Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH về PHÒNG BIẾN CHỨNG của NGƯỜI BỆNH đái THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐANG điều TRỊ NGOẠI TRÚ tại BỆNH VIỆN XANH pôn, hà nội, năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.83 KB, 60 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ NỘI
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG NỘI

TÊN ĐỀ TÀI
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ
PHÒNG BIẾN CHỨNG CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐANG
ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN XANH PÔN, HÀ NỘI, NĂM 2012

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thúy Anh

HÀ NỘI, 2012


MỤC LỤC


MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1: Mô tả đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu..................................36
Bảng 2: Tiền sử bệnh.............................................................................................36
Bảng 3: Kiến thức về biểu hiện bệnh....................................................................37
Bảng 4: Kiến thức về cách tuân thủ điều trị ........................................................37
Bảng 5: Biến chứng của ĐTĐ................................................................................38
Bảng 6: Hậu quả của biến chứng bệnh ĐTĐ........................................................38
Bảng 7: Yếu tố làm trầm trọng bệnh....................................................................38
Bảng 8: Cách phòng biến chứng..........................................................................39
Bảng 9: Đặc điểm về hướng dẫn CĐ ăn, tuân thủ CĐ ăn, các thức ăn cần tránh39
Bảng 10: Đặc điểm về hướng dẫn CĐLT, tuân thủ CĐLT, thời gian LT, tần suất LT
.................................................................................................................................40
Bảng 11: Đặc điểm về dùng thuốc, tuân thủ dùng thuốc, tự ý điều trị thuốc khác......40
Bảng 12: Nguồn thông tin truyền thông nhận được............................................40


Bảng 13: Những yêu cầu về tư vấn, tuyên truyền phòng bệnh ĐTĐ..................41
Bảng 14: Những phương tiện truyền thông mong muốn được nhận nhất.........41
Bảng 15: Những khó khăn trong việc tuân thủ điều trị bệnh.............................41
Bảng 16: Kết quả phân loại kiến thức..................................................................42
Bảng 17: MLQ giữa giới tính với KT về tuân thủ chế độ điều trị bệnh ĐTĐ....42
Bảng 19: MLQ giữa nghề nghiệp với KT về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ..........42
Bảng 20: MLQ giữa học vấn với KT về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ..................43
Bảng 21: MLQ giữa thu nhập với KT về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ................43
Bảng 22: MLQ giữa thời gian mắc bệnh với KT về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ43
Bảng 23: Phân loại kết quả TH tuân thủ điều trị bệnh ĐTĐ..............................43
Bảng 24: MLQ giữa giới tính với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ.................44
Bảng 25: MLQ giữa nhóm tuổi với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ .............44
Bảng 26: MLQ giữa nghề nghiệp với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ..........44
Bảng 27: MLQ giữa học vấn với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ..................44
Bảng 28: MLQ giữa thu nhập với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ................45
Bảng 29: MLQ giữa BHYT với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ....................45
Bảng 30: MLQ giữa thời gian mắc bệnh với TH về tuân thủ CĐĐT bệnh ĐTĐ45


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT
BN
CBYT
BC
CNVC
ĐTĐ
ĐTNC
KT
MLQ
NC


TH
THA
THCS
THPT
TPHCM
WHO

Bảo hiểm y tế
Bệnh nhân
Cán bộ y tế
Biến chứng
Công nhân viên chức
Đái tháo đường
Đối tượng nghiên cứu
Kiến thức
Mối lien quan
Nghiên cứu
Quyết định
Thực hành
Tăng huyết áp
Trung học cơ sở
Trung học phổ thơng
Thành phố Hồ Chí Minh
Tổ chức y tế Thế giới


TÓM TẮT BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa rất thường gặp ở các nước và đã trở
thành vấn đề y tế xã hội nghiêm trọng. Hiện thế giới có khoảng 180 triệu người mắc bệnh

đái tháo đường và con số này có thể tăng lên 366 triệu người vào những năm 2030, trong đó
90% là ĐTĐ typ 2.
Ở Việt Nam, tình hình mắc bệnh ĐTĐ đang có chiều hướng gia tăng đặc biệt là tại
các thành phố lớn. Theo kết quả thống kê năm 2001 tỷ lệ ĐTĐ tại khu vực nội thành của bốn
thành phố lớn là 4,0%; tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là 5,1% và đến năm 2003 tỷ lệ ĐTĐ
tại khu vực thành phố là 4,4%. Trong các typ của ĐTĐ thì typ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất (>90%)
và thường diễn tiến âm ỉ trong nhiều năm. Khi các biến chứng lần lượt xảy ra thì việc điều trị
rất tốn kém và hồn tồn khơng khỏi. Vì vậy, kiến thức – thực hành về tuân thủ điều trị của
bệnh nhân ĐTĐ typ 2 rất quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay, trong phạm vi nghiên cứu kiến
thức, thực hành về tuân thủ điều trị bệnh ĐTĐ thì chưa thấy có nghiên cứu nào.
Thành phố Hà nội là thủ đô của nước Việt nam, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội. Với mật độ dân số đông, là nơi thu hút người dân ở các tỉnh về Hà nội làm ăn
sinh sống. Chính vì vậy, việc kiểm sốt và đưa kiến thức phịng chống bệnh ĐTĐ đến người
dân gặp rất nhiều khó khăn cho những người làm trong ngành y tế nói chung. Chương trình
khám và điều trị ngoại trú cho người bệnh ĐTĐ đã được các bệnh viện đóng trên địa bàn
thành phố Hà nội triển khai trong nhiều năm nay. Nhưng đến nay, mạng lưới chăm sóc và
quản lý người bệnh ĐTĐ hầu như chỉ dừng ở mức người bệnh đến khám định kỳ theo sổ và
cấp phát thuốc, chưa đáp nhu cầu chăm sóc tồn diện của người bệnh và khơng giám sát
được sự tuân thủ điều trị cho người bệnh ĐTĐ.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá kiến thức, thực hành về tuân thủ điều trị và
các yếu tố liên quan của bệnh nhân ĐTĐ typ 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh
pôn – Hà nội, năm 2012”. Nghiên cứu tiến hành trong thời gian từ tháng …/2012 đến tháng
…/2012. Tổng số … bệnh nhân mắc ĐTĐ typ 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh
pôn được chọn vào nghiên cứu và được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi đã thiết kế. Kết quả


nghiên cứu cho biết: i) Kiến thức của người bệnh đạt …..%, không đạt …..%. ii) Thực hành
của người bệnh đạt …..%, không đạt ……%. iii).



ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là một bệnh mạn tính, có yếu tố di truyền, do hậu quả của tình trạng
thiếu insulin tuyệt đối hoặc tương đối. Bệnh được đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết
cùng với các rối loạn về chuyển hóa đường, đạm, mỡ và chất khống [12].
Không chỉ do những di chứng để lại và các khó khăn, tốn kém trong q trình điều trị,
hiện nay bệnh đái tháo đường còn được coi là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn trên toàn
thế giới do tần suất lưu hành bệnh ngày càng gia tăng. Theo thống kê mới nhất của Tổ chức
y tế thế giới (WHO), trên thế giới cứ 10 giây lại có một người chết vì bệnh đái tháo đường.
Trung bình, một ngày có 8.700 người và một năm có 3,2 triệu người chết do đái tháo đường.
Hiện thế giới có khoảng 180 triệu người mắc bệnh đái tháo đường và con số này có thể tăng
lên 366 triệu người vào những năm 2030 [1], [13].
Ở Việt Nam, tình hình mắc bệnh ĐTĐ đang có chiều hướng gia tăng đặc biệt là tại
các thành phố lớn. Theo kết quả thống kê năm 1992 tại Hà Nội: Đái tháo đường chiếm
1,42%, Huế: chiếm 0,96% và TPHCM chiếm 2,52%. Đến năm 2001 tỷ lệ ĐTĐ tại khu vực
nội thành của bốn thành phố lớn là 4,0%, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là 5,1% và đến năm
2003 tỷ lệ ĐTĐ tại khu vực thành phố là 4,4%. Trong đó ĐTĐ typ 2 chiếm >90% tồn bệnh
nhân ĐTĐ. Do đó, chính ĐTĐ typ 2 mới gây vấn đề cho sức khỏe cộng đồng, vì tần suất nó
gia tăng song hành với sự lão hóa, đơ thị hóa, lối sống tĩnh tại và với sự béo phì ở dân số các
nước cơng nghiệp [5], [9].
Những biến chứng của ĐTĐ đã chứng minh mức độ trầm trọng của bệnh cũng như
những chi phí về kinh tế - xã hội. Để khống chế đường huyết ở mức bình thường ngồi việc
dùng thuốc giảm đường huyết nhằm khơng gây tăng hay giảm đường huyết quá mức, đồng
thời hạn chế được tình trạng tăng lipit máu làm chậm bước tiến của xơ vữa động mạch, đặc
biệt ở những người bệnh ĐTĐ typ 2, thì chế độ ăn – vận động thể lực là phương pháp điều
trị lâu dài bệnh ĐTĐ [13].


Điều trị tốt ĐTĐ nhằm nâng cao chất lượng sống, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân và
giảm chi phí cho tồn xã hội. ĐTĐ là bệnh mãn tính chưa có khả năng điều trị khỏi hồn
tồn mà phải điều trị suốt đời, dễ làm bệnh nhân chán nản bỏ cuộc, một số bệnh nhân không

hiểu được tầm quan trọng của việc dùng thuốc nhất là ĐTĐ typ 2, hoặc vì lý do kinh tế. Việc
giáo dục, tư vấn, cung cấp những kiến thức, thực hành trong việc tuân thủ điều trị lâu dài cho
bệnh nhân không chỉ phụ thuộc vào người thầy thuốc mà cần có sự hợp tác tốt giữa bệnh
nhân – gia đình – thầy thuốc để đạt hiệu quả cao trong kiểm soát đường huyết và phòng
ngừa được một số biến chứng do bệnh đái tháo đường gây nên.
Bệnh viện Xanh pôn nằm trên địa bàn quận Ba đình- Hà nội. là một bệnh viện đa
khoa cấp 1 của thành phố. Bệnh viện tiếp nhận chữa bệnh cho các đối tượng nhân dân thuộc
thành phố Hà nội. Số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện đúng tuyến và
vượt tuyến ngày một gia tăng. Để quản lý và giám sát về chế độ tuân thủ điều trị của những
người bệnh ĐTĐ tại cộng đồng là một vấn đề khó khăn đối với nhân viên y tế.
Số liệu về thực trạng bệnh đái tháo đường tại thành phố Hà nội, thông tin về các yếu
tố liên quan đến kiến thức, thực hành tuân thủ chế độ điều trị bệnh đái tháo đường là rất cần
thiết. Những số liệu này sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá đúng về tình
hình mắc bệnh, nguy cơ phát triển bệnh, hiệu quả của các biện pháp phòng chống và điều trị
để xây dựng kế hoạch quản lý, phòng chống biến chứng của bệnh đái tháo đường một cách
thiết thực nhất.
Xuất phát từ mục đích này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá kiến thức, thực
hành về tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường typ 2 đang
điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh pôn, Hà nội, năm 2012”.


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá kiến thức, thực hành về tuân thủ chế độ ăn uống, luyện tập và dùng thuốc

của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh pôn –
Hà nội, năm 2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về tuân thủ chế độ ăn uống

luyện tập và dùng thuốc của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 đang điều trị ngoại trú
tại bệnh viện Xanh pôn – Hà nội, năm 2012.



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh đái tháo đường
1.1.1. Định nghĩa: [20], [16]
ĐTĐ là một bệnh mạn tính phức tạp, có yếu tố di truyền, do hậu quả của tình trạng
thiếu insulin tương đối hoặc tuyệt đối; bệnh được đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết
cùng với các rối loạn về chuyển hóa đường, đạm, mỡ, chất khống. [20]
Bệnh đái tháo đường nếu khơng được kiểm sốt tốt, sau một thời gian tiến triển kéo
dài có thể gây nhiều biến chứng. [16]
1.1.2. Chẩn đoán bệnh đái tháo đường: [13], [6]
Việc chẩn đốn bệnh đái tháo đường sẽ khơng khó khăn khi bệnh nhân có các triệu
chứng lâm sàng cổ điển như ăn nhiều, sụt cân, đái nhiều, uống nhiều, có đường niệu và
glucose máu tăng cao. Tuy nhiên, những trường hợp có triệu chứng lâm sàng rầm rộ thường
ít gặp hoặc glucose máu lúc đói ở mức bình thường thì việc chẩn đốn hồn tồn dựa vào các
xét nghiệm hóa sinh
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1999, đái tháo đường được xác định
chẩn đốn khi bệnh nhân có bất kỳ một trong 3 tiêu chuẩn sau:
- Glucose huyết trên 11,1 mmol/l (200mg/dl) ở bất kỳ thời điểm nào. Kèm theo các triệu
chứng uống nhiều, đái nhiều, giảm cân và có glucose niệu, có thể có ceton niệu.
- Glucose huyết lúc đói trên 7 mmol/l (>126mg/dl) xét nghiệm lúc bệnh nhân đã nhịn đói
hơn 10 giờ.
- Glucose huyết sau làm nghiệm pháp tăng glucose huyết với 75 gam glucose sau 2 giờ trên
11,1 mmol/l (>200mg/dl) theo tiêu chuẩn WHO.
1.1.3. Phân loại đái tháo đường: [13], [16], [7]
Bệnh đái tháo đường được phân ra các loại sau đây:
- Đái tháo đường typ 1: (đái tháo đường phụ thuộc vào insulin) là bệnh tự miễn được đặc
trưng bởi sự phá hủy tế bào β của tuyến tụy, dẫn đến tuyến tụy không sản xuất đủ insulin



gây nên sự thiếu hụt tuyệt đối hoặc gần như tuyệt đối insulin. Bệnh được biểu hiện bằng các
triệu chứng ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, sụt cân, mệt mỏi, thay đổi thị lực. Bệnh xảy ra ở
người trẻ, phần lớn từ 10- 20 tuổi. Tỷ lệ mới mắc cao ở các gia đình có người bị đái tháo
đường phụ thuộc vào insulin. Có xu hướng biến chứng hơn mê toan huyết. Người bệnh đái
tháo đường typ 1 dễ bị tử vong nếu không được cung cấp đủ insulin hằng ngày.
- Đái tháo đường typ 2: (đái tháo đường không phụ thuộc vào insulin) là thể đái tháo đường
kháng insulin hoặc giảm khả năng bài tiết insulin, chiếm đa số bệnh nhân mắc đái tháo
đường nói chung (90%), thường xảy ra ở người lớn tuổi, nhưng có xu hướng trẻ hóa, đường
huyết thường tăng cao nhiều năm trước khi được chẩn đốn, bệnh thường biểu hiện có các
triệu chứng nhẹ, được chẩn đốn tình cờ hoặc khi bệnh đã có các biến chứng do bệnh đái
tháo đường gây nên. Đa số bệnh nhân thuộc loại béo (90% các bệnh nhân ở các nước đã phát
triển). Phần lớn bệnh đái tháo đường typ 2 là do hậu quả của tình trạng tăng cân và ít hoạt
động thể lực.
- Đái tháo đường thai kỳ: do rối loạn dung nạp glucose, xuất hiện lần đầu tiên khi có thai, và
thường mất đi sau đẻ. Loại đái đường này gặp từ 1- 2% ở người mang thai có tiền sử gia
đình có đái đường, tiền sử thai nhi chết trước khi sinh hoặc dị dạng,...
1.1.4. Dịch tễ học bệnh đái tháo đường:
1.1.4.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới:
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa rất thường gặp ở các nước phát triển
và đang phát triển, đã trở thành vấn đề y tế và xã hội nghiêm trọng. Tốc độ phát triển của
bệnh rất lớn. Nó là một trong ba bệnh (ung thư, tim mạch, đái tháo đường) phát triển nhanh
nhất. Theo cơng bố của WHO 1985 có 30 triệu người trên thế giới bị đái tháo đường thì năm
1994 là 98,9 triệu người. Theo ước tính của Viện nghiên cứu đái tháo đường quốc tế vào
năm 2000 có khoảng 157,3 triệu người và năm 2010 có 215,6 triệu người bị ĐTĐ [13].
Bệnh có xu hướng tăng rõ rệt theo thời gian và sự tăng trưởng kinh tế. Ở các nước công
nghiệp phát triển ĐTĐ type 2 chiếm 70-90% tổng số bệnh nhân bị ĐTĐ. Tuy nhiên có sự
khác nhau vì tỷ lệ mắc bệnh giữa các vùng lãnh thổ.


Theo số liệu công bố tại hội nghị ĐTĐ tháng 12 năm 1997 tại Singapore cho thấy số

bệnh nhân bị ĐTĐ ở 10 nước điển hình như sau:
Tên nước
Số bệnh nhân ĐTĐ 1995 (triệu)
Số bệnh nhân ĐTĐ 2025 (triệu)
Ấn Độ
19,4
57,2
Trung Quốc
16,0
37,6
Mỹ
13,9
21,9
Nga
8,9
12,2
Nhật
6,3
8,5
Indonesia
4,5
12,4
Brazil
4,9
11,6
Mexico
3,8
11,7
Pakistan
4,3

14,5
Ukraine
3,6
8,8
Theo thống kê về tỷ lệ bị ĐTĐ ở Trung Quốc cho thấy tỷ lệ người mắc bệnh tăng lên
rõ rệt: năm 1986 có trên 1%; năm 1994 có 2,5%. Như vậy bệnh ĐTĐ ở Trung Quốc tính từ
năm 1986 đến 1994 đã tăng 300% [13]
Theo P. Zimmet 2001 tỷ lệ ĐTĐ ở người >25 tuổi ở Úc là 7,5%; ở người <45 tuổi là
23,6%. Tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose chiếm 16,3% trong đó nữ chiếm 15,3%, nam giới
chiếm 17,3% [13].
Tại Mỹ năm 2001 công bố trong một nghiên cứu gồm 113.869 nữ giới tuổi từ 30 đến
55 tuổi, được theo dõi trong 8 năm cho thấy người có BMI từ 23-23,9 có nguy cơ ĐTĐ tăng
gấp 3,6 lần so với người có BMI < 22. Nguy cơ ĐTĐ tăng lên theo tỷ lệ tăng cân [13].
Theo dự báo về bệnh ĐTĐ của Daniel W. Foster: số người mắc bệnh ĐTĐ trên toàn
thế giới vào năm 2000 là 157,4 triệu và đến năm 2010 là 239 triệu người [24].
1.1.4.2. Tình hình mắc bệnh ĐTĐ tại Việt Nam
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu thống kê tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc mà mới chỉ tiến
hành điều tra ở một số thành phố lớn. Năm 1990 tỷ lệ ĐTĐ ở Hà Nội là 1,1%; Huế 0,96%;
TPHCM 2,52% [13], [6]. Năm 2001, điều tra dịch tễ học bệnh ĐTĐ và các yếu tố nguy cơ
tại 4 thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh) được
bệnh viện Nội tiết tiến hành ở lứa tuổi từ 30 - 64, kết quả cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở 4


thành phố lớn là 4,0%, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose (IGT) là 5,1% [4]. Tỷ lệ ĐTĐ typ 2 ở
các thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, TP.Hồ Chí Minh là 4,9%, tỷ lệ rối loạn dung nạp
glucose là 5,9% [13], [9], [6]. Tỷ lệ người có yếu tố nguy cơ đến ĐTĐ, chiếm tới 38,5% (lứa
tuổi 30 - 64) [6], [4]. Điều tra Quốc gia năm 2002 cho thấy tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo
đường ở lứa tuổi từ 30 đến 60 trong toàn quốc là 2,7% (ở khu vực đô thị và khu công nghiệp
tỷ lệ cao tới 4,4%). Đặc biệt, tỷ lệ bệnh trong nhóm người có yếu tố nguy cơ là rất cao (10%)
[6]. Theo các cuộc điều tra mới đây tại một số vùng ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam cho

thấy tỷ lệ mắc bệnh vào khoảng 3-5% [13].
1.1.5. Biến chứng đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường là bệnh nguy hiểm đe dọa đến tính mạng và gây ra nhiều biến
chứng. Theo hiệp hội đái tháo đường quốc tế, đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong
đứng hàng thứ tư hoặc thứ năm ở các nước phát triển và đang được coi là một dịch bệnh ở
nhiều nước đang phát triển, những nước mới cơng nghiệp hóa. Những biến chứng của bệnh
đái tháo đường thường rất phổ biến (50% bệnh nhân bị đái tháo đường có các biến chứng)
như bệnh mạch vành, các bệnh mạch máu ngoại vi, đột quị, bệnh lý thần kinh do đái tháo
đường, cắt đoạn chi, suy thận và mù lòa. Các biến chứng này thường dẫn đến tàn tật và giảm
tuổi thọ [14].
Khi nói về ĐTĐ thật khó nếu khơng nói đến các biến chứng của nó. Bệnh ĐTĐ được
đặc trưng bởi những biến chứng, mà nhất là những biến chứng mãn hơn là cấp:
Những biến chứng cấp, hoặc do bản thân bệnh lý tiểu đường (nhiễm ceton acid, hôn
mê tăng áp lực thẩm thấu), hoặc do điều trị (hạ đường huyết, nhiễm acid lactic)
Vào những năm 1920, nhiễm ceton acid là nguyên nhân chính gây tử vong cho bệnh nhân
ĐTĐ nhưng khi có sự xuất hiện của Insulin tỉ lệ tử vong giảm dần. Tỉ lệ mới nhiễm ceton
acid hàng năm là 12,5% bệnh nhân ĐTĐ với tỉ lệ tử vong 2 – 5% ở các nước phát triển, 6 –
24% ở các nước đang phát triển. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu có tần suất thấp hơn, khoảng
1/6 – 1/10 nhiễm ceton acid nhưng có tỉ lệ tử vong cao 20 – 60% [23], [25]. Còn nhiễm acid
lactic là một rối loạn có thể xảy ra trong nhiều bệnh cảnh lâm sàng, tỉ lệ xuất hiện 0,5 – 3,8%


các

trường

hợp

nhập


viện.

Hạ đường huyết là một trong những biến chứng thường gặp nhất xảy ra ở bệnh nhân điều trị
bằng Insulin hoặc uống Sulfonylureas đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi hoặc bệnh nhân có suy
gan, suy thận, hoặc do trì hỗn bữa ăn, hoặc vận động thể lực mà khơng cung cấp đủ calories
hoặc không giảm liều Insulin.
Tất cả bệnh nhân ĐTĐ đều bị đe dọa về lâu dài bởi những biến chứng thối hóa mãn
tính, có thể ảnh hưởng đến tiên lượng sống cịn. Những biến chứng có thể thấy cả 2 typ
nhưng một số thường gặp ở typ này hơn typ kia: suy thận liên quan đến vi mạch thận là
nguyên nhân gây tử vong ở typ 1, trong đó biến chứng mạch máu lớn hay gặp ở typ 2. Mặc
dù mù xỷ ra ở cả 2 typ; thường là bệnh: võng mạc tăng sinh, xuất huyết thủy tinh thể, bóc
tách võng mạc hay gặp typ 1, cịn vết phù và thiếu máu hoặc đục thủy tinh thể thường gặp
typ 2. Tương tự bệnh thần kinh do ĐTĐ thường gặp cả 2 typ; bệnh thần kinh tự chủ với liệt
dạ dày, tiêu chảy, nhịp nhanh lúc nghỉ, tụt huyết áp tư thế thường gặp ở typ 1.
Nước ta chỉ mấy năm gần đây chuyên ngành nội tiết mới phát triển mạnh, cả nước chỉ
có 2 trung tâm có câu lạc bộ về ĐTĐ là: TP.HCM và Hà Nội. Trong khi ở các nước phát
triển, vấn đề giáo dục bệnh nhân ĐTĐ đã được tiến hành từ những thập niên về trước.
Ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 do bản chất của bệnh rất phức tạp với tình trạng đề kháng
insulin và suy tế bào bêta kết hợp ở nhiều mức độ khác nhau trên từng bệnh nhân. Vì đa số
bệnh nhân ĐTĐ typ 2 đều khơng có triệu chứng lâm sàng nên dễ đưa đến hiểu lầm là ĐTĐ
typ 2 là một bệnh nhẹ, khơng cần điều trị tích cực và nhiều bệnh nhân chết trước khi biến
chứng xuất hiện
1.1.6. Điều trị bệnh đái tháo đường
1.1.6.1.

Chiến lược điều trị ĐTĐ

Quản lý thành cơng một bệnh nhân ĐTĐ cần có 1 đội ngũ tham gia: bệnh nhân, thầy
thuốc, y tá, nhà dinh dưỡng, chuyên gia chăm sóc bàn chân, chuyên gia tâm lý, chuyên viên
thể thao (VĐTL). Vấn đề này đã được nhấn mạnh và quan tâm coi việc chăm sóc và điều trị

bệnh ĐTĐ là cơng việc tập thể [15].


1.1.6.2.

Mục tiêu giáo dục

Từ những thập niên trước đã có nghiên cứu về thái độ đối với bệnh ĐTĐ của chính
bệnh nhân cũng như những chun khoa có liên quan ở các nước có nền cơng nghiệp cao,
nhưng kết quả chưa khả quan, mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn nhưng vẫn có những trở
ngại khách quan: tài chính, nhân lực, địa dư…Để bệnh nhân tuân thủ điều trị, quả là vấn đề
nan giải. Theo các kết quả nghiên cứu cũng như các tài liệu thì chế độ điều trị phải theo từng
bước, nhưng mục tiêu chung của ĐTĐ vẫn là:
Giảm các triệu chứng
Cải thiện chất lượng cuộc sống
Ngăn ngừa biến chứng cấp – mãn
Giảm tỷ lệ tử vong
Điều trị thích hợp các bệnh lý đi kèm.
1.1.6.3.

Nguyên tắc điều trị

Để điều trị đạt kết quả cần kết hợp giữa chế độ dùng thuốc, chế độ luyện tập và chế
độ ăn uống đúng. Điều quan trọng là những chế độ này là khác nhau đối với mỗi người,
thậm chí ở cùng một người bệnh là khác nhau theo từng giai đoạn bệnh. Việc tìm ra một chế
độ điều trị thích hợp cho mỗi người địi hỏi nhiều cơng phu, khơng chỉ từ phía người thầy
thuốc mà cịn cần phối hợp bệnh và gia đình họ [8].
*Với người đái tháo đường typ 1: Bắt buộc phải điều trị bằng insulin
Mục đích điều trị để đạt được:
- Mức glucose máu trước ăn là 4- 7mmol/l.

- Mức glucose máu sau ăn là 5- 10mmol/l.
- Mức HbA1c máu < 6,5%.
a. Sử dụng insulin: Phải xem sử dụng insulin như một nghệ thuật điều trị bệnh. Ln cần
có sự điều chỉnh về liều lượng, về đường tiêm truyền insulin trong những điều kiện khác
nhau [8].
- Theo dõi điều trị insulin


- Theo dõi các biến chứng:
+ Hạ glucose máu
+ Dị ứng insulin
+ Kháng insulin do miễn dịch
+ Phản ứng tại chỗ tiêm insulin
b. Chế độ ăn uống
Chế độ ăn uống là nguyên tắc cơ bản trong điều trị đái tháo đường, tuy nhiên theo nhiều
nghiên cứu cho tới nay già nửa số người bệnh chưa kiểm soát được chế độ ăn [8].
Nguyên tắc: Chế độ ăn phải đủ năng lượng để duy trì cân nặng lý tưởng, đảm bảo sự phát
triển bình thường người bệnh (thường trẻ em và vị thành niên)
Người ta thường chia các bữa ăn trong ngày như sau:
+ Bữa sáng: sau tiêm 30 phút
+ Bữa phụ: sau tiêm mũi thứ nhất 3 giờ
+ Bữa trưa: sau tiêm mũi thứ nhất 5 giờ
+ Bữa phụ ngang chiều: sau tiêm mũi thứ nhất 7- 8 giờ
+ Bữa tối: sau tiêm mũi thứ 2 từ 60- 90 phút, phụ thuộc vào thời gian tiêm insulin nhanh.
+ Bữa phụ vào lúc đi ngủ: sau mũi tiêm buổi tối 3 giờ
Thành phần và tỷ lệ năng lượng (giống như người bệnh ĐTĐ typ 2).
c. Chế độ luyện tập
Luyện tập là phương pháp dự phòng tăng cân trở lại ở những người bệnh điều trị insilin tích
cực. Có sự phân biệt về luyện tập cho đái tháo đường typ 1 và cho ĐTĐ typ 2. Người ĐTĐ
typ 2 luyện tập có mục đích là để tăng tiêu hao năng lượng nhằm tạo ra cán cân thăng bằng

năng lượng âm tính. Người bệnh ĐTĐ typ1 luyện tập ngồi các mục đích chung là làm tăng
độ nhạy cảm của insulin, tăng cường trương lực cơ, cơ lực; vấn đề cung cấp không chỉ cho
đủ phần năng lượng bị mất đi khi luyện tập mà còn phải đủ nhu cầu phát triển cho cơ thể cả
về thể lực lẫn trí tuệ.
Luyện tập phải phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe và sở thích cá nhân [8].


*Với người đái tháo đường typ 2
a.Chế độ ăn
Khác với ĐTĐ typ 1, mục đích của chế độ ăn nói riêng và điều trị nói chung của
người mắc bệnh ĐTĐ typ 2 là phải đạt được mục đích giảm cân, nhất là đối với người thừa
cân, béo phì.
-Những cân nhắc đặc biệt trong duy trì chế độ ăn.
Trên thực tế đây là những nguyên tắc thiết lập chế độ dinh dưỡng cho người bệnh ĐTĐ. Chế
độ ăn trong ĐTĐ là một biện pháp điều trị. Trong lịch sử phát triển, chế độ dinh dưỡng cho
người bệnh ĐTĐ qua nhiều thay đổi, tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, của những
hiểu biết về bệnh ĐTĐ.
+ Một chế độ ăn thích hợp phải đáp ứng được các u cầu:


Đủ năng lượng cho hoạt động bình thường, chế độ này phải đáp ứng phù hợp với
những hoạt động khác như luyện tập thể lực, hoặc những thay đổi điều kiện sống v.v.



Tỷ lệ cân đối giữa các thành phần đạm, mỡ, đường



Đủ vi chất.




Chia nhỏ bữa ăn cho phù hợp và tránh tăng đột ngột glucose máu.



Phối hợp với thuốc điều trị (nếu có).

+ Chế độ ăn rất quan trọng là vì:
• Khơng tạo ra sự dư thừa nặng lượng. Thừa nặng lượng là nguyên nhân gây thừa cân,
béo phì, cũng là nguyên nhân gây ra các bệnh lý chuyển hóa như rối loạn lipid, tăng
acid uric v.v.
• Ăn đúng mới duy trì được lượng glucose máu phù hợp, khơng gây thừa, gây nhiễm
độc đường hoặc không gây hạ đường máu vì chế độ ăn khắc khổ, thiếu năng lượng.
Như vậy, khơng thể có một chế độ ăn chung cho tất cả mọi người mắc bệnh ĐTĐ. Để có
một chế độ phù hợp cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh, cận phải có
thời gian để đánh giá cho đúng.


+ Theo nhiều nghiên cứu, nhu cầu năng lượng đảm bảo cho hoạt động của một người bình
thường ở nữ là 30- 35 calo/kg/ngày; ở nam là 35- 40 calo/kg/ngày. Tổng lượng calo này
được chia ra với các tỷ lệ khác nhau về đường, đạm, mỡ cho phù hợp.
b. Lựa chọn chế độ ăn
- Chế độ ăn xơ: Thành phần thực vật trong chế độ ăn này chiếm chủ yếu, gồm các thành
phần như cellulose, kẹo cao su và pectin.
+ Các chất xơ đặc như cellulose hoặc bán cellulose như cám, có xu hướng tăng thời gian vận
chuyển qua ruột non, loại này có thể có ích cho chức năng đại tràng.
+ Các chất xơ lỏng: như gum và pectin thường thấy trong đậu và bột yến mạch, vỏ táo.
Chúng đều có xu hướng giảm thời gian vận chuyển qua dạ dày và ruột để hấp thu glucose

thấp hơn và hạn chế được sự tăng glucose máu.
-Lựa chọn chế độ ăn dựa vào chỉ số glucose máu:
Jenkin (1981) đưa ra chỉ số glucose máu- Glycemic Index (GI) – để tìm mối liên quan
giữa các thực phẩm có lượng carbohydrat khác nhau. Theo Jenkin, GI là mức glucose máu 3
giờ sau ăn của một thức ăn định nghiên cứu có chứa 50 carbohydrat với mức glucose máu 3
giờ sau ăn được coi là glucose máu (g/l), trục hoành là thời gian (giờ), S1 là diện tích
glucose máu của thực phẩm định nghiên cứu, S2 là diện tích thức ăn chuẩn, ta có:
GI = S1/S2 x 100
Trước đây thực phẩm chuẩn thường là glucose, hiện nay người ta lấy bánh mì trắng
làm thực phẩm chuẩn.
Dùng các loại thức ăn có chỉ số GI thấp trong đái tháo đường typ 2 sẽ dễ kiểm tra
glucose máu hơn, cải thiện chuyển hóa lipid tốt hơn.
Bảng: Chỉ số glucose máu (GI) của một số loại thức ăn [8].
Thức ăn
Họ đậu
SP từ sữa
Trái cây
Bánh qui

GI (%)
15- 45
30- 45
45- 65
50- 65

Ghi chú
Đậu lăng 30%
Sữa không kem, kem lạnh
Cam, táo tây, nho, chuối



Ngũ cốc
40- 70
Đường tinh
20- 100
Các loại củ
45- 90
c. Chia theo mức độ của GI

Mì sợi, mì trắng, gạo đỏ, bánh mì 68%, gạo trắng 70%
Fructose, saccharose, glucose
Khoai lang, sắn (mì: 50%, khoai tây: 65- 80%, cà rốt 90%

-GI cao: Đường, đỗ có đường, mật ong, khoai tây nghiền luộc, bánh mì trắng, chuối.
-GI vừa: Gạo (cơm), bánh bích qui, bánh ngọt.
-GI thấp: Mì sợi, tấm, sữa khơng đường, sữa chua, rau khô, đậu lăng, táo tây, cam.
d. Nhu cầu và tỷ lệ các chất dinh dưỡng cho người bệnh đái tháo đường typ 2
- Nhu cầu dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường:
Cũng giống như người bình thường, nhu cầu dinh dưỡng của người bệnh đái tháo đường
thay đổi giữa các cá thể. Khi lập chế độ dinh dưỡng cần lưu ý các đặc điểm sau:
+ Tuổi: Tuổi đang lớn cần calo nhiều hơn người lớn tuổi.
+ Công việc của người bệnh.
+ Thể trạng người bệnh.
- Tỷ lệ các chất dinh dưỡng:
Nguyên tắc: Phải hạn chế glucid
Không thể bỏ chất béo, tuy chất béo dễ gây xơ vữa động mạch (nhất là chất béo bão hòa)
nhưng lại là chất cung cấp nhiều năng lượng
Bảng: Một số khuyến cáo về các tỷ lệ thành phần bữa ăn cho người mắc bệnh ĐTĐ.
Thành phần
Glucid

Protid
Lipid
*
Việt nam đề nghị 60- 65%.

ADA (%)
50- 60
15- 20
35

Các tài liệu khác (%)
55- 60*
15- 20
30**

**

Việt nam đề nghị 15- 20%.

- Điều chỉnh nhu cầu năng lượng:
Trong một số trường hợp cần điều chỉnh mức năng lượng cho phù hợp với đặc điểm
nghề nghiệp.
Bảng: Nhu cầu năng lượng điều chỉnh theo giới và mức lao động nặng nhẹ


Mức lao động
Nam
Tĩnh tại
30Kcal/kg
Vừa

35Kcal/kg
Nặng
45Kcal/kg
- Các thức ăn thay thế cùng nhóm

Nữ
25Kcal/kg
30Kcal/kg
40Kcal/kg

+ Glucid: ngũ cốc và sản phẩm từ ngũ cốc, rau, củ, quả.
+ Protid: Thịt, cá, thủy sản và các sản phẩm chế biến
+ Lipid: Dầu, mỡ.
+ Sữa và các sản phẩm từ sữa.
+ Đường, bánh. Mứt, kẹo.
+ Rượu và đồ uống có ga.
- Lựa chọn thức ăn theo hàm lượng glucid
+ ≤ 5% glucid: đa số là rau xanh; ăn tự do.
+ Từ 10% đến 20% glucid: ăn hạn chế.
+ > 20% glucid: không ăn.
- Vitamin và các vi chất khác
Đối với người bệnh ĐTĐ, trong chế độ ăn cần đặc biệt chú ý việc bồi phụ kali, một
chất điện giải thường có nồng độ thấp ở nhóm này. Kali thường có hàm lượng cao trong các
thức ăn như cá biển. Ngược lại, nên hạn chế natri.
Rau quả tươi có nhiều vitamin, là loại thực phẩm có sẵn ở nước ta.
e. Phân bố bữa ăn
Phân bố thức ăn vào các bữa cho người bệnh nhằm mục đích duy trì hàm lượng
glucose trong máu tương đối ổn định, không để xảy ra tăng glucose máu đột ngột sau ăn;
tránh hạ glucose ban đêm, tránh hiện tượng Somogyi vào buổi sang (tăng glucose máu thứ
phát sau hạ đường máu).

Trong thực tế, người bệnh vẫn duy trì 3 bữa ăn chính là bữa sáng, bữa trưa, bữa tối,
còn việc thực hiện các bữa phụ vào giữa buổi sáng, giữa buổi chiều nhiều khi khó thực hiện


ở một số đối tượng, bữa ăn nhẹ trước khi đi ngủ là cần thiết vì tránh được tai biến hạ glucose
máu ban đêm và hiệu ứng Somogyi vào buổi sáng hôm sau.
f. Chế độ luyện tập
Chế độ luyện tập cần theo những nguyên tắc cơ bản:
- Phải coi luyện tập là một biện pháp điều trị, phải thực hiện nghiêm túc theo trình tự được
hướng dẫn.
- Có sự phân biệt về mức độ và hình thức luyện tập giữa người bệnh ĐTĐ typ 1 và ĐTĐ typ
2.
- Luyện tập phải phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe và sở thích cá nhân.
- Nên tập những mơn rèn luyện sự dẻo dai bền bỉ hơn là những môn cần sử dụng nhiều thể
lực.
Những việc cần làm trước khi luyện tập
Phải đánh giá tình trạng người bệnh trước khi luyện tập vì:
- Cả người bệnh ĐTĐ typ 1 và typ 2, đặc biệt người bệnh ĐTĐ typ 2, đều có tỷ lệ biến
chứng về bệnh lý tim mạch cao. Nhưng bệnh mạch vành ở người bệnh ĐTĐ lại thường
không có triệu chứng lâm sàng.
- Những người có bệnh mạch vành thường tăng nguy cơ bị biến cố tim cấp tính hoặc ngay
sau khi luyện tập.
- Tiến hành nghiệm pháp luyện tập không xâm nhập trước khi bắt đầu chương trình luyện
tập có thể được sử dụng ở người bệnh như một test để đánh giá nguy cơ tim mạch, từ đó đưa
ra các khuyến cáo luyện tập cụ thể.
- Các yếu tố nguy cơ truyền thống, như bệnh thần kinh tự động, bệnh mạch máu ngoại vi là
các yếu tố dự báo quan trọng của nguy cơ tim mạch của người bệnh đái tháo đường.
Các chỉ số cần thu thập, đánh giá, theo dõi
- Đánh giá sự kiểm soát glucose máu.
- Có hay khơng các biến chứng của ĐTĐ.

- Tình trạng tim mạch, huyết áp, trí nhớ.


- Tình trạng bàn chân và tuần hồn ngoại vi.
- Tình trạng đáy mắt.
- Hướng dẫn người bệnh tự theo dõi trước và sau khi luyện tập.
- Cần lưu ý theo dõi người cao tuổi bị mắc ĐTĐ typ 2 khi luyện tập vì nhóm đối tượng này
thường có nhiều bệnh tiềm ẩn đi kèm. Do vậy phải thăm khám kỹ để thiết lập chế độ luyện
tập phù hợp. Người cao tuổi thường chỉ có tăng glucose máu nhẹ, chỉ cần điều chỉnh bằng
chế độ ăn và chế độ luyện tập là đủ để đưa nồng độ glucose máu trở về bình thường. Trường
hợp này ít khi xảy ra hạ glucose máu khi luyện tập.
Người ĐTĐ typ 2 luyện tập nhằm đạt được tác dụng điều chỉnh glucose máu thông
qua việc làm giảm tình trạng kháng insulin nhờ:
+ Giảm cân nặng, nhất là những đối tượng thừa cân, béo phì.
+ Giảm kháng Insulin.
Để đạt được mục đích này hàng ngày phải luyện tập khoảng 30- 45 phút, mỗi tuần tập
ít nhất là từ 4 đến 5 ngày.
g. Thuốc điều trị trong đái tháo đường typ 2
Mục đích
Điều trị bằng thuốc trong ĐTĐ typ 2 nhằm:
- Giảm cân nặng (với người béo) hoặc không tăng cân (với người không béo).
- Duy trì được lượng glucose máu khi đói, glucose máu sau ăn gần như mức độ sinh lý, đạt
được mức HbA1c lý tưởng, sẽ giảm được các biến chứng có liên quan đến ĐTĐ, giảm tỷ lệ
tử vong do ĐTĐ.
Nguyên tắc
- Dùng thuốc phải kết hợp với chế độ ăn và luyện tập.
- Phải phối hợp điều trị hạ glucose máu, điều chỉnh các rối loạn lipid, duy trì số đo huyết áp
hợp lý, chống các rối loạn đông máu…
- Khi cần thiết thì phải dùng insulin.
Việc lựa chọn thuốc điều trị đái tháo đường typ 2 được nêu như sau:Hình 4



Thuốc uống điều trị ĐTĐ
g. Sử dụng thuốc hạ glucose máu
Ngày nay người ta chỉ định thuốc theo mục tiêu “đưa lượng glucose máu nhanh
chóng về mức sinh lý” và “nhanh chóng đạt mức HbA1c ≤ 6,5”. Cụ thể là:
- Nếu mức glucose huyết tương lúc đói > 13,0mmol/l và mức HbA1c >9,0 có thể dùng ngay
các thuốc viên phối hợp. Sau 3 tháng kiểm tra lại nếu HbA1c vẫn cao có thể xét phối hợp với
insulin để đưa HbA1c về ≤ 6,5.
- Nếu mức glucose huyết tương lúc đói > 15,0mmo/l và mức HbA1c > 9,0 có thể dùng ngay
insulin đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc viên hạ glucose máu.
- Khi lượng glucose huyết tương lúc đói > 10mmol/l, dù người bệnh được phát hiện lần đầu
vẫn có thể chỉ định dùng phối hợp ngay các thuốc viên để nhanh chóng hạ mức glucose máu.
1.1.7. Lịch theo dõi và các chỉ tiêu cần đánh giá của người bệnh đái tháo đường
Đây là điều đặc biệt quan trọng, bởi vì:
- Người thầy thuốc lâm sàng dù có kinh nghiệm đến bao nhiêu đi nữa cũng không thể dùng
kinh nghiệm để thay thế các chẩn đoán, nhất là các biến chứng, thường chỉ phát hiện được
nhờ các thăm dò bằng phương tiện kỹ thuật cao.
- Bệnh càng được phát hiện sớm các tổn thương, can thiệp kịp thời càng đem lại hiệu quả
tích cực, chi phí sẽ được tiết kiệm. Đây cũng chính là phương pháp phịng bệnh tích cực, chi
phí sẽ được tiết kiệm. Đây cũng chính là phương pháp phịng bệnh tích cực- phịng các biến
chứng. Ngược lại, người bệnh càng có biến chứng nhiều, biến chứng nặng, chi phí cho việc
thăm dị càng tốn kém nhưng hiệu quả can thiệp lại hạn chế. Đây cũng chính là nguyên nhân
người ta khuyến cáo nên gửi người bệnh ĐTĐ lần đầu được phát hiện đến những trung tâm
điều trị có kinh nghiệm nhất.
- Tạo ra thói quen cần thiết cho cả người bệnh và thầy thuốc để theo dõi, đánh giá chặt chẽ
tình trạng người bệnh.
1.1.7.1. Theo dõi thường qui



- Những theo dõi định kỳ về sinh hóa: để điều chỉnh các chỉ số về glucose, lipid, đông máu
cho cả người ĐTĐ typ 1 và typ 2.
- Glucose huyết tương lúc đói: có thể lúc đầu mỗi tháng một lần. Khi đã ổn định có thể 3
tháng một lần.
Trường hợp đặc biệt (mắc bệnh cấp tính hoặc sau phẫu thuật,…) định lượng glucose
máu theo chỉ định của bác sĩ.
- Creatinin, ure huyết tương thường được làm cùng với glucose huyết tương lúc đói.
- Các thăm dị chức năng gan nên được tiến hành trước, trong và sau một thời gian sử dụng
thuốc mới.
- HbA1c: là chỉ số đánh giá kết quả quản lý lượng glucose máu trung thành nhất. Buộc phải
làm 3 tháng/lần, nếu khơng có điều kiện thì 6 tháng/lần. Những cơ sở chưa có HbA1c có thể
thay bằng theo dõi lượng glucose huyết tương. Trong trường hợp này mức glucose huyết
tương lúc đói phải ln bằng và/hoặc thấp hơn 6,0mmol/l.
- Microalbumin niệu: phải được thăm dò ngay khi mới phát hiện bệnh (với người ĐTĐ typ
2) và thường sau 3- 5 năm (với người ĐTĐ typ 1). Sau đó hàng năm phải được kiểm tra lại
tùy theo chỉ định của thầy thuốc.
- Độ ngưng tập tiểu cầu: Được theo dõi khi có chỉ định dùng các thuốc như aspirin, asperic
và các thuốc chống đông máu khác. Thường 3 tháng một lần.
- Các chỉ số về lipid máu thường 3- 6 tháng một lần. Trường hợp đặc biệt chỉ định theo tình
trạng người bệnh và nhu cầu điều trị.
1.1.7.2. Đánh giá hệ thống hormon đối lập
Thường 1 năm một lần.
1.1.7.3. Những thăm khám định kỳ khác
- Khám bàn chân người đái tháo đường
Khám lâm sàng (sử dụng dụng cụ) thường để đánh giá tình trạng chung như nhiệt độ, tình
trạng mạch máu, tình trạng thần kinh cảm giác, thần kinh vận động.
+ Khám lần đầu tiên


+ Sau đó 3- 6 tháng/lần

Sử dụng các kỹ thuật thăm dị khác để đánh giá tình trạng mạch máu và thần kinh
+ Định kỳ 1 năm/ lần.
- Khám đáy mắt: Người ĐTĐ typ 1thường có biến chứng đáy mắt sau 5 năm bệnh được phát
hiện, còn người ĐTĐ typ 2 thì thường có ngay tại thời điểm phát hiện. Người ta cũng chia ra
lịch khám đáy mắt tùy theo mức độ bệnh. Ở đây chỉ qui định cho người ĐTĐ chưa có biến
chứng võng mạc
+ Khám lâm sàng 6 tháng/lần với người được phát hiện bệnh dưới 5 năm; 3 tháng/lần với
người từ 5 năm trở lên.
+ Chụp đáy mắt thường từ 6 đến 12 tháng/ lần. Tùy theo mức độ tổn thương lâm sàng.
- Thăm dò đánh giá chức năng hệ tim mạch:
+ Tùy theo tình trạng người bệnh có thể phải làm bất kỳ lúc nào nếu người thầy thuốc thấy
cần.
+ Những theo dõi định kỳ:
. Điện tim: thường 3 tháng/lần
. Theo dõi số đo huyết áp, phải làm thường xuyên. Nên hướng dẫn người bệnh biết cách tự
theo dõi số đo huyết áp và những thay đổi có thể cảm nhận được do sự thay đổi của huyết áp
gây ra.
- Chụp xquang tim phổi thường 6 tháng/ lần cùng với xét nghiệm về công thức máu, tốc độ
máu lắng.
- Kiểm tra, đánh giá tài liệu, theo dõi chế độ ăn uống, chế độ luyện tập, đo chỉ số khối cơ thể
thường 6 tháng/lần.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước:
1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới:
Rodger W ở trung tâm ĐTĐ Lawsn London cho rằng việc theo dõi ĐTĐ typ 2 bao
gồm khám bác sĩ, tiếp cận với việc giáo dục cho người bệnh, tự kiểm tra ĐH, đường niệu
thường xuyên và định lượng HbA1C định kỳ [26].


×