để trẻ bộc lộ năng khiếu nghệ thuật của mình. Tơi thường trị chuyện với trẻ về cuộc sống

10


tươi đẹp xung quanh trẻ, đọc thơ, kể chuyện, thông qua đó giáo dục trẻ biết yêu thiên
nhiên, yêu cái đẹp và ý thức bảo vệ môi trường.
Qua các tác phẩm văn học như những bài thơ, bài ca dao, đồng dao, hay những câu
chuyện cổ tích hay mà tơi thường kể cho trẻ như; Tích chu, Sọ dừa…Những hình tượng
đẹp của nhân vật đã khiến cho trẻ nảy sinh những cảm xúc lớn lao, muốn học tập theo
những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Từ đó hình thành cho trẻ tình yêu với văn học,
biết giữ gìn sách vở, ham đọc sách.
Văn học mang vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của con người đến với trẻ thì âm nhạc
lại chính là ngơn ngữ tình cảm của con người. Tôi dạy trẻ biết lắng nghe ( cho trẻ nghe
qua loa, đài, ghi âm) những âm điệu của thiên nhiên, của cuộc sống xung quanh trẻ như:
Tiếng máy nổ, tiếng con vật kêu ( cho trẻ giả tiếng kêu của con vật qua những trò chơi
vui nhộn) hay tiếng mưa cũng làm thức tỉnh và dẫn trẻ đến với thế giới âm nhạc.
Hội họa cũng mang lại cái nhìn, sự khám phá mới mẻ cho trẻ thơ. Ngắm nhìn một
bức tranh đẹp cũng khiến cho trẻ thích thú và muốn được vẽ tranh, cắt hay xé dán. Ngoài
những bài học ở trường mà cơ dạy thì mơi trường sống lành mạnh, thể hiện được những
nét đẹp văn hóa tinh thần giữa mối quan hệ tốt đẹp của người thân trong gia đình, cử chỉ,
lời nói hay mà trẻ nhìn thấy và cảm nhận được. Tất cả những điều đó là nguồn gốc tạo
nên cái đẹp, làm phong phú thêm đời sống tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ và nó có
tác động mạnh mẽ nhất đến việc hình thành nhân cách của trẻ. Ví dụ như cho trẻ “ vẽ
vườn hoa” tơi đã hướng dẫn trẻ ngắm nhìn, quan sát vườn hoa của trường, sau đó cho trẻ
quan sát tranh mẫu của cô, hướng dẫn trẻ chọn màu, vẽ nét, bố cục bức tranh. Trẻ có thể
vẽ thêm những chi tiết sáng tạo theo trí tưởng tượng của trẻ. Hay cho trẻ “ Nặn sản phẩm
của nghề nông” cô giới thiệu một số sản phẩm nghề nông, cho trẻ kể tên những sản phẩm
mà trẻ biết, cho trẻ quan sát vật thật hay mẫu nặn của cô, hướng dẫn trẻ chia đất, làm
mềm đất. Cho trẻ tự nặn theo trí tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ. Dạy trẻ biết giữ gìn
sản phẩm tạo hình của mình và của bạn.
Phát triển khả năng định hướng trong không gian và thời gian cho trẻ: Thực tế cho

thấy việc dạy trẻ định hướng không gian như trên – dưới, trước – sau, trái – phải là rất
11


khó hình thành và ghi nhớ. Vì vậy trong q trình tổ chức các hoạt động, tơi thường
xun cho trẻ sử dụng tay phải, tay trái. Định hướng được vị trí của một vật khi có một
vật làm chuẩn, rèn luyện cho trẻ qua các trị chơi: Cái gì biến mất, hái quả, thu hoạch củ,
chuyền bóng…Nội dung rèn luyện được tăng dần theo mức độ từ dễ đến khó. Hình thức
được thay đổi linh hoạt tạo được hứng thú tham gia học tập, rèn luyện cho trẻ. Với các
biểu tượng định hướng về thời gian cần dạy trẻ nhận biết các thời điểm trong ngày sáng,
trưa, chiều, tối, nhận biết các thứ trong một tuần, các mùa trong năm. Dạy trẻ xem đồng
hồ, ước lượng gần đúng khoảng thời gian một cách đơn giản.
Phát triển khả năng nhận biết và định hướng giới ở trẻ: Hiện nay với nhiều vấn nạn
của xã hội liên quan đến lạm dụng, xâm hại tình dục trẻ em thì giáo dục giới tính cho trẻ
là một nội dung vô cùng cần thiết. Chúng ta phải cung cấp cho trẻ cách nhận biết bản
thân là trai hay gái. Nhận biết và phân biệt các hành vi khơng phù hợp với cơ thể mình,
biết cách bảo vệ an tồn cho chính trẻ. Sự bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại trong nhận
thức của người dân, vơ tình tạo ra sự phân biệt đối xử với trẻ trong gia đình. Chính vì vậy
nên việc giáo dục giới tính cho trẻ là rất quan trọng, nội dung này được lồng ghép trong
các hoạt động và nội dung học cho trẻ. Ví dụ trong giờ chơi ở các góc thì giáo viên nên
khuyến khích bé trai chơi ở góc phân vai, đóng vai bác cấp dưỡng hay y tá…hay trong
hoạt động lao động thì bạn trai hay bạn gái cũng phải thực hiện những công việc như
nhau, có sự hỗ trợ giúp đỡ nhau cùng hồn thành cơng việc cơ giao. Nội dung giáo dục
giới tính cho trẻ mầm non phải phù hợp, tạo điều kiện cho trẻ được thể hiện bản thân và
trải nghiệm các tình huống liên quan đến các kỹ năng tự bảo vệ qua các hoạt động trong
ngày của trẻ ở trường mầm non. Tích hợp các nội dung giáo dục giới tính một cách tự
nhiên và tận dụng các cơ hội để giáo dục trẻ, phối hợp với gia đình trẻ trong việc thực
hiện các nội dung giáo dục giới tính cho trẻ.
7.3.3. Biện pháp thứ ba: Hình thành các kỹ năng sống cần thiết cho trẻ
Kỹ năng tự phục vụ bản thân: Trẻ em hiện nay đa số được sống trong sự bao bọc của

cha mẹ và người thân nên tình trạng trẻ thụ động, khơng biết ứng phó với nguy cấp,
không biết tự bảo vệ bản thân trước những nguy hiểm, luôn ỷ lại vào người lớn. Trẻ chưa
12


có nhiều kỹ năng trong giao tiếp ứng xử, thậm chí là chưa biết làm một số cơng việc tự
phục vụ bản thân. Điều này là khá phổ biến trong xã hội hiện nay, phải chăng cách nuôi
dưỡng bảo vệ, bao bọc như vậy đã thực sự tốt cho trẻ. Thậm chí nhiều trẻ năm tuổi,
những ngày đầu đến lớp cịn địi mẹ bế, khóc nhè, khơng tự xúc cơm chờ người lớn xúc
cho mới ăn. Chính vì vậy mà đối với bản thân mỗi trẻ cần có một kỹ năng tự phục vụ để
trẻ tự tin vững bước vào cánh cổng của Trường tiểu học. Nếu các con không có kỹ năng
tự phục vụ bản thân thì các con không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống. Để làm
được điều này thì khơng chỉ có các cơ giáo mầm non mà cả cha mẹ trẻ cũng cần phải có
kiến thức thực tế ngồi đời và kỹ năng tự chăm sóc bản thân phù hợp với lứa tuổi. Khi
đến trường cũng như ở nhà cần rèn cho trẻ thói quen lấy cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Trong những ngày cả nước chung tay phòng chống đại dịch covid – 19 thì cần duy trì cho
trẻ thói quen và kỹ năng rửa tay bằng xà phòng, nước rửa tay đúng cách mà cô giáo đã
dạy. Phối kết hợp với phụ huynh qua zalo nhóm lớp để nhấn mạnh và chỉnh sửa một số
kỹ năng tự phục vụ bản thân mà trước đó trẻ chưa thực hiện đúng cách. Dạy trẻ và duy trì
cho trẻ những thói quen theo khuyến cáo của bộ y tế như: Ho và hắt hơi vào khuỷu tay
thay vì bàn tay, đặc biệt là nơi cơng cộng. Việc này giúp trẻ có cảm giác kiểm sốt cơ thể
mình và khiến con cảm thấy ở ngồi kia có những điều đáng sợ đang xảy ra, nhưng có
những việc đơn giản mình có thể làm để kiểm sốt chúng. Dạy trẻ và giải thích cho trẻ
việc cần thiết phải rửa tay ngay sau khi đi vệ sinh và từ nơi công cộng về nhà. Hướng dẫn
trẻ cùng thực hiện việc vệ sinh nhà cửa cũng như giữ gìn vệ sinh nơi mình ở và nơi cơng
cộng để bảo vệ sức khỏe. Dạy trẻ đeo khẩu trang đúng cách cũng như bỏ khẩu trang đúng
nơi sau khi sử dụng. Dạy trẻ cách uống nước, tự đi dép, mặc áo, tự sắp xếp đồ dùng cá
nhân… và quan trọng hơn là việc dạy trẻ tầm quan trọng của việc ở nhà khi bị bệnh hay ở
nhà để phòng dịch. Khi trẻ bị bệnh dù là cúm thông thường, hay vẫn cịn khả năng lây
nhiễm bệnh thì việc hạn chế tiếp xúc với mọi người là điều rất cần thiết để tránh lây lan

cho người khác trong khi mình bị bệnh. Thời điểm này chính là cơ hội tốt để dạy trẻ biết
tự phục vụ bản thân, tự bảo vệ sức khỏe cho mình. Việc này sẽ giúp trẻ ý thức được trách
nhiệm bảo vệ sức khỏe của bản thân và cộng đồng, không những trong mùa dịch này mà
13


còn trong cuộc sống sau này của trẻ. Mặc dù những kỹ năng tự phục vụ bản thân này khá
đơn giản và trong nếp sinh hoạt hàng ngày chưa chắc chúng ta đã chú trọng để hướng dẫn
trẻ làm đúng cách. Tuy nhiên những kỹ năng đó lại có vai trị rất quan trọng khơng những
chỉ trong mùa dịch này mà cịn trong cả q trình sống của trẻ ở gia đình, tập thể và cộng
đồng.
Kỹ năng học tập: Để trẻ có một kỹ năng giao tiếp tốt, thích nghi với mơi trường học
tập ở Trường tiểu học thì việc chuẩn bị cho trẻ kỹ năng học tập là vô cùng cần thiết.
Chúng ta cần tạo cho trẻ có một thói quen ngồi học ngay ngắn, đúng tư thế. Ở gia đình
phụ huynh cần sắm cho con bộ bàn ghế đúng kích thước phù hợp với chiều cao của trẻ.
Tập cho trẻ ngồi thẳng lưng, để sách vở trước mặt ngay ngắn không cúi đầu sát với sách
vở khi đọc sách ( đọc qua hình ảnh minh họa) hay tơ màu. Thường xun, tập cho trẻ thói
quen kiên trì tham gia các hoạt động trong khoảng thời gian dài từ 30 – 45 phút, rèn cho
trẻ có tính kỷ luật và các quy định trong giờ học, sử dụng đồ dùng học tập đúng cách như
cách giở sách, cách cầm bút, cách sử dụng thước kẻ…gữ gìn đồ dùng học tập.
Kỹ năng giao tiếp: Giao tiếp là một trong những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống
của mỗi trẻ, vì vậy cần phải dạy cho trẻ biết bày tỏ suy nghĩ của mình cho người khác
hiểu khi cần thiết. Cơ giáo hay cha mẹ, những người sống cùng trẻ luôn làm gương tốt
trước trẻ, từ những lời ăn tiếng nói hay, lịch sự để trẻ học theo. Khi trẻ thoải mái bày tỏ ý
kiến của mình thì trẻ sẽ dễ dàng học tập và tiếp thu những ý kiến mới. Trong các giờ hoạt
động tơi thường tạo ra các tình huống để trẻ có cơ hội thực hành kỹ năng giao tiếp. Ví dụ
trong giờ hoạt động chơi ở các góc, tơi đóng vai một vị khách đến tham quan một số góc
như góc phân vai chẳng hạn. Khi có khách đến nhà trẻ sẽ bộc lộ được kỹ năng giao tiếp
của mình như chào hỏi, mời khách ngồi, rót nước mời khách, trị chuyện cùng khách,
chào tạm biệt…Những tình huống xảy ra trong lớp học cô cũng tận dụng để dạy trẻ biết

nói cảm ơn hay xin lỗi đúng lúc.
Kỹ năng hợp tác: Trong các hoạt động, học tập, lao động ở trường tơi ln chia lớp
thành các nhóm, mỗi nhóm có một nhóm trưởng, giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng nhóm,
để trẻ trong mỗi nhóm được tương tác với nhau, chia sẻ, đoàn kết cùng nhau hoàn thành
14


nhiệm vụ cơ giao. Ví dụ như cho trẻ chơi trò chơi dân gian “ Đua thuyền” chia làm các
đội chơi, các thành viên trong đội phải đoàn kết cùng nhau thực hiện mới đưa đoàn
thuyền về bến. Hay khi cho trẻ giải các câu đố tôi tổ chức thành một trị chơi “ Rung
chng vàng” chia lớp thành các đội chơi, thành viên trong các đội đều phải suy nghĩ,
tương tác, thảo luận cùng nhau để đưa ra câu trả lời cho đội. Trong môi trường học tập ở
trường hay trong cuộc sống thường ngày của trẻ thì việc hợp tác với người khác là rất cần
thiết. Qua những tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc… Cần dạy trẻ biết hợp tác với
bạn, có sự hợp tác cơng việc mới thành cơng từ đó hình thành tinh thần đồn kết, hịa
đồng, chia sẻ với bạn của trẻ.
7.3.4. Biện pháp thứ tư: Chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ
Ở lứa tuổi này việc học của trẻ vẫn là “ học mà chơi, chơi mà học”. Nội dung học
vừa nhẹ nhàng, vừa hấp dẫn trẻ bởi những đồ dùng trực quan sinh động trong tiết học,
hay những trò chơi học tập, trò chơi dân gian nhằm tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái,
thích thú và tích cực tham gia vào hoạt động. Trong giai đoạn này thì việc học kiến thức
dường như chưa quan trọng bằng việc chuẩn bị nền tảng cần thiết để con bước vào cuộc
sống của người học sinh. Củng cố và bồi dưỡng cho trẻ những khả năng như: Khả năng
điều chỉnh cảm xúc, khả năng kiềm chế bốc đồng, khả năng tập trung, khả năng đồng
cảm với người khác, đạo đức, tính xã hội, sự hiếu học của bản thân mỗi trẻ. Thông qua
quá trình vui chơi, giao tiếp với bạn bè, giao cảm với bố mẹ và các tình huống đa dạng
trong thực tế mà trẻ được trải nghiệm và quan sát.
Trình tự của một tiết học được diễn ra giống như một tiết học nhưng không nghiêm
ngặt như một tiết học diễn ra ở cấp tiểu học. Những chức năng tâm lý diễn ra giống như
một tiết học ở lớp 1. Trẻ phải chú ý nghe cô hướng dẫn, giảng giải, phải sử dụng các hình

thức ghi nhớ, các thao tác tư duy diễn ra theo yêu cầu của lớp học. Việc trẻ chú ý nghe cô
giảng bài là điều kiện tâm lý của hoạt động ý thức.
Để trẻ có một tâm trạng vui vẻ khi đến trường, đến lớp thì trong các giờ hoạt động,
cô giáo tạo cho trẻ một khơng khí vui vẻ, thoải mái, gần gũi, tình cảm, phát huy tối đa
tính tích cực ở trẻ. Tạo cho trẻ có một cảm giác an tồn, thân thiết như ở nhà.
15


Trẻ ở lứa tuổi này đã hình thành được sự chú ý có chủ định nhưng vẫn cịn yếu.
Khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý của bản thân trẻ cịn hạn chế. Ở giai đoạn này thì
chú ý khơng chủ định chiếm ưu thế nhiều hơn. Sự tập trung chú ý của trẻ cịn yếu và thiếu
tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập.
Trẻ chỉ chú ý khi giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn, các trò chơi cuốn hút
trẻ. Thời gian chú ý có chủ định ở lứa tuổi này rất ngắn chỉ từ 25 đến 30 phút. Nhưng khi
bước vào lớp 1, tiếp cận với những kiến thức khoa học mới mẻ, thời gian tập trung cho
một giờ học cũng kéo dài hơn. Vì vậy, nếu khơng được chuẩn bị tốt về mặt tâm lý sẽ gây
cho trẻ cảm giác mệt mỏi, thậm chí là khủng hoảng và khơng muốn đến trường.
Dựa vào đặc điểm tâm lý này của trẻ, bản thân cũng là một giáo viên mầm non
nhiều năm đứng lớp 5 tuổi. Tôi luôn đưa ra kế hoạch cho trẻ đến tham quan Trường tiểu
học, trong các giờ hoạt động: Chơi ngồi trời, chơi – hoạt động theo ý thích. Để trẻ cảm
nhận được vai trò và trách nhiệm của một người học sinh. Để thực hiện được kế hoạch
đó, tôi tham mưu, đề xuất với Ban giám hiệu, liên hệ với Ban giám hiệu và giáo viên lớp
1 Trường tiểu học Thanh Trù. Để cho trẻ được tham quan ngôi trường mà trong tương lai
gần trẻ sẽ bước chân vào đó. Cho trẻ được trải nghiệm hoạt động học tập cùng anh chị
lớp 1. Tiết học đó thật vui nhộn, thoải mái, tạo ấn tượng tốt cho trẻ về ngôi trường trẻ sẽ
học trong tương lai. Kế hoạch này, tơi có thể thực hiện được thường xun, liên tục, hàng
tuần, hàng tháng trong các chủ đề vì điều kiện về mặt địa lý nơi tôi công tác rất thuận lợi.
Hai Trường mầm non và Trường tiểu học nằm cạnh nhau, chỉ ngang qua một con đường
nhỏ là tới, hầu như khơng có xe cơ giới, xe phân phối lớn chạy qua nên đảm bảo được sự
an toàn khi cho trẻ đi tham quan. Theo thuyết tâm lý xã hội của Freud và Erikson thì giai

đoạn trẻ từ 3 đến 5 tuổi là giai đoạn trẻ khẳng định mình thường xuyên hơn, cái tôi được
khẳng định mạnh mẽ hơn khi trẻ bước vào độ tuổi 5 đến 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặc biệt
sống động, là những tháng ngày phát triển cực nhanh trong cuộc sống của một đứa trẻ.
Ở lứa tuổi này thì hoạt động chủ đạo vẫn là hoạt động vui chơi. Thơng qua các trị
chơi, trẻ có cơ hội được khám phá các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng
các đồ dùng đồ chơi, sự tương tác của trẻ với bạn qua vui chơi thường xuyên hơn.
16


Ví dụ : Trị chơi “cơ giáo” trong hoạt động chơi ở các góc. Trẻ tự nhận vai chơi mình
thích, bạn nhận đóng vai “ cơ giáo”, bạn đóng là “ học sinh”… Trẻ phải diễn tả được
trạng thái tâm lý của nhân vật mà trẻ đóng vai. Mơ phỏng hành động một cách giống thật
nhất về vai trẻ đóng ( cơ giáo thì có những cử chỉ ân cần, dịu dàng, lời nói nhỏ nhẹ, ấm
áp, học sinh thì ngoan, lễ phép, chú ý nghe cô giảng bài…). Trẻ giao tiếp với nhau bằng
ngôn ngữ của vai chơi, trẻ thể hiện được nhu cầu, mong muốn của bản thân với bạn mình.
Điều này giúp trẻ thoải mái, tự tin giao tiếp, tương tác với chính nhân vật mà trẻ đóng vai.
Thơng qua trị chơi đóng vai theo chủ đề giúp cho trẻ học được tình yêu thương, cách thể
hiện sự quan tâm, sự đồng cảm và tăng cường tư duy tình cảm cho trẻ. Theo các nghiên
cứu cho biết, trẻ sẽ học được cách kiềm chế, kiểm soát cảm xúc của bản thân khi tham gia
trị chơi đóng vai theo chủ đề nhất là những vai nhân vật tốt như siêu anh hùng, bác sỹ,
chú bộ đội…. Trẻ sẽ phải hành động, cư xử, suy nghĩ, đặt mình vào nhân vật mà trẻ đóng
sao cho thật giống với nhân vật đó.
Để mỗi ngày đến trường của trẻ là một ngày vui thì ngồi những hoạt động chăm
sóc, giáo dục trẻ ra giáo viên chủ nhiệm các lớp đã phối kết hợp với Ban giám hiệu nhà
trường, phụ huynh tổ chức các buổi ngoại khóa cho trẻ được trải nghiệm một cách đầy
hứng khởi như: Hội chợ xuân, bé với các trò chơi dân gian…

17



Trẻ và phụ huynh trải nghiệm “ Hội chợ xuân”

Bé với trò chơi dân gian
18


Trong các hoạt động trải nghiệm, trẻ được hịa mình vào khơng khí của ngày tết cổ
truyền, hay những trị chơi dân gian gắn với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Trẻ tham gia hoạt
động một cách vui vẻ, hồ hởi, thích được đến trường, được khám phá những điều mới mẻ
hơn. Đây cũng là cách để cho cô và trò được xả stress sau những hoạt động căng thẳng,
gò bó trong khơng gian lớp học, là cách để củng cố và hình thành ở trẻ sự tự tin, lịng tin
của trẻ với người khác, xây dựng được một hình ảnh đẹp về thầy cơ giáo trong tâm trí trẻ.
Ln động viên, khuyến khích để trẻ vui vẻ, tự nguyện tham gia vào các hoạt động, khiến
cho trẻ cảm thấy tự tin hơn khi tự bản thân trẻ giải quyết một vấn đề nào đó. Có những trẻ
tự đưa ra những sáng kiến của mình trong khi vui chơi hay lao động, nếu sáng kiến đó
của trẻ mà được người lớn nhất là cha mẹ trẻ hay giáo viên khuyến khích và củng cố thì
trẻ sẽ cảm thấy cần phải cần cù, chăm chỉ hơn, cảm thấy tự tin vào khả năng của mình.
Cịn nếu sáng kiến của trẻ mà khơng được người lớn động viên, khích lệ, bị hạn chế bởi
cha mẹ hoặc giáo viên thì trẻ bắt đầu cảm thấy mình thua kém hơn, nghi ngờ vào khả
năng của bản thân mình. Chính vì vậy mà trẻ khơng thể đạt được kết quả cao trong quá
trình học tập và phát triển tiềm năng của bản thân sau này.
Tri giác của trẻ ở lứa tuổi này chỉ mang tính đại thể, khơng thường xun đi vào chi
tiết, mang tính khơng ổn định. Tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan, vì vậy cần thu
hút trẻ bằng các hoạt động mới, trị chơi mới, tạo hứng thú lơi kéo trẻ tham gia hoạt động
nhằm phát triển tri giác của trẻ một cách tích cực và chính xác. Trong các hoạt động tơi
ln tìm tịi đưa các trị chơi dân gian, trò chơi học tập vào bài học để tạo hứng thú cho
trẻ khi tham gia vào hoạt động như: Trị chơi “ Trốn tìm”, trị chơi dân gian“ Lộn cầu
vồng”, “ kéo cưa lừa xẻ”…
Giúp phụ huynh hiểu rõ việc cần thiết phải chuẩn bị tâm lý cho trẻ, nhưng sự chuẩn
bị phải mang hướng tích cực chứ khơng nhồi nhét. Sự nhồi nhét của cha mẹ có lẽ xuất

phát từ tâm lý sợ con không theo kịp bạn bè, lo con đuối hơn các bạn. Tâm lý đám đông
xuất hiện, lan truyền trong phụ huynh dẫn đến việc trẻ phải gắng sức chạy đua trong cuộc
chạy đua về mặt tâm lý của phụ huynh. Điều này không những khơng mang lại lợi ích về
mặt tâm lý cho trẻ mà còn mất đi tuổi thơ ý nghĩa của con trẻ. Khi chuyển từ môi trường
19


mà hoạt động chủ đạo là vui chơi, chỉ nhận biết mặt số, mặt chữ cái sang một hoạt động
học tập nghiêm túc ở Trường tiểu học. Trẻ cần một thời gian vừa đủ để chuẩn bị về mặt
tâm lý sẵn sàng cho hoạt động học tập ở lớp 1.
7.3.5. Biện pháp thứ năm: Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức các
hoạt động chung cho trẻ
Ngày nay công nghệ khoa học phát triển mạnh, để ứng dụng được công nghệ thông
tin trong đổi mới phương pháp giảng dạy thì địi hỏi người giáo viên cũng khơng ngừng
nỗ lực học tập để đưa ra những bài học, những hình ảnh trực quan sinh động, cuốn hút trẻ
đến với bài học.
*Ứng dụng công nghệ thông tin với việc cho trẻ làm quen chữ cái
Nếu một bài học với những thẻ chữ và bức tranh đơn giản sẽ làm cho trẻ mau chán,
không hứng thú với bài học, việc nghi nhớ mặt chữ cái, mặt chữ số sẽ khó khăn hơn.
Ví dụ: Với bài học cho trẻ “làm quen với chữ cái b, d, đ” thì việc sử dụng cơng nghệ
thông tin trong bài học khiến trẻ hứng thú hơn với hình ảnh, tiếng kêu của con bị chẳng
hạn, hay trẻ sẽ dễ dàng ghi nhớ các nét chữ qua hình ảnh xếp nét trên màn hình…
*Sử dụng phần mềm trong hoạt động cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học
Những bức tranh với những hình ảnh màu sắc dù có đẹp cũng trở nên nhàm chán
với trẻ, nếu cứ lặp đi lặp lại việc sử dụng tranh vẽ trong các tiết học.
Ví dụ: Trong bài dạy trẻ đọc thơ “ Tình bạn" khi sử dụng những hình ảnh sống động
để khắc họa nhân vật và nội dung của bài thơ sẽ khiến cho tác phẩm văn học đi vào tâm
hồn trẻ thơ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Cơ có thể tải các hình ảnh phù hợp từ những
trang web, trẻ thích thú hơn ghi nhớ nội dung bài thơ dễ dàng và mục đích giáo dục của
bài học sẽ gần gũi với cuộc sống thực tế của trẻ hơn.

*Sử dụng công nghệ thông tin khi cho trẻ khám phá khoa học
Trẻ sẽ được đến với môi trường tự nhiên, sống động, gần gũi với trẻ qua màn hình
ngay tại lớp học.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với một số lồi cơn trùng.

20


Trẻ được quan sát hình ảnh về con ong, con bướm…với những đặc điểm hình
dáng, vận động của con vật trẻ sẽ hứng thú và tri giác một cách chính xác về những con
vật đó, trẻ tập trung chú ý đến bài học và tiếp thu bài học một cách nhẹ nhàng và nhớ lâu.
Ngồi ra cịn có thể áp dụng được phần mềm vào các bài học với những mơn học
khác như: Cho trẻ làm quen với tốn, cho trẻ làm quen với các tác phẩm tạo hình.
7.3.6. Biện pháp thứ sáu: Xây dựng một môi trường cho trẻ hoạt động đảm bảo an
toàn thân thiện.
Để thực hiện phương châm “ Giáo dục không chỉ chuẩn bị cho cuộc sống mà giáo
dục phải chính là cuộc sống của trẻ” thì việc xây dựng cho trẻ một mơi trường học tập an
tồn thân thiện là điều vơ cùng quan trọng. Điều này đảm bảo cho mỗi trẻ được hoạt
động, có cơ hội phát triển tối ưu những tiềm năng sẵn có để hình thành những kỹ năng
cần thiết cho cuộc sống.
Trước hết ngay trong lớp mình phụ trách tơi đã bố trí sắp xếp các góc chơi, đồ dùng
đồ chơi gọn gàng hợp lý, dễ cất, lấy. Tạo một khoảng khơng gian giữa các góc cho trẻ dễ
hoạt động.
Ví dụ: Góc phân vai và góc xây dựng tơi bố trí gần nhau và xa góc sách truyện, góc
nghệ thuật. Góc xây dựng có một khoảng khơng để trẻ được sáng tạo, xây dựng cơng
trình từ những ý tưởng của mình…
Để cho trẻ có một mơi trường an tồn, thân thiện thì vai trị của người giáo viên hết
sức quan trọng. Tôi luôn đối xử với trẻ một cách công bằng, không định kiến với trẻ, hạn
chế tối đa những ngôn từ mang tính mệnh lệnh với trẻ.
Ví dụ như trẻ la hét rất to trong lớp thay vì “ im lặng, khơng được hét” thì hãy nói “

con chỉ cần nói nhẹ nhàng thơi” và tăng cường nói những lời khích lệ, động viên trẻ.
Tạo một mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và trẻ, bằng tình thương yêu của bản
thân với trẻ và với nghề. Đối xử công bằng chính là nền tảng để tạo ra những mối quan hệ
tốt đẹp giữa giáo viên với trẻ, mối quan hệ giữa trẻ với trẻ. Ln động viên, khích lệ chấp
nhận cái sai của trẻ trước khi trẻ làm đúng, khơng nơn nóng chỉnh sửa một cách mạnh mẽ

21


với những cái sai của trẻ. Để trẻ cảm thấy lạc quan, tự tin vào bản thân khi trẻ gặp thất
bại. Ví dụ: Khi trẻ chưa thực hiện được yêu cầu bài học cô nhẹ nhàng động viên trẻ như “
Cố lên con sắp làm được rồi”, “ không sao đâu”…
Một mơi trường học tập lành mạnh, an tồn, thân thiện tạo tiền đề cho trẻ phát huy
tích cực những yếu tố tiềm năng của mình.
7.3.7. Biện pháp thứ bảy: Phối kết hợp với phụ huynh và tuyên truyền với phụ
huynh về việc chuẩn bị cho con vào lớp 1.
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Quốc Thành thì phụ huynh có con chuẩn bị vào lớp
1 cần được tham vấn nhiều vấn đề, quan trọng nhất vẫn là các kỹ năng chuẩn bị cho con.
Vì trẻ em ngày nay được chăm chút, bao bọc nên các kỹ năng sống ở trẻ cịn nhiều hạn
chế. Đó là điểm yếu chung của tất cả trẻ em nên hầu hết cha, mẹ khơng thật sự n tâm
khi con ra ngồi. Đặc biệt gần đây, hiện tượng trẻ em bị lạm dụng có chiều hướng gia
tăng nên sự lo lắng của phụ huynh cũng là điều dễ hiểu. Khi bước chân vào cổng Trường
tiểu học không giống như ở Trường mầm non. Ở mầm non, các con được các cơ giáo
chăm sóc một cách cẩn thận thì ở Trường tiểu học, bản thân mỗi trẻ phải học các kỹ năng
như: Tự chuẩn bị và mang sách vở đồ dùng học tập, biết giữ gìn và bảo quản dụng cụ học
tập, cách tự đi vệ sinh, giao tiếp với bạn bè và cô giáo……
Đặc điểm và yêu cầu học tập của học sinh lớp 1 cũng là vấn đề được cha mẹ học sinh
quan tâm. Đây cũng là vấn đề cơ bản mà phụ huynh cần hiểu rõ để chuẩn bị tâm thế cho
con và giúp con tự tin, tự lập trong cuộc đời học sinh của mình. Có những phụ huynh đã
quan tâm đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, nhưng mặt khác một số phụ huynh bận

làm ca trong các công ty ở khu công nghiệp, mải mê với công việc kinh doanh bn bán.
Thời gian dành cho gia đình, con cái cịn eo hẹp nên phó mặc việc ni dưỡng chăm sóc
trẻ cho nhà trường. Để giúp phụ huynh hiểu rõ sự cần thiết phải chuẩn bị cho con vào lớp
1, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã trò chuyện, trao đổi với phụ huynh về vấn
đề chăm sóc giáo dục trẻ ở trường. Cũng như giải pháp của vấn đề chuẩn bị cho trẻ vào
lớp 1 đạt hiệu quả.

22


Bản thân là một giáo viên có thâm niên cơng tác nhiều năm ở Trường nhưng không
phải là người địa phương nên việc tạo các mối quan hệ, gần gũi với phụ huynh là điều
rất cần thiết. Tôi đã thiết lập mối quan hệ đó qua các giờ đón, trả trẻ và trao đổi với phụ
huynh về tình hình của con em họ khi ở Trường. Buổi họp phụ huynh đầu năm cũng
chính là dịp để giáo viên và phụ huynh gặp mặt và có những trao đổi thiết thực về cơng
tác chăm sóc giáo dục trẻ. Trong cuộc họp này, tôi cũng đã đưa ra bộ chuẩn phát triển trẻ
5 tuổi với 120 chỉ số phát triển mà trẻ cần đạt được trong năm học. Điều này giúp phụ
huynh thấy được tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường. Đưa ra những bất cập trong
việc giúp trẻ tăng chiều cao, tăng cân để phụ huynh hiểu rõ và phối kết hợp cùng cô giáo
và nhà Trường một cách tự nguyện. Trao đổi riêng với phụ huynh có con suy dinh dưỡng,
thấp cịi qua giờ đón trả trẻ hay qua điện thoại, zalo cá nhân. Để phụ huynh có hướng
điều chỉnh khẩu phần ăn cho trẻ khi ở nhà.
Bên cạnh đó cịn có vấn đề đáng lo ngại trong lớp tơi phụ trách rói riêng, trong
trường nói chung là việc phụ huynh nơn nóng, gị ép con đến các lớp luyện chữ, học đọc,
học viết trước tuổi. Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi cùng các bậc phụ huynh đã
trao đổi đến những điều có lợi và có hại, những ảnh hưởng về mặt tâm lý khi cho con học
đọc, học viết trước tuổi. Để phụ huynh thấy rõ được việc cho con học chữ trước tuổi là
khơng cần thiết và khơng mang lại lợi ích cho trẻ sau này. Thường xuyên trao đổi với phụ
huynh về việc chăm sóc, giáo dục, việc lao động, học tập của trẻ ở trường.
Ví dụ: Có nhiều phụ huynh đã nhắn tin, gọi điện và đặt ra những câu hỏi như “ tại sao khi

ở Trường các con có nề nếp tốt, lễ phép còn khi ở nhà lại tự do khơng có nề nếp?” . Trước
những thắc mắc của phụ huynh tơi đã trao đổi và giải thích rõ để phụ huynh thấy được
rằng khi trẻ đến trường cô luôn giáo dục lễ giáo cho trẻ một cách thường xun. Hình
thành cho trẻ những thói quen nề nếp tốt như cất đồ dùng đúng nơi quy định, không vẽ
bậy lên tường, giữ gìn vệ sinh lớp học…Lễ phép với người lớn, đoàn kết, yêu thương,
chia sẻ với các bạn trong lớp qua các tác phẩm âm nhạc, bài thơ, truyện kể, hay gương
người tốt việc tốt ở xung quanh chúng ta. Dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ bản thân như
cách đánh răng, cách rửa tay bằng xà phịng, cách gấp quần áo, chải tóc và buộc tóc….
23


Khi về với gia đình, phụ huynh bận rộn, mải mê với cơng việc mà ít quan tâm đến trẻ.
Khi trẻ nói năng tự do, bừa bãi, khơng tự làm những việc phục vụ bản thân, làm những
công việc vừa sức giúp gia đình mà phụ huynh khơng nhắc nhở , uốn nắn thì những thói
quen và kỹ năng mà cơ giáo đã hình thành cho trẻ ở trường sẽ mất dần đi. Sẽ rất nguy
hiểm khi trong đợt nghỉ phòng dịch kéo dài này trẻ mất đi những kỹ năng giữ gìn vệ sinh
bản thân. Có những phụ huynh bày tỏ sự lo ngại đến vấn đề học tập của con vì nghỉ
phịng dịch kéo dài. Tơi đã giải thích để phụ huynh hiểu rõ được sự nguy hiểm và cần
thiết phải phịng, chống dịch bệnh. Đồng thời thơng qua các trang mạng internet như zalo
của nhóm lớp tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về dịch bệnh covid – 19. Sự nguy hiểm
và cách phòng dịch theo khuyến cáo của Bộ y tế. Với trẻ nhỏ cha mẹ cần chú ý hướng
dẫn, giữ gìn vệ sinh cho trẻ. Nếu trẻ có sẵn bệnh mạn tính thì phải chăm sóc cẩn thận
hơn.
+ Rửa tay thường xun dưới vịi nước chảy ít nhất 30 giây ( thường xuyên nhắc nhở
trẻ rửa tay theo 6 bước mà cô đã dạy ở trường theo khuyến cáo của Bộ y tế) hoặc dung
dịch có cồn. Rửa tay nhiều lần trong ngày sau khi ho, hắt hơi, tháo khẩu trang, tiếp xúc
với người bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh. Tiếp xúc với dịch tiết mũi, họng, ho, hắt hơi
của người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh, tiếp xúc chất thải của động vật, đi vệ sinh,
đi từ bên ngoài về nhà…và trước các bữa ăn. Cha mẹ trước khi chế biến hay cho trẻ ăn
cũng phải rửa tay sạch sẽ.

+ Súc miệng, họng bằng nước súc miệng, tránh đưa tay lên mắt, mũi, miệng để phòng
lây nhiễm bệnh; vệ sinh nơi ở sạch sẽ.
+ Tránh hoặc hạn chế mức thấp nhất trẻ đi đến nơi đơng người, tránh tiếp xúc với
người có dấu hiệu viêm đường hơ hấp cấp tính ( sốt, ho, khó thở, đau đầu, chảy nước mắt,
nước mũi). Trong trường hợp phải đi đến nơi tập trung đông người phải đeo khẩu trang
đúng cách, giữ khoảng cách khi tiếp xúc( ít nhất 2mét). Khi đi từ bên ngoài về cha mẹ
nên thay quần áo trước khi chăm sóc và tiếp xúc với trẻ nhỏ.
+ Đeo khẩu trang phòng bệnh
Khẩu trang y tế chỉ được đeo trong các trường hợp sau: Khi tiếp xúc với người nhiễm
24


hoặc nghi ngờ nhiễm covid – 19. Khi tiếp xúc với người có triệu chứng bệnh đường hơ
hấp như ho, khó thở… Khi được chỉ định theo dõi cách li tại nhà, hoặc đi
khám, điều trị tại các cơ sở chữa bệnh. Không được tái sử dụng khẩu trang y tế.
Khẩu trang vải: Hãy che mũi và miệng ( khẩu trang phải được giặt ủi và khử trùng
qua nước sôi trước khi tái sử dụng) để hạn chế nguy cơ tiếp xúc với virus.
Nếu khơng có khẩu trang, hãy hướng dẫn trẻ che miệng và mũi khi trẻ ho hoặc hắt
hơi để làm giảm phát tán dịch tiết đường hô hấp. Hướng dẫn trẻ không khạc nhổ bừa bãi
nơi công cộng.
+ Cho trẻ uống đủ nước, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng để tăng cường sức đề
kháng. Bên cạnh đó đảm bảo an tồn thực phẩm, chỉ sử dụng các thực phẩm đã được nấu
chín.
+ Giữ ấm cơ thể cho trẻ, nhiệt độ phòng từ 25 0C trở lên, tốt nhất là từ 27 0C trở lên.
Bên cạnh đó cần tăng cường sức đề kháng bằng ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt hợp lí.
+ Tăng cường thơng khí khu vực nhà ở bằng cách mở các cửa ra vào và cửa sổ, hạn
chế sử dụng điều hòa. Thường xuyên lau nền nhà, tay nắm cửa và bề mặt các đồ vật trong
nhà bằng xà phòng và các dung dịch khử khuẩn thông thường khác. Các đồ vật trẻ hay
tiếp xúc như đồ chơi, vật dụng học tập…thậm chí điện thoại cũng cần được vệ sinh để
phòng tránh lây bệnh.

+ Khi trẻ có các triệu chứng sốt, ho, khó thở…và có tiếp xúc gần với trường hợp mắc
bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh cần thông báo ngay cho Trung tâm y tế, bệnh viện tuyến
huyện. Trước khi đến hãy gọi điện thông báo biểu hiện bệnh và tiền sử tiếp xúc, đi lại với
cơ sở y tế để được hỗ trợ tốt nhất.
Nhắc phụ huynh động viên trẻ ăn hết suất, ăn đủ chất, không kén chọn thức ăn, bổ
sung vitaminc, các vitamin thiết yếu cho trẻ và những người trong gia đình nhằm nâng
cao sức đề kháng của cơ thể, phịng dịch cho bản thân và gia đình. Tun truyền tới phụ
huynh việc thực hiện phương châm “ Tạm dừng đến trường, không dừng học” theo
hướng dẫn dạy và học qua internet, trên truyền hình của Bộ giáo dục và đào tạo. Ngồi
những giờ học trên kênh truyền hình VTV1 và VTV7 mà tôi đã tuyên truyền tới phụ
25


×