Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

làng nghề thủ công mỹ nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.36 KB, 11 trang )

1. Giới thiệu chung
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống từ lâu đời. Truyền thống đó
gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những sản phẩm
thủ công truyền thống, với những nét độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ.
Hiện nay, các con số thống kê cho thấy, Việt Nam cịn có gần 2.000 làng nghề thuộc
các nhóm nghề chính như: sơn mài, gốm sứ,vàng bạc, thêu ren, mây tre đan,
cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá...Trong đó, nhiều nghề và làng nghề truyền thống
đã nổi bật lên trong lịch sử Việt Nam. Theo cuốn lịch sử của các làng nghề Việt Nam
thì nghề chạm bạc có lịch sử lâu đời khoảng gần 1000 năm, nghề đá mỹ nghệ đã có
cách đây 500 năm...
Làng nghề là cả một môi trường văn hố - kinh tế - xã hội và cơng nghệ truyền thống
lâu đời. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kĩ thuật truyền từ đời này sang đời
khác, chung đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm có bản sắc riêng
của mình, nhưng lại tiêu biểu và độc đáo của cả dân tộc Việt Nam. Mơi trường văn hố
làng nghề là khung cảnh làng quê, với cây đa bến nước, đình chùa, đền miếu..., các hoạt
động lễ hội và hoạt động phường hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian
và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Làng nghề truyền thống từ lâu đã làm phong phú
thêm truyền thống văn hố Việt Nam.
Những sản phẩm thủ cơng mỹ nghệ khơng chỉ là những vật phẩm sinh hoạt bình
thường hàng ngày, mà một số còn là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn
hoá xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc.
Thị trường xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của nước ta hiện đã có mặt tại 163 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, chủ yếu như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh , Pháp, Đức, Hàn
Quốc, Đài Loan... và cũng là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu rất lớn.

1


Nguồn nguyên liệu chủ yếu của nghề thủ công mỹ nghệ bao gồm: nguồn nguyên
liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài như may mặc, gỗ và giày da...; nguồn nguyên
liệu trong nước đặc biệt là các nguồn nguyên vật liệu, được thu lượm từ phế liệu và thứ


liệu của nơng lâm sản; nhưng cũng có nguồn ngun liệu như một món q của tạo hố
ban tặng con người như đất, đá...
Ở mỗi làng nghề đều có thờ Tổ nghề. Việc thờ tổ nghề khơng đơn giản là lịng tơn
kính đối với những người có cơng sáng tạo ra nghề, mà còn nhắc nhở con cháu giữ lại
cái nghiệp của cha ơng.
Làng nghề thủ cơng truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng là sản phẩm
độc đáo của nền văn hố Việt Nam - Một dân tộc đã có bề dầy lịch sử hàng ngàn năm
với nền văn hoá lấy cộng đồng làng làm đơn vị tổ chức xã hội cơ bản. Các làng nghề
truyền thống đã tạo ra rất nhiều sản phẩm không chỉ đơn thuần là trao đổi thương mại
mà cịn có mặt giá trị về văn hoá và lịch sử.Với thế mạnh về những sản phầm làng nghề
truyền thống, nghề thủ cơng mỹ nghệ đã góp phần tạo việc làm cho hơn 11 triệu lao
động nông thơn, trong đó có địa phương thu hút hơn 60% lao động, đổi mới bộ mặt cho
quê hương đất nước, đồng thời xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã giúp xã hội thu
hồi một bộ phận chất thải nông nghiệp sau chế biến và thu hoạch, đã biến phế liệu trở
thành những sản phẩm xuất khẩu, góp phần tích cực cho việc bảo vệ môi trường và phát
triển kinh tế đất nước.
Vì vậy, từ năm 2006, Chỉnh phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NÐ-CP về
khuyến khích phát triển ngành nghề nơng thơn, Chương trình bảo tồn và phát triển làng
nghề cũng được phê duyệt từ tháng 10-2011. Từ năm 2005 đến nay, Nhà nước ta còn
tổ chức các kỳ Festival Nghề truyền thống. Sắp tới, TP Huế tiếp tục tổ chức Festival
Nghề truyền thống lần thứ 5 “Tinh hoa Nghề Việt” từ ngày 27- 4 đến ngày 01 tháng 5
năm 2013.
2. Con đường đến với nghề
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, do đặc thù hoạt động
theo mùa vụ nên đã tạo ra khoảng thời gian nông nhàn cho những người nông dân. Do
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cần có các vật dụng, cho nên những người nông dân đã sử
dụng thời gian nơng nhàn của mình để làm ra các sản phẩm. Lúc đầu, nó chỉ nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt của chính bản thân họ. Sau đó, nó được đem đi trao đổi, buôn
bán. Dần dần, hoạt động trao đổi tăng và có nhiều trường hợp đưa lại nguồn lợi nhiều
2



hơn so với nghề làm nông nghiệp. Việc sản xuất những sản phẩm dần được phát triển
và chun mơn hóa. Xuất hiện những làng có thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ trọng
cao hơn nghề nông nghiệp. Thu nhập của những người nông dân đồng thời là thợ thủ
công của những làng này trội hơn của những người nông dân ở những làng thuần nơng.
Tuy nhiên, khơng phải vì vậy mà người thợ thủ cơng thốt ly khỏi nghề làm nông
nghiệp. Những sản phẩm nông nghiệp luôn là sự đảm bảo, ổn định cần thiết cho họ.
Lịch sử đã chứng minh, có nhiều làng nghề phát triển, hầu hết những người thợ thủ
cơng đã có những nguồn thu chính, chủ yếu từ việc sản xuất và trao đổi các sản phẩm.
Họ khơng cịn trơng chờ vào các sản phẩm từ nghề nông nghiệp bởi thu nhập từ nghề
thủ công gấp nhiều lần so với nghề nơng nghiệp.
Đó là nguồn lao động bán chuyên nghiệp. Hiện nay, lực lượng lao động của nghề
thủ cơng mỹ nghệ được chun mơn hóa nhiều hơn, được đào tạo trong các cơ sở dạy
nghề hoặc trực tiếp từ các làng nghề. Muốn đến với các nghề thủ công mỹ nghệ, bên
cạnh tài năng, bạn cũng cần phải có tâm huyết- tấm lịng u nghề và gắn bó với nghề.
Trong tương lai, nếu chon lựa cho mình một nghề nào đó, bạn phải qua những lớp
đào tạo nghề.
Thứ nhất, là được đào tạo ngay tại cơ sở nghề đó. Ngay tại các cơ sở nghề này,
bạn sẽ được những người thợ lành nghề chỉ dẫn trực tiếp, mức độ từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp, thuần thục. Phải qua một quá trình, dài ngắn phụ thuộc vào trình độ
của người học. Có rất nhiều làng nghề nhận học viên học nghề, và chính những học
viên này đã trở thành những nghệ nhân nổi tiếng. Chẳng hạn như nghề mộc Kim Bồng.
Thứ hai, nếu không học nghề tại các cơ sở nghề, bạn phải học tại các trung tâm
dạy nghề của các huyện, thành phố. Đã qua rồi cái thời người học nghề chỉ có thể lựa
chọn nghề nghiệp mà các trung tâm dạy nghề có sẵn để theo học. Bây giờ, người học
nghề có thể đề xuất nghề mình có khả năng học, thích học để được trung tâm đáp ứng.
Đây là một cách đổi mới phương pháp dạy nghề được Sở LĐ-TB&XH Quảng Nam chỉ
đạo thực hiện. Trung tâm dạy nghề kiểu mẫu của tỉnh ở Duy Xuyên được chọn để thực
hiện phương pháp mới này. Vừa qua, trung tâm đã đến 11 xã thuộc Đề án xây dựng

NTM trên địa bàn các huyện Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình để tham vấn ý kiến của
địa phương về những nghề mà lao động nông thôn cần học. Trước nhiều buổi tham vấn
của trung tâm với lãnh đạo xã, các địa phương đã khảo sát nhu cầu học nghề của người
dân. Bạn có thể đăng kí học một nghề mà mình u thích.
3


3. Nghề thủ công mỹ nghệ ở Quảng Nam
Từ những năm đầu của thế kỷ XV-XVI, theo chân những lưu dân vùng Bắc Bộ mở
đất về phương Nam, nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ đã ra đời và phát triển mạnh
mẽ trên vùng đất Quảng Nam. Trải qua hàng trăm năm thịnh vượng, thăng trầm, một
số làng nghề Quảng Nam vẫn được gìn giữ theo truyền thống cha truyền con nối cho
đến ngày nay.
Hiện nay, Quảng Nam có khoảng 60 làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, phân
bố rải rác ở nhiều địa bàn khác nhau. Trong số đó, có 19 làng nghề được UBND Tỉnh
phê duyệt, cơng nhận. Trong số đó, nổi bật một số làng nghề sau:
Làng gốm Thanh Hà
ó nguồn gốc Thanh Hố, làng gốm
Thanh Hà được hình thành từ cuối thế kỷ
15 và phát triển mạnh cùng với cảng thị
Hội An trong các thế kỷ kế tiếp. Sảm phẩm gốm
Thanh Hà được làm từ nguồn nguyên liệu chính
là đất sét bởi những bàn tay điêu luyện của nghệ
nhân và kỹ thuật truyền thống của làng nghề.
Sản phẩm chủ yếu là các đồ dùng phục vụ đời
sống sinh hoạt hằng ngày như chén, bát, chum, vại, bình hoa, chậu cảnh, hình thù các
con giống ... mang nhiều kiểu dáng, màu sắc rất phong phú và đặc biệt nhẹ hơn so với
các sản phẩm cùng loại của những địa phương khác.

C


Cho đến nay, làng gốm Thanh Hà vẫn tồn tại và hoạt động sản xuất thủ cơng với
phương tiện và kỹ thuật truyền thống. Chính vì thế, làng gốm Thanh Hà trở thành một

4


bảo tàng sống, một nguồn tư liệu quý giá cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về
nghề gốm cổ truyền của Việt Nam nói riêng
cũng như của vùng Đơng Nam Á nói chung.
Làng gốm Thanh Hà nằm ngay bên bờ sông
Thu Bồn, thuộc địa bàn xã Cẩm Hà - thị xã
Hội An, cách khu phố cổ khoảng 2km về
hướng Tây. Đến thăm làng, ngoài việc thỏa
sức lựa chọn các sản phẩm lưu niệm bằng
gốm, du khách còn được tận mắt chứng kiến
những thao tác điêu luyện từ những bàn tay
tài hoa của các nghệ nhân làng nghề này.
Làng mộc Kim Bồn
ghề mộc Kim Bồng
được hình thành từ
thế kỷ 15 bởi những
người Việt đầu tiên ở đồng bằng Bắc
Bộ và vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh vào
khai khẩn vùng đất Cẩm Kim - Hội
An thời bấy giờ. Cuối thế kỷ 16, đầu
thế kỷ 17 nghề mộc Kim Bồng bắt
đầu phát triển nhờ sự phồn thịnh của
thương cảng Hội An. Đến thế kỷ 18,
nghề mộc Kim Bồng đã phát triển mạnh mẽ và thịnh đạt thành làng nghề với ba nhóm

nghề rõ rệt: nghề mộc xây dựng các cơng
trình kiến trúc đơ thị, nghề mộc dân dụng và
nghề đóng tàu thuyền mộc.

N

Địa danh và nghề mộc Kim Bồng đã được Lê
Quý Đôn đề cập trong Phủ Biên Tạp Lục viết
vào thế kỷ 18. Với danh tiếng của mình, nhiều
hiệp thợ Kim Bồng được vua các triều
Nguyễn triệu tập tham gia xây dựng kinh đô
Huế.
5


Trong số đó, nhiều người đã được ban tước Cửu Phẩm, Bát Phẩm,... Riêng với đô
thị cổ Hội An, bàn tay tài hoa của người thợ Kim Bồng đã góp phần tạo nên những cơng
trình kiến trúc độc đáo.
Làng đúc đồng Phước Kiều
ề bên quốc lộ 1A, thuộc xã Điện
Phương huyện Điện Bàn, làng đúc
đồng Phước Kiều là một làng nghề truyền
thống đã nổi tiếng từ nhiều thế kỷ trước
với các sản phẩm bằng đồng phục vụ trong
các dịp tế lễ, hội hè như: chuông, đồng,
chiêng, kiểng, mõ, phèng la; các vật dụng
thông thường trong đời sống như lư
hương, chân đèn, nồi niêu, xoang chảo,
chén bát và cả các loại binh khí cổ như gươm, dao, giáo, mác .....


K

Đặc biệt, nghệ nhân Phước Kiều có đơi tay tài hoa và đôi tai nhạy bén biết "nghe,
cảm" từng loại âm thanh để tạo ra nhiều nhạc cụ
có âm riêng biệt, rất đặc thù và sắc nét. Một trong
những bí quyết đó là kỹ thuật pha trộn các kim
loại khác trong lúc nấu đồng ở những mức nhiệt
độ mà chỉ có những người trong nghề mới được
truyền đạt. Đến làng đúc đồng Phước Kiều, ngoài
việc lựa chọn, mua sắm các vật dụng, hàng lưu
niệm với đa dạng mẫu mã, kích thước, du khách
cịn có cơ hội được trực tiếp tham quan các công
đoạn sản xuất của nghề đúc đồng và được xem
các nghệ nhân danh tiếng biểu diễn các loại nhạc
cụ cồng, chiêng do chính mình khai sinh ra.

6


Làng dệt Mã Châu

H

ình thành từ thế kỷ 15, bên cạnh kinh đô Trà Kiệu, làng Mã Châu chuyên
dệt lụa cung cấp cho giới quý tộc, quan lại trong các vương triều. Các công
việc trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa đều được thực hiện trong làng,
với sự tham gia của hàng trăm hộ gia đình theo phương thức thủ công. Khi xứ Đàng
Trong - Việt Nam mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài qua cảng thị Hội An thì
tơ lụa Mỹ Châu là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất. Từ cuối thế kỷ 19, khi người
Pháp đến Việt Nam, làng Mã Châu có thêm

nghề trồng bông, dệt vải nhưng tơ lụa vẫn là
mặt hàng chủ yếu. Trong thời kỳ này, phương
thức sản xuất của làng nghề đã được cải tiến
đáng kể, từ chỗ sử dụng các khung dệt hồn
tồn thủ cơng chuyển sang bán cơ giới, rồi
tiến đến tự động hoá như ngày nay.
Làng dệt Mã Châu có vóc dáng đặc
trưng của một làng quê Việt Nam yên bình với những khu vườn xanh tốt, những hàng
cau, hàng chè tàu thẳng lối đi và những gương mặt thân thiện, ln nở nụ cười đón
khách của chủ nhân. Do nằm ngay trên tuyến đường từ Hội An đi Mỹ Sơn, làng dệt Mã
Châu thuận tiện để du khách viếng thăm. Làng nghề Mã Châu thuộc thôn Châu Hiệp thị trấn Nam Phước, cách trung tâm huyện lỵ Duy Xun khoảng 3 km về phía Đơng.
Làng dâu tằm Đông Yên - Thi Lai

C

ũng như làng dệt Mã Châu, từ những
thế kỷ trước làng Đông Yên - Thi Lai
đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, chăn tằm,
ươm tơ, dệt lụa, dệt vải với những mặt hàng
phổ biến như lãnh, sa nhiễu, đũi, the,
đệm...từng theo chân các thương thuyền
ngoại quốc đi khắp vùng biển Đông. Ở thời
điểm hưng thịnh nhất, làng nghề này có diện
tích trồng dâu lên đến 160 ha và có gần 200
hộ tham gia sản xuất tơ lụa theo phương thức
thủ cơng. Bởi vậy, mới có câu:
7


Duy Xuyên tơ lụa mĩ miều

Buổi mai cửi mắc, buổi chiều tơ giăng
Do biến động của lịch sử, cùng với nhiều nghệ nhân của làng dệt Mã Châu, các
nghệ nhân làng Đông Yên - Thi Lai cũng đã làm cuộc hành trình vào Nam và góp phần
tạo lập nên những làng dệt có qui mơ lớn như Bảy Hiền, Gị Vấp, tại Thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay.
Làng dệt chiếu cói Bàn Thạch
Từ thị trấn Nam Phước - huyện Duy Xuyên đi về hướng Đông khoảng 5 km, du
khách sẽ bắt gặp những bãi đay xanh tốt nằm dọc hai bờ hữu ngạn con sông Thu Bồn.
Đây là nguồn nguyên liệu chính của làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch. Sợi đay đơn sơ
nhưng qua bàn tay khéo léo, tài hoa của những người phụ nữ Bàn Thạch đã trở thành
những chiếc chiếu trắng, chiếu hoa, chiếu trổ, chiếu bông, chiếu nổi... rực rỡ, mịn màng
và bền chắc, được thị trường trong nước ưa chuộng.
Do địa thế nằm trong vùng sông nước
Trà Nhiêu có cảnh quan thiên nhiên thơ
mộng với những nhánh sơng rộng, uốn
lượn dưới những bãi dừa rợp bóng mát,
làng nghề chiếu cói Bàn Thạch đang trở
thành một điểm đến của du khách trong
chương trình khám phá các làng nghề
truyền thông sở Quảng Nam. Làng bàn
Thạch thuộc xã Duy Vinh - huyện Duy
Xuyên.

8


Đèn lồng Hội An
hị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Đèn lồng truyền thống là một
trong những sản phẩm độc đáo

của Hội An - di sản văn hóa thế giới.

T

Nghề làm đèn lồng khởi phát từ phố cổ
Hội An, đèn lồng đã tạo nên những đêm
hội lung linh huyền ảo.

Truyền nghề và phát triển, đến nay có hàng chục cơ sở làm đèn lồng. Từng nổi
tiếng có cơ sở của nghệ nhân Huỳnh Văn Ba, Nguyễn Đình Hạnh, hay của Phạm Văn
Hà (đèn lồng Hà Linh)… Đặc biệt, ông
Phạm Văn Hà được xem là một trong
những người tiên phong đưa sản phẩm
đèn lồng xuất khẩu sang châu Âu. Cơ sở
đèn lồng Hà Linh có năm từng xuất ra thị
trường trong và ngồi nước khoảng 20
nghìn chiếc đèn.
Gắn kết với du lịch, nhiều cơ sở đèn
lồng ở Hội An không chỉ bán hàng lưu niệm mà còn tạo cơ hội cho du khách tham quan
và tự tay làm những chiếc đèn lồng. Hội An cũng từng tổ chức lễ hội đèn lồng để quảng
bá sản phẩm lưu niệm này, và trong những “Đêm phố cổ”, đèn lồng thăng hoa cảm xúc
của con người giữa đất trời bình n bên dịng sơng Hồi.
Thổ cẩm

Đ

ồng bào dân tộc miền núi cao Quảng
Nam xưa có nghề dệt dồ, dệt bộ
trang phục đầy màu sắc.
Từ nguồn mạch ấy, làng dệt thổ

cẩm Zara (Đông Giang) ra đời. Tuy mức
thu nhập của làng dệt thổ cẩm đem lại còn
9


khiêm tốn (có lúc đạt doanh thu khoảng 300 triệu đồng/năm) nhưng đây là nghề có thể
tạo ra cơ hội việc làm cho phụ nữ vùng cao. Cơ hội ấy sẽ lớn hơn, giúp cải thiện đời
sống của đồng bào nhiều hơn, nếu nghề dệt thổ cẩm nắm bắt được thị hiếu khách hàng
để tạo các sản phẩm thủ công nhỏ gọn như ví, túi xách, trang phục truyền thống và gắn
kết với các tour tham quan du lịch.
Mây tre
ất nhiều địa phương ở Quảng Nam có nghề mây tre đan. Tạo dựng được tiếng
tăm một thời là các cơ sở mây tre đan
ở Nam Phước, Duy Sơn, Tam Vinh,
hay tầm mức doanh nghiệp như Xí nghiệp
Mây tre lá Âu Cơ... Thời điểm thịnh đạt,
Quảng Nam từng có 26 doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất mây tre đan xuất khẩu, mỗi năm cung
ứng ra thị trường khoảng 1.500 tấn mây tinh
chế, 20 nghìn sản phẩm từ mây, đạt giá trị
xuất khẩu khoảng 3 triệu USD. Nghề mây tre
đan giải quyết được lượng lao động không
nhỏ tham gia chế biến, làm hàng thủ cơng mỹ
nghệ và cả ở khâu trồng, chăm sóc, bảo vệ các
rừng mây.

R

Trong số đó, có cơ sở như Mây tre lá Âu Cơ đã chủ động đầu tư ứng dụng cơng
nghệ mới, đảm bảo sản xuất những dịng sản phẩm, vật dụng trang trí nội thất bằng chất

liệu mây, tre, lá để xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ…
Hiệp hội Ngành nghề Mây tre lá Quảng Nam đã phối hợp với Văn phòng dự án
ILO tổ chức đồn tham gia Hội chợ Quốc tế hàng thủ cơng mỹ nghệ và quà tặng Việt
Nam năm 2012 (LifeStyle Viet Nam 2012) được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh từ
ngày 18/4 đến ngày 21/4/2012. Đây là Hội chợ chuyên ngành sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ lớn nhất Việt Nam với 1.000 gian hàng của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước tham gia.

10


Hình ảnh gian hàng của doanh nghiệp Quảng Nam tại Hội chợ
Dân gian có câu “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”- Một nghề cho chín cịn hơn chín
nghề”. Trong tương lai, nếu u thích, đam mê một nghề nào đó, bạn cũng có thể theo
đuổi nó. Đến với nó bằng tài năng, tâm huyết, nhất định bạn sẽ thành công.
Tam Kỳ, 03.2013
Tập thể lớp 7/7

11



×