Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp Nghiên cứu đa dạng thực vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.1 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

---------------------------

NGUYỄN HỮU CƯỜNG

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG THỰC VẬT TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊNNHIÊN PÙ HU, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số : 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
HƯỚNG DẪN CHÍNH:
HƯỚNG DẪN PHỤ:

HÀ NỘI, 2010

TS. HỒNG VĂN SÂM
TS. NGUYỄN VĂN DƯ


1

ĐẶT VẤN ĐỀ


Khu BTTN Pù Hu được UBND tỉnh Thanh Hoá quyết định thành lập năm
1999, theo sự đồng ý của Chính Phủ. Với tổng thể diện tích của đơn vị quản lý là
27.502,89 ha, bao gồm 16.264,74 ha rừng cần được bảo vệ nghiêm ngặt; 11.238,15
ha rừng phục hồi sinh thái tạo thành một thảm thực vật khổng lồ trải khắp 11 xã của
2 huyện vùng cao, biên giới là Quan Hoá và Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá. Trụ sở
của khu bảo tồn nằm trên địa phận hành chính của xã Xuân Hoa, huyện Quan Hóa,
tỉnh Thanh Hóa. Khu BTTN Pù Hu là một khối núi nằm ở phía Tây của vành đai
núi đá vôi Chạy theo hướng Tây- Nam, từ khu BTTN Pù Luông tới VQG Cúc
Phương với thành phần địa chất chủ yếu là núi đất. Nơi đây có hai kiểu rừng chính:
rừng thường xanh đất thấp phân bố ở độ cao dưới 700 m, với các loài thực vật ưu
thế thuộc họ Đậu - Fabaceae, họ Xoan - Meliaceae và họ Bồ hòn - Sapindaceae.
Kiểu rừng thường xanh núi thấp phân bố ở độ cao trên 700 m, với các loài thực vật
ưu thế của họ Dẻ - Fagaceae, họ Dâu tằm - Moraceae và họ Re - Lauraceae. Theo
những thông tin từ đợt khảo sát thực địa của tỉnh Thanh Hố 1997 thì Pù Hu có 509
lồi thực vật bậc cao. Song từ đó cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu
nào có tính hệ thống về khu hệ thực vật, tổ thành thực vật cũng như việc đánh giá
tính đa dạng thực vật của khu bảo tồn.
Việc điều tra, đánh giá tài nguyên thực vật là hết sức quan trọng, bởi nó cung
cấp những tài liệu khoa học chính xác và cập nhật làm cơ sở cho việc đề xuất hướng
bảo vệ đa dạng sinh học ở khu bảo tồn.
Bên cạnh đó vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn nguồn
gen nói riêng sẽ có hiệu quả hơn nếu như ta có sự đánh giá và phân tích tính đa
dạng một cách tổng quát hơn, đồng thời nghiên cứu bổ sung những mặt còn thiếu
như danh lục thực vật, dạng sống, công dụng, các quần xã thực vật, các nguyên
nhân gây suy giảm đa dạng sinh học, tại khu Bảo tồn. Xuất phát từ những lý do trên
tôi đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu đa dạng thực vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, tỉnh Thanh Hoá”.


2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về thảm thực vật
Thảm thực vật là lớp thảm xanh phủ trên bề mặt trái đất, hoặc là toàn bộ lớp
phủ thực vật ở một vùng cụ thể nào đó hay toàn bộ bề mặt của đất. Như vậy, thảm
thực vật mới chỉ là một khái niệm chung, chưa chỉ rõ một đối tượng cụ thể nào. Đây
là một khái niệm bao gồm nhiều thuật ngữ đã được cụ thể hoá như: quần hợp, quần
xã, quần hệ, hệ sinh thái, sinh địa quần lạc, thực vật địa quyền…được các nhà khoa
học sử dụng từ những năm đầu của thế kỷ 20.
Khái niệm về thảm thực vật được hội nghị Quốc tế ngành sinh học lần thứ 6
tổ chức tại Paris (1954) thông qua: thảm thực vật là những tập thể cây cỏ lớn đem
lại một hình dáng đặc biệt cho phong cảnh do sự tập hợp nhưng cây cỏ khác loài
nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế [18,49].
Thành phần chủ yếu của thảm thực vật là cây cỏ, những đối tượng nghiên
cứu về thảm thực vật là tập thể cây cối hình thành do một số lượng những cá thể của
các lồi thực vật hợp lại. Tuy nhiên, khơng phải tất cả các nhà nghiên cứu về thảm
thực vật đều hồn tồn nhất trí với nhau về đơn vị nghiên cứu cơ bản.
Một số nhà nghiên cứu như: Negri (Italia); Gleason, Curtis (Hoa Kỳ);
Whittaker, Brown (Anh); Fournier, Lenoble (Pháp)…cho rằng thảm thực vật bao
gồm những tập hợp ngẫu nhiên của cá thể các lồi cây, tập hợp này ln ln thay
đổi và khơng có danh giới rõ rệt. Những người theo trường phái này, trường phái cá
thể không xem thảm thực vật như là những đơn vị quần thể riêng biệt hợp thành, tức
là phủ nhận sự tồn tại của các quần thể [18,49].
Phần đông các nhà bác học trên thế giới như: Braun – Blauquet, Pavilard
(Pháp); Durietz, Rubel (Scandinavi); Weaver, Clement (Anh); Walter (Đức);
Shoo, Tuen (Hungari); Pavloxki (Balan); Sucasep, Lavrenko (Nga)… đều nhất trí
cho rằng đối tượng nghiên cứu cơ bản của thảm thực vật là những quần thể thực vật.
Theo quan điểm này – quan điểm quần thể, thì thảm thực vật bao gồm những đơn vị
củ thể có hình dáng, cấu trúc, thành phần, ranh giới, trạng mùa, động thái, vùng
phân bố… đều dựa trên cơ sở sinh thái học và địa lý thực vật học [18,49]



3

1.1.1. Nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
Theo Schmitthusen (1959), ở châu Âu có 2 hệ thống phân loại thảm thực vật
chủ yếu đó là hệ thống phân loại các quần xã thực vật của Braun – Blanquet (1928),
được thực hiện chủ yếu bởi các nhà thực vật học theo trường phái của Pháp và hệ
thống phân loại các quần thực vật chủ yếu được thực hiện bởi những nhà địa thực
vật của Đức [18,49].
Về phân loại rừng phục vụ các mục đích kinh doanh rất đa dạng với nhiều
trường phái và phương pháp phân loại khác nhau như: trường phái Liên Xô, trường
phái Pháp, trường phái Hà Lan, trường phái Hoa Kỳ, Canada… Nói chung tuỳ theo
mục đích nghiên cứu mà mỗi trường phái lựa chon mục đích chủ đạo và đưa ra
nguyên tắc phân loại khác nhau. Vấn đề này đã được Phùng Ngọc Lan (1986) tổng
kết rất đầy đủ trong giáo trình “ Nguyên lý lâm sinh học”[28].
Liên Xơ là một nước có lịch sử lâu dài về vấn đề phân loại rừng theo điều
kiện tự nhiên. Tuy nhiên phải đến đầu thế kỷ 20, Mơrơdơp G.F mới là người đặt nền
móng vững chắc cho vấn đề phân loại rừng phục vụ kinh doanh
[18,49]. Theo ông, thì kiểu rừng là tập hợp các lâm phần có thể khác nhau về những
đặc trưng thứ yếu nhưng tương tự nhau về lập địa, đặc biệt là về nhân tố thổ
nhưỡng. Ông đã tiến hành phân loại rừng theo 5 yếu tố thành rừng:
 Đặc tính sinh thái học của lồi cây cao.
 Hồn cảnh địa lý (khí hậu, thổ nhưỡng, địa chất…).
 Quan hệ giữa các thực vật tạo nên quần lạc và quan hệ giữa chúng với động vật.
 Nhân tố lịch sử địa chất.
 Tác động của con người.
Kế thừa học thuyết của Môđôđốp G.F. và trên quan điểm coi rừng là một
sinh địa quần lạc, Sucasep V.N. đã xây dựng nên trường phái phân loại kiểu rừng
mà theo ơng thì phải dựa vào những đặc điểm tổng hợp để phân loại. Khi tiến hành

phân loại rừng thì yếu tố đều tiên cần phải chú ý là địa hình, sau đó là thực bì và thổ
nhưỡng (ở đây địa hình tuy khơng phải là thành phần của quần lạc sinh địa nhưng
nó nhân tố có ảnh hưởng lớn đến điều kiện hồn cảnh, thơng qua đó có ảnh hưởng


4

đến các thành phần khác của sinh địa quần lạc). Sucasep chủ trương dùng các đơn
vị phân loại cơ bản của quần lạc thực vật là quần hợp để xác định ranh giới của kiểu
quần lạc sinh địa, vì nó có khả năng phản ánh điều kiện khí hậu thổ nhưỡng của
quần lạc sinh địa [18,49].
Học thuyết phân loại kiểu rừng của Sucasep dựa trên nguyên lý sinh địa quần
lạc đã có tác dụng phục vụ thiết thực cho cơng tác kinh doanh rừng ở các nước
thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu. Cũng xuất phát từ quan điểm coi
rừng là thể thống nhất giữa sinh vật rừng và hồn cảnh, Pơgrepnhiac P.S. cho rằng
hồn cảnh là cái có trước, chủ đạo, tương đối ổn định và nhiệm vụ của việc phân
loại kiểu rừng là phải đánh giá đầy đủ khả năng của nguồn tài nguyên về sinh thái
học [18,50]. Vì vậy, tốt nhất là nên dựa vào điều kiện lập địa để phân loại kiểu rừng.
Ông đưa ra hệ thống phân loại bao gồm 3 cấp như sau:
 Kiểu lập địa
 Kiểu rừng
 Kiểu lâm phần
Kiểu lập địa: là cấp phân loại lớn nhất bao gồm mọi khu đất có điều kiện thổ
nhưỡng giống nhau kể cả khu đất có rừng và khơng có rừng. Trong điều kiện thổ
nhưỡng thì độ phì và độ ẩm được chú trọng hơn cả.
Kiểu rừng: là tổng hợp những khu đất có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu giống
nhau. Như vậy, kiểu rừng là kiểu lập địa trong một điều kiện khí hậu nhất định, bất
kể là khu đất có rừng hoặc khơng có rừng. Bởi vì nếu điều kiện thổ nhưỡng khí hậu
giống nhau sẽ dẫn đến khả năng xuất hiện rừng nguyên sinh tương tự.
Kiểu lâm phần: trong cùng một kiểu rừng, nhưng do tác động của các nhân tố bên

ngoài khác nhau như cháy rừng, khai thác,… có thể xuất hiện các quần xã thực vật
thứ sinh có cấu trúc khác nhau. Kiểu lâm phần bao gồm những khoảng rừng giống
nhau cả về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và quần xã thực vật.
Học thuyết phân loại kiểu rừng của Pơgrepnhiac đã tìm thấy sự hưởng ứng rộng rãi,
vì nó đáp ứng được u cầu của công tác trồng rừng.


5

Các học thuyết phân loại rừng ở Liên Xô trước đây đã có ảnh hưởng đến các
nước khác như: Ba Lan, Hungari… thường phân loại rừng theo kiểu lập địa, cịn ở
Tiệp Khắc có trường phái Brơnơ do Zlatnic đứng đầu, dựa trên cở sở học thuyết
sinh địa quần lạc của Sucasep. Đơn vị kiểu rừng của trường phái này bao gồm các
kiểu rừng, các biến thể địa lý, các nhóm và các kiểu trung gian [18,49].
Ở Thuỵ Điển, có hai trường phái đó là trường phái sinh học phân loại rừng
dựa theo 2 nhân tố là: độ ẩm và độ phì của đất, trường phái quần xã thực vật dựa
vào đặc trưng chủ yếu là tổ thành thực vật và coi quần hợp là đơn vị cơ bản.
Ở Phần Lan, Caiande A.K. chủ trương phân loại rừng dựa vào thực vật thảm
tươi. Ông cho rằng, trong lâm phần thành thục, tổ thành thảm tươi khơng chỉ phụ
thuộc vào hồn cảnh sinh thái mơi trường mà cịn phụ thuộc vào cả tổ thành lồi cây
gỗ của lâm phần. Theo đó, thảm tươi là chỉ tiêu tốt nhất để xem xét tính đồng nhất
sinh học của mơi trường kể cả tính đồng nhất về hiệu quả của thực vật rừng. Điều
này đã khơng hồn tồn đúng, vì thực tế thảm tươi có khả năng chỉ thị nhưng khơng
có khả năng chỉ thị cho tất cả điều kiện lập địa; ngoài ra các yếu tố bên ngoài như:
lửa rừng, khai thác… cũng ảnh hưởng đến thảm tươi.
Ở Hoa Kỳ, phân loại rừng chủ yếu theo học thuyết cực đỉnh (climax) của
Cơlêmăng. Climax là một quần xã thực vật ổn định trong quá trình phát triển lâu dài
trên những vùng lãnh thổ rộng lớn với đất đai đã được hình thành từ lâu. Khí hậu là
nhân tố xác định climax. Ngồi khái niệm climax, các nhà lâm học Hoa Kỳ còn đưa
ra khái niệm tiền đỉnh cực đỉnh (á đỉnh cực), đơn đỉnh cực [18,49].

Ở vùng nhiệt đới, Schimper (1918) là người đầu tiên đưa ra hệ thống phân
loại thảm thực vật rừng nhiệt đới [18,49]. Trong hệ thống này, Schimper đã phân
chia thảm thực vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi.
Trong quần hệ khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: rừng thưa, rừng gió mùa,
rừng trảng, rừng gai. Ngồi ra cịn có thêm 2 kiểu là thảo nguyên nhiệt đới và hoang
mạc nhiệt đới.
Năm 1903, dựa trên dạng sống của các cá thể thực vật chiếm ưu thế trong
quần thể, ông đã phân chia 3 kiểu: quần thụ, quần thảo và hoang mạc.


6

Sau Schimper là hệ thống của Rubel, Ilinski, Burt- Davy, Aubresville…
trong đó đáng chú ý nhất là hệ thống của Aubresville. Trong hệ thống này, ông đã
căn cứ vào độ tàn che trên mặt đất của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu
quần thể thưa thành rừng thưa và trảng truông [18,49].
Champion (1936) đã phân biệt 4 đai thảm thực vật lớn theo nhiệt: nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới và núi cao. Bear (1944) đưa ra hệ thống 3 cấp đó là: quần hợp,
quần hệ và loạt quần hệ. Fosberg (1958) đưa ra đề án hệ thống phân loại chung cho
thảm thực vật rừng nhiệt đới dựa trên hình thái ngoại mạo cấu trúc quần thể là: lớp
quần hệ, quần hệ và quần hệ phụ [18,49].
Theo Schmithusen (1959), thảm thực vật trái đất được phân chia thành 9 lớp
quần hệ sau là: lớp quần hệ rừng, lớp quần hệ đồng cỏ, lớp quần hệ cây bụi nhỏ và
nửa cây bụi, lớp quần hệ sống 1 năm, lớp quần hệ hoang mạc, lớp quần hệ thực vật
hồ nước nội địa và lớp quần hệ thực vật biển [18,49].
Gần đây các nhà sinh thái và địa thực vật Đức đã phân chia thảm thực vật ở
cạn thành 16 kiểu quần hệ: rừng mưa nhiệt đới, rừng mưa á nhiệt đới, rừng mưa
lạnh ôn đới, rừng xanh mưa mùa, rừng lá rộng xanh mùa hè, rừng lá kim rộng ôn
đới, rừng kiểu quần hệ cây gỗ có gai, kiểu cây gỗ có lá rộng, kiểu thảo nguyên rừng,
kiểu trảng cỏ nhiệt đới, kiểu thảo nguyên ôn đới, kiểu đầm lầy, kiểu hoang mạc

nóng và kiểu hoang mạc khơ lạnh [18,49].
UNESCO (1973) đã công bố một khu phân loại thảm thực vật thế giới dựa
trên nguyên tắc ngoại mạo cấu trúc và được thể hiện trên bản đồ 1:2000 000. Hệ
thống đó được sắp xếp như sau [18]:
1. Lớp quần hệ
1.A. Dưới lớp quần hệ
1.A1. Nhóm quần hệ
1.A1.1. Quần hệ
1.A1.1.1. Dưới quần hệ
Theo hệ thống phân loại này thì thảm thực vật thế giới có 5 lớp quần hệ là:
1. Lớp quần hệ rừng kín (Close forest)


7

2. Lớp quần hệ rừng thưa (Open stand of tree)
3. Lớp quần hệ cây bụi (Scrubland)
4. Lớp quần hệ cây bụi lùn và các quần xã có liên quan (Dwarf – Scrubland
related communities)
5. Lớp quần hệ trảng cỏ (Herbaceous Vegetation)
1.1.2. Nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam
Trước năm 1960 các cơng trình nghiên cứu về thảm thực vật chủ yếu được
thực hiện bởi các nhà khoa học người nước ngoài như: Chevalier (1918); Maurand
(1943); Dương Hàm Nghi (1956); Rollet, Ly Văn Hội và Neay Sam Oil (1958),…
[18,49].
Từ năm 1960, Loschau đưa ra một khung phân loại rừng theo trạng thái ở
Quảng Ninh. Bảng phân loại này đã phân thành 4 trạng thái như sau [18,50]:
Rừng loại I: gồm những đất đai hoang trọc, trảng cỏ và cây bụi.
Rừng loại II: gồm những rừng non mới mọc
Rừng loại III: gồm tất cả các rừng đã bị khai thác trở nên nghèo kiệt, tuy cịn

có thể khai thác lấy gỗ trụ mỏ.
Rùng loại IV: rừng nguyên sinh chưa bị khai phá.
Đây là hệ thống phân loại rừng đã được áp dụng khá rộng rãi ở nước ta trong
việc điều tra tái sinh rừng cũng như điều tra tài nguyên rừng theo khối trạng thái.
Viện điều tra Quy hoạch rừng cũng áp dụng hệ thống này vào việc phân loại trạng
thái rừng phục vụ công tác quy hoạch, thiết kế kinh doanh rừng.
Trần Ngũ Phương (1970) đã xây dựng bản phân loại rừng miền Bắc, trong đó
chú ý đến việc nghiên cứu qui luật diễn thế thứ sinh, diễn biến độ phì, các tính chất
vật lý, hố học và dinh dưỡng đất qua các giai đoạn phát triển của rừng. Bảng phân
loại gồm có các đai rừng và kiểu rừng sau [38]:
A. Đai rừng nhiệt đới mưa mùa
1. Kiểu rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh ngập mặn, bao gồm các kiểu
phụ thổ nhưỡng rừng mắm (Avicenia marina), rừng đước (Bruguiera
gymnorrhiza), rừng vẹt (Bruguiera erioperata) và các kiểu phụ thứ sinh.


8

2. Kiểu rừng nhiệt đới mưa mùa lá rộng thường xanh
3. Kiểu rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh
4. Kiểu rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thung lũng
5. Kiểu phụ rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh núi đá vôi
B. Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa
6. Kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh
7. Kiểu rừng á nhiệt đới lá kim trên núi đá vôi
C. Đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao
Trên quan điểm sinh thái phát sinh, Thái Văn Trừng (1978, 2001) đã xây
dựng bảng phân loại rừng Việt Nam. Trong hệ thống này, tác giả đã sắp xếp các
kiểu thảm thực vật hiện có ở Việt Nam vào một khung hợp lý, qui định được trật tự
trước sau giữa các nhân tố sinh thái, đồng thời lại theo một trật tự giảm dần từ kiểu

tốt nhất đến kiểu xấu nhất. Đây là một cơng trình tổng qt, đáp ứng được quy
hoạch sinh thái. Tuy nhiên theo tác giả thì bản phân loại này thuộc loại đặc biệt hay
mang tính chất địa phương của một vùng hay một nước. Bảng phân loại được chia
làm 2 nhóm: nhóm các kiểu thảm thực vật ở vùng thấp (có độ cao dưới 1000 mét ở
miền Nam và dưới 700 mét ở miền Bắc) và nhóm các kiểu thảm thực vật ở vùng
cao (có độ cao trên 1000 mét ở miền Nam và độ cao trên 700 mét ở miền Bắc) [49].
- Nhóm các kiểu thảm ở độ cao dưới 1000 m ở miền Nam, dưới 700 m ở miền Bắc
có các kiểu sau:
+ Các kiểu rừng rú kín vùng thấp:
 Rừng kín thường xanh mưa hơi ẩm nhiệt đới: là quần thụ nhiều
tầng, cao 25 – 30 m, cây gỗ lớn thường xanh, các loài cây chủ yếu:
Dầu, Sao, Kền kền, Chò chỉ, Chò nâu, Dầu rái, Táu, Vên vên,…
 Kiểu rừng kín nửa rụng lá khơ nhiệt đới: là quần thụ phải bao gồm
có 25% - 75% cây rụng lá. Loài cây chủ yếu là các loài thuộc các
họ: Dầu, Bàng, Tử vi, Dâu tằm, Xoan, Bời lời, Đậu, Trôm, Mỡ, Bồ
đề, Lim, Sau sau, Nứa.


9

 Kiểu rừng kín rụng lá, hơi ẩm nhiệt đới: kiểu này có cấu trúc đơn
giản, gồm hai tầng, tầng cao gồm những cây rụng lá cao trung bình
25 m, tầng dưới cao 15 – 20 m. Các loài cây chủ yếu: Tử vi,
Thung, Đậu, Dẻ, Sau sau, Gạo, Sổ, Bồ đề, Xoan, Thẩu tấu lơng,
Thành ngạnh,…
 Kiểu rừng kín lá cứng, hơi khơ nhiệt đới: kiểu này ít gặp ở Việt
Nam. Thường ở ven biển và Nam Trường Sơn.
+ Các kiểu rừng thưa:
 Kiểu rừng thưa cây lá rộng, rụng lá, khô nhiệt đới: phân bố ở các
tỉnh Đắc Lắc, Thuận Hải, Buôn Ma Thuột, Sơn La, Nghệ An, Hà

Tĩnh, Hà Tây, Hồ Bình.
 Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp: phân bố ở
Sơn La, Đà Lạt.
Các kiểu rừng thưa trên có đặc điểm chính là tầng cây gỗ thưa cây.
Các lồi cây chủ yếu là: Dầu, Bàng, Cẩm liên, Cà chắc, Chiêu liêu,
Sơn, Thẩu tấu lông, Me rừng…
+ Các kiểu trảng, truông:
 Kiểu trảng cây to, cây bụi cao, khô nhiệt đới (gặp nhiều ở miền
Nam, ở miền Bắc gặp ở Hà Bắc, Lai Châu, Nghệ An, Hà Tĩnh).
Đặc điểm của kiểu này là tầng ưu thế sinh thái là tầng cỏ, trong
tầng cây thì số cây to, nhỏ cây bụi rất thưa thớt. Thực vật chủ yếu
là các cây thuộc các họ Lúa, họ Tuế, họ Thầu dầu, họ Trôm và Cỏ
lào.
 Kiểu truông bụi gai, hạn nhiệt đới (thường gặp ở vùng thấp và cao
trung bình). Nét đặc trưng là thành phần thực vật chủ yếu là cây bụi
có gai và thảm cỏ thưa thớt.
- Nhóm các kiểu thảm vùng núi có độ cao trên 1000 m (miền Nam) và trên 700 m
(miền Bắc) gồm:
+ Các kiểu rừng kín:


10

 Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp (thường
gặp ở miền Bắc)
 Kiểu rừng kín hỗn hợp lá rộng, lá kim, ẩm á nhiệt đới núi thấp
(thường gặp ở miền Bắc)
 Kiểu rừng lá kim ẩm ôn đới núi vừa (thường gặp ở vùng núi cao
như dãy Hồng Liên Sơn, Lai Châu, Tà Pìng, Nam Trung Bộ).
Đó là các kiểu rừng vùng cao, có các quần thụ cây gỗ kín rậm. Thực

vật gồm: Dẻ, Re, Ngọc lan, Sau sau, Cáng lò, Tre gầy, Giang, Nghiến,
Kim giao, Hồng đàn.
+ Các kiểu quần hệ khơ lạnh vùng cao:
 Kiểu quần hệ khơ vùng cao. Đó là rú cây bụi nhỏ, trảng cỏ cao, cỏ
thấp, nhóm lồi ưu thế gồm: Dẻ, Ĩc chó, Cỏ lách, Cỏ lào, Ngải cứu.
 Kiểu quần hệ lạnh vùng cao (thường gặp ở đỉnh núi cao như
Fanxipăng, Tà Pình, Tây Cơn Lĩnh…) nhóm loài ưu thế, đặc trưng
gồm: Dẻ, Pơ mu, Đỗ quyên, Thông…
Phan Kế Lộc (1985) dựa trên khung phân loại của UNESCO (1973) đã đưa
ra khung phân loại thảm thực vật ở Việt Nam có thể thể hiện được trên bản
đồ 1:2.000.000. Bảng phân loại gồm 5 lớp quần hệ [30]:
- Lớp quần hệ rừng rậm.
- Lớp quần hệ rừng thưa.
- Trảng cây bụi.
- Trảng cây bụi lùn.
- Trảng cỏ.
Trong đó, dưới lớp quần hệ là phân quần hệ, nhóm quần hệ, quần hệ và
thấp nhất là dưới quần hệ. Bảng phân loại này đã được một số tác giả áp dụng để
tiến hành phân loại thảm thực vật trong nghiên cứu của mình như: Trần Đình Đại
(1990), Trần Đình Lý (1995), Nguyễn Nghĩa Thìn (1996) [57].
Vũ Đình Huề (1984) đã đề nghị phương pháp phân loại rừng phục vụ
mục đích kinh doanh. Theo tác giả, kiểu rừng là một loạt các xã hợp thực vật thuộc


11

một kiểu trạng thái trong phạm vi một kiểu điều kiện thực bì rừng và tương ứng có
một biện pháp lâm sinh thích hợp [18,49].
Ngồi cơng trình trên, Vũ Tự Lập (1976) trong cơng trình “Cảnh quan
địa lý miền Bắc Việt Nam” đã sử dụng nhân tố độ ưu thế của các lồi trong ơ tiêu

chuẩn để xác định các quần hợp, ưu hợp, phức hợp [18].
Trong các yếu tố phát sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật,
còn các yếu tố địa lý, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khu hệ thực vật và con
người…là yếu tố phát sinh của kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp.
Đối với mỗi miền đều có những cơng trình nghiên cứu như: ở miền Bắc
có cơng trình của Trần Ngũ Phương (1970); ở miền Nam có cơng trình thảm thực
vật Nam Trung Bộ của Schmid (1974). Năm 1995, Nguyễn Vạn Thường xây dựng
bản đồ thảm thực vật Bắc Trung Bộ. Có thể nói đó là sơ đồ tổng quát nhất về thảm
thực vật Việt Nam [18,49].
1.1.3. Nghiên cứu về thảm thực vật ở Pù Hu
Các cơng trình nghiên cứu về Thảm thực vật tại khu BTTN Pù Hu là rất
ít. Năm 1997 Viện Điều tra Quy hoạch rừng kết hợp, trường Đại học Lâm nghiệp và
Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thanh Hoá đã điều tra về Thảm thực vật để đề xuất xây
dựng khu BTTN Pù Hu. Dựa trên cơ sở những nguyên tắc sinh thái của Thái Văn
Trừng nhóm điều tra đã đưa ra kết luận Thảm thực vật rừng tại Pù Hu có các kiểu
sau:
* Kiểu rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
* Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới
* Kiểu phụ thứ sinh nhân tác do hoạt động của con người:
- Kiểu phụ thứ sinh nhân tác hỗn giao gỗ và nứa trên đất nguyên trạng
- Kiểu phụ thứ sinh nhân tác nứa
- Kiểu phụ thứ sinh nhân tác rừng Luồng trồng
* Trảng cỏ cây bụi.
1.2. Nghiên cứu về hệ thực vật
1.2.1. Nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới


12

Việc nghiên cứu các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu, tuy nhiên những

cơng trình nghiên cứu có giá trị lại chủ yếu xuất hiện vào thế kỷ XIX – XX như:
Thực vật chí Hong Kong (1861), Thực vật chí Australia (1866), Thực vật chí rừng
Tây Bắc và trung tâm Ấn độ (1874), Thực vật chí Ấn độ 7 tập (1872 – 1897), Thực
vật chí Miến Điện (1877), Thực vật chí Malaysia (1892 – 1925), Thực vật chí Hải
Nam (1972 – 1977), Thực vật chí Vân Nam (1977).
Ở Nga, từ 1928 đến 1932 được xem là thời kỳ mở đầu cho thời kỳ nghiên cứu hệ
thực vật cụ thể. Tolmachop A.I. cho rằng “ Chỉ cần điều tra trên một diện tích đủ
lớn để có thể bao chùm được sự phong phú của nơi sống nhưng không có sự phân
hố mặt địa lý”. Ơng gọi đó là hệ thực vật cụ thể. Tolmachop đã đưa ra một nhận
định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500- 2000
loài.
Các nhà sinh vật học Nga tập chung các nghiên cứu vào việc xác định diện
tích biểu hiện tối thiểu để có thể kiểm kê được đầy đủ nhất số lồi của từng hệ thực
vật cụ thể. Việc xác định diện tích biểu hiện gồm các giai đoạn sau:
1. Kiểm kê số lồi trên diện tích hạn chế nhất định.
2. Mở rộng dần ra vùng đồng nhất và điều kiện địa lý tự nhiên để thấy mức độ
tăng số lượng loài.
3. Khi số lồi tăng khơng đáng kể thì xác định đó là diện tích biểu hiện tối
thiểu.
1.2.2. Nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam trải dài từ 8030’ Bắc đến 230 Nam. Sự khác biệt lớn về
khí hậu và địa hình giữa các miền, tạo ra tính đa dạng về mơi trường tự nhiên và
ĐDSH. Các hệ sinh thái rất đa dạng: từ rừng mưa thường xạnh cận nhiệt đới ở phía
Bắc cho tới rừng khộp nhiệt đới ở phía Nam, tới rừng ngập mặn và các hệ sinh thái
gập nước ven biển. Đến nay đã thống kê được gần 13.000 lồi thực vật. Nhiều
nhóm có tính đặc hữu cao, nhiều lồi đặc hữu có giá trị khoa học và thực tiễn lớn
[39,44, 47,48] .


13


Ngoài những tác phẩm nổi tiếng của Loureiro (1790), của Pierre (1879 –
1907), từ những năm đầu thế kỷ đã xuất hiện một số cơng trình nổi tiếng, là nền
tảng cho việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam.
Một trong những cơng trình nổi tiếng đó là bộ “Thực vật chí Đơng Dương”
do H. Lecomte chủ biên (1907 – 1952). Trong cơng trình này, các tác giả người
Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khố mơ tả các lồi thực vật có mạch trên tồn bộ
lãnh thổ Đông Dương [45]. Thái Văn Trừng (1978) cũng đã dựa vào cơng trình này
để thống kê hệ thực vật Việt Nam và biết được có 7004 lồi, 1850 chi, 289 họ [50].
Riêng miền Bắc Pócs Tamás (1965) thống kê được 5190 loài, Phan Kế Lộc (1969)
thống kê và bổ sung, nâng số loài ở miền Bắc lên 1660 chi và 140 họ. Trong đó có
5069 lồi thực vật thuộc ngành hạt kín và 540 lồi thuộc các ngành cịn lại.
Gần đây, Aubréville khởi xướng và chủ biên bộ “Thực vật chí Campuchia,
Lào, Việt Nam” (1960 – 1997) [18] cùng với nhiều tác giả khác đến nay đã công bố
29 tập nhỏ, gồm 74 họ cây có mạch (chưa đầy 20% tổng số họ đã có) (Ngơ Tiến
Dũng, 2006) [19]. Ngồi ra cịn có cơng trình “Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam”
gồm 6 tập do Lê Khả Kế chủ biên từ năm 1969 – 1976 [24], “Cây cỏ miền Nam Việt
Nam” của phạm Hoàng Hộ giới thiệu 5326 loài, trong đó có 60 lồi thực vật bậc
thấp và 20 lồi Rêu, cịn lại 5246 lồi thực vật có mạch [22] (Nguyễn Nghĩa Thìn –
Nguyễn Thanh Nhàn, 2004) [44]
Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam (1971 – 1988) đã công bố 7 tập “
Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh hoạ. Đến năm
1996, cơng trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn Dũng chủ biên. Võ Văn
Chi (1997) đã công bố “Từ điển cây thuốc Việt Nam” (Ngô Tiến Dũng, 2006) [19]
Trong thời gian gần đây, các nhà thực vật Nga và Việt Nam đã hệ thống lại
hệ thực vật Việt Nam đăng trên Kỷ yếu “Cây có mạch của thực vật Việt Nam –
Vascular Plants Synopsis of Vietnamese Flora” tập 1 – 2 (1996) và Tạp chí Sinh
học số 4 chuyên đề (1994 và 1995) (Ngô Tiến Dũng, 2006) [19].
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt nam” của Phạm Hoàng Hộ
(1991 – 1993) [20] xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam



14

hai năm (1999 – 2000) [21], đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng, góp phần
đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam và là những tài liệu quan trọng làm cơ
sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam.
Từ năm 1995 – 2003, Nguyễn Nghĩa Thìn cùng một số tác giả khác đã công
bố một số bài báo đa dạng thành phần loài ở Vườn Quốc gia Cúc Phương, vùng núi
đá vơi Hồ Bình, Sơn La, khu Bảo tồn Na Hang của Tuyên Quang, vùng núi cao Sa
Pa – Phanxipang, Vùng ven biển Nam Trung Bộ, Vườn Quốc gia Ba Bể, Cát Bà,
Bến En, Pù Mát, Phong Nha Kẻ Bàng, Cát Tiên…Trong q trình nghiên cứu tác
giả đã cơng bố cuốn “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” [41] nhằm hướng
dẫn cách đánh giá tính đa dạng thực vật của vùng nghiên cứu cho các Vườn Quốc
gia và khu Bảo tồn trong cả nước (Ngô Tiến Dũng, 2006) [19].
1.2.3. Nghiên cứu về hệ thực vật ở Pù Hu
Trong “Đề án xây dựng khu BTTN Pù Hu”, Viện Điều tra Quy hoạch rừng
(1998), đã thống kê khu BTTN Pù Hu có 495 lồi, 305 chi, 101 họ. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở bản danh lục thực vật sơ bộ mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu thảm thực vật. Năm 2010 có sinh viên Đại học Lâm nghiệp (Nguyễn
Văn Phú): “ Nghiên cứu sự đa dạng thực vật thân gỗ tại Khu BTTN Pù Hu Thanh
Hoá”). Tuy nhiên, do thời gian ngằn và giới hạn của luận văn tốt nghiệp đại học
nên cơng trình mới chỉ dừng lại ở mức điều tra và đánh giá sơ bộ.


15

CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được tính đa dạng về các kiểu thảm thực vật và thành phần loài
thực vật Khu BTTN Pù Hu.
- Xác định được nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật ở Khu BTTN
Pù Hu để từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn Đa dạng thực vật có hiệu quả.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm thảm thực vật, loài hệ thực vật bậc cao có mạch phân bố trong phạm vi
khu BTTN Pù Hu và các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật ở khu BTTN Pù
Hu.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đa dạng hệ thực vật
- Xây dựng hoàn thiện danh lục thực vật tại khu BTTN Pù Hu một cách đầy
đủ có hệ thống đến thời điểm nghiên cứu.
- Đa dạng bậc ngành và dưới ngành.
- Đa dạng về dạng sống.
- Đa dạng về về giá trị sử dụng và xác định các lồi q hiếm để có biện
pháp bảo tồn.
2.2.2. Đa dạng thảm thực vật
Xác định các hệ thống phân loại một số kiểu thảm thực vật tại khu BTTN Pù Hu và
mô tả chúng.
2.2.3. Các nguyên nhân gây suy giảm và đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng
thực vật ở khu BTTN Pù Hu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp kế thừa


16

Kế thừa các cơng trình có liên quan của các nhà khoa học đã nghiên cứu tại
Khu BTTN Pù Hu trong những năm trước đây kể cả các văn bản, các cuộc hội

nghị, hội thảo, các chương trình, kế hoạch hành động…
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu về thảm thực vật
Sử dụng ảnh bản đồ địa hình để xác định ranh giới các kiểu thảm thực vật từ
đó xây dựng các tuyến nghiên cứu cũng như các điểm nghiên cứu cụ thể trước khi
tiến hành nghiên cứu ngoài thực địa. Từ bản đồ xây dựng sơ bộ đó, bằng hệ thống
GPS xác định cụ thể các tuyến và các điểm nghiên cứu trên thực địa. Mỗi một điểm
tiến hành đo đếm các chỉ tiêu, thu mẫu, mô tả, đánh giá cấu trúc và đánh giá tính đa
dạng của các kiểu thảm thực vật.
Các bước nghiên cứu thảm thực vật cụ thể tiến hành theo Nguyễn Nghĩa Thìn
( 1997) [41].
- Bước 1: Dựa trên cơ sở bản đồ thảm thực vật sơ thảo, đã xác định tuyến và nghiên
cứu, sử dụng GPS để xác định các điểm cụ thể trên thực địa đại diện cho toàn bộ
khu vực nghiên cứu.
- Bước 2: Quan trắc, đo đếm, mô tả và thu thập mẫu vật.
- Bước 3: Xử lý tư liệu sau thực địa trong phịng thí nghiệm: xác định tên cây, tính
tốn các chỉ số và sau đó mơ tả ơ tiêu chuẩn.
Bước 4: Trên cở sở phân loại của Thái Văn Trừng (1978) xây dựng hệ thống phân
loại các kiểu thảm ở khu vực nghiên cứu.
2.3.2.1. Nghiên cứu thực địa
Các tuyến nghiên cứu:
+ Tuyến I: Tiểu khu 98 (xã Hiề n Chung) – Đỉnh Pù Hu (xã Trung Thành).
Đô ̣ dài tuyế n: 7000 m


17

Kiể u thảm thường bắ t gă ̣p: Trảng cỏ, cây bụi, rừng phục hồi sau nương rẫy,
rừng thường xanh trên núi đá xen lẫn núi đất.
+ Tuyế n II: Tiểu khu 98 (xã Hiền Chung) - Đỉnh Pù Hu Nọi (xã Phú Sơn ).
Độ dài tuyến: 4500 m

Kiể u rừng thường gă ̣p: Trảng cơ, cây bụi, rừng phục hồi sau khai thác chọn,
rừng thường xanh trên núi đá xen lẫn núi đấ t.
+ Tuyến III: Tiểu khu 51 ( Phú Sơn) – Tiểu khu 43 ( Trung Thành)
Chiề u dài tuyế n: 6000 m
Kiể u rừng thường gă ̣p: Rừng nứa, rừng luồng, trảng cây bụi, rừng phục hồi
sau nương rẫy, rừng hỗn giao gỗ - tre nứa.
- Điều tra theo tuyến: Trên các tuyến tiến hành quan sát phát hiện, xác định loài,
phát hiện các quần xã, ưu hợp, phức hợp, kiểu rừng.
- Cách lập OTC: Trên mỗi tuyến điều tra lập 3 OTC điển hình. Chúng tôi chọn và
lập OTC đại diện nhất, đặc trưng nhất về ngoại mạo với diện tích 1000m2 (40m x
25m). Sử dụng dây nilon có màu để định vị chu vi ô. Đánh dấu các điểm trên dây,
ứng với 10m một dấu. Ơ được căng thành 4 ơ nhỏ liên tiếp (kích thước đồng đều
10x 25m).
- Thơng tin thu thập trong OTC: Vị trí ơ (xác định bằng GPS), địa hình, địa mạo,
hướng phơi, trạng thái thảm thực vật, độ che phủ (ước lượng) và tất cả các cây cao,
thực vật ngoại tầng, dạng sống... trong giới hạn dây nilon. Trên mỗi OTC lập 5 ơ
dạng bản, diện tích mỗi ơ dạng bản là 25m2 (5m x 5m) để điều tra cây tái sinh và
cây bụi thảm tươi.
2.3.2.2. Xử lý trong phịng thí nghiệm


18

Xác định tên khoa học, tính tốn các thơng số trong OTC và xác định các
quần xã ưu thế (đó là nhóm lồi đạt trên 50% độ quan trọng và số lượng loài dưới
10 cá thể).
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu hệ thực vật
2.3.3.1. Nghiên cứu thực địa
Xác định địa điểm và tuyến thu mẫu: Để thu mẫu một cách đầy đủ và đại
diện cho một khu nghiên cứu, chúng tôi khơng thể đi hết các điểm trong khu nghiên

cứu, vì thế việc chọn tuyến và điểm thu mẫu là rất cần thiết.Tuyến đường đi phải
xuyên qua các môi trường sống của khu nghiên cứu. Có thế chọn nhiều tuyến theo
các hướng khác nhau, nghĩa là các tuyến đó cắt ngang các vùng đại diện cho khu
vực nghiên cứu. Trên các tuyến đó chúng tơi chọn những điểm chốt, tức là những
điểm đặc trưng để đặt OTC vừa phục vụ cho nghiên cứu về đa dạng loài, vừa
nghiên cứu về đa dạng hệ sinh thái, như đã giới thiệu.
Trong OTC chúng tôi ghi chép, chụp ảnh và lấy mẫu tất cả các loài.
Dụng cụ thu mẫu: Cặp hay túi đựng mẫu, giấy báo, dây buộc, nhãn, kim
chỉ, bút chì 2B, sổ ghi chép, cồn, kéo cắt cành.
Phương pháp thu mẫu: Để thu mẫu, hiện nay chúng tôi dùng túi polyetylen
để đựng mẫu, không dùng kẹp gỗ như trước đây vừa cồng kềnh vừa khó bảo quản,
cần có sổ ghi chép riêng, nhãn hay băng dính giấy có thể viết được và kéo cắt cành.
Nguyên tắc thu mẫu:
- Mỗi mẫu phải có đầy đủ các bộ phận, nhất là: cành, lá, hoa hay cả cây đối
với cây thảo và có quả càng tốt.
- Mỗi cây nên thu từ 3 – 5 mẫu, cịn mẫu cây thân thảo nên tìm các mẫu
giống nhau và cũng thu với số lượng trên để vừa nghiên cứu các biến dạng của loài
vừa để trao đổi.


19

- Các mẫu thu trên cùng một cây thì đánh cùng một số hiệu mẫu. Khi thu
mẫu phải ghi chép ngay những đặc điểm dễ nhận biết ngoài thực địa như: đặc điểm
vỏ cây, kích thước cây, nhất là các đặc điểm dễ mất sau khi sấy mẫu như: màu sắc,
mùi vị…
- Thu và ghi chép xong cho vào túi polyetylen mang về nhà mới làm mẫu.
Việc cho mẫu vào túi polyetylen có lợi là gọn nhẹ, khơng bị va quệt khi băng qua
rừng, mẫu giữ tươi lâu kể cả khi trời nắng to nhưng cần chú ý là khi cho mẫu vào
túi phải nhẹ nhàng, nếu có hoa thì dùng các lá của mẫu để bọc lấy trước khi cho vào

túi. Có thể dùng túi nhỏ và mỏng đựng từng loài và buộc chặt lại rồi tất cả các túi
nhỏ đó cho vào túi to hay bao tải.
Cách xử lý và bảo quản mẫu: Sau một ngày lấy mẫu cần đeo nhãn cho mỗi
mẫu. Nhãn có thể chỉ ghi số hiệu mẫu của tác giả cịn các thơng tin khác sẽ ghi vào
sổ riêng hoặc trên nhãn ghi đầy đủ các thông tin như sau:
- Số hiệu mẫu.
- Địa điểm (tỉnh, huyện, xã…) và nơi lấy (ven suối, thung lũng, sườn hay
đỉnh núi hoặc đồi…)
- Ngày lấy mẫu.
- Đặc điểm quan trọng: cây gỗ hay dây leo, độ cao, đường kính, màu lá, hoa,
quả…
- Người lấy mẫu.
Khi ghi phải dùng bút chì mềm, tuyệt đối khơng dùng bút bi, bút mực để
tránh bị mất khi ngâm tẩm về sau.
2.3.3.2. Xử lý trong phịng thí nghiệm
Mẫu tiêu bản thu thập trong quá trình điều tra được mang về và xử lý tại
Trung tâm Đa dạng sinh học - Trường Đại học Lâm nghiệp. Nội dung công việc
gồm:


20

+ Ép mẫu và sấy mẫu.
+ Phân loại mẫu theo họ và chi.
+ Giám định mẫu tiêu bản được thực hiện bởi tác giả với sự giúp đỡ của các
chuyên gia về Phân loại Thực vật của Trung tâm Đa dạng sinh học, Bộ môn Thực
vật rừng đồng thời đối chiếu mẫu nghiên cứu với bộ mẫu đang lưu trữ tại Trung tâm
Đa dạng sinh học.
+ Phân tích mẫu: Dựa trên một số nguyên tắc: Phân tích từ tổng thể đến chi
tiết, từ cái lớn đến cái nhỏ, phân tích phải đi đôi với nghi chép.

+ Tra tên khoa học: Sau khi đã phân tích mẫu chúng tơi tiến hành tra tên
khoa học dựa theo các khóa xác định.
2.3.3.3. Xây dựng danh lục và đánh giá đa dạng hệ thực vật
Chỉnh lý tên khoa học và xây dựng danh lục:
Tên đầy đủ của loài được căn cứ theo: “Danh lục các loài thực vật Việt
Nam” [2], [3], [47]; “Tên cây rừng Việt Nam” [10]; “Bộ thực vật chí Việt Nam”;
“Cây cỏ Việt Nam” [21] và trang web quốc tế về tên Thực vật www.ipni.org. Các
tên được điều chỉnh theo cuốn tên họ, chi: “Vascular Plant Families and Genera”
của Brummitt (1992) [52].
Danh lục thực vật của khu BTTN Pù Hu được sắp xếp theo thứ tự tiến hóa
của các ngành, ở mỗi ngành, các họ được xếp theo hệ thống alphabet tên khoa học.
Riêng thực vật Hạt kín thì các họ được xếp theo 2 lớp, lớp Hai lá mầm trước, lớp
Một lá mầm xếp sau cùng, các họ theo mỗi lớp cũng xếp theo alphabet tên khoa
học. Danh lục còn có tên khoa học, tên Việt Nam và tên địa phương (nếu có) cùng
với các thơng tin giúp ích cho việc đánh giá đa dạng, đó là các thơng tin về dạng
sống, công dụng, mức độ bị đe dọa…


21

Đánh giá đa dạng về phân loại: Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [41], bao
gồm:
o Thống kê và đánh giá thành phần lồi, chi, họ của các ngành.
o Tính chỉ số đa dạng ở cấp họ (số lồi trung bình của một họ), cấp chi (số lồi
trung bình của một chi).
o Đánh giá đa dạng các họ, chi: xác định tập hợp 10 họ, 10 chi giàu loài nhất,
tiểu biểu cho hệ thực vật.
Đánh giá sự đa dạng về dạng sống:
Dạng sống là một đặc trưng nói lên bản chất sinh thái của hệ thực vật cũng
như thảm thực vật của hệ sinh thái đó. Mỗi hệ sinh thái là do các loài trong tương

quan với các nhân tố sinh thái của nơi sống đó tạo nên. Nó được thể hiện trên từng
cá thể lồi và các lồi đó tập hợp nên những quần xã riêng biệt phản ánh môi trường
sống nơi đó. Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất
là hệ thực vật của vùng nhiệt đới người ta vẫn thường dùng hệ thống các dạng sống
của Raunkiaer (1943) ( ghi theo Thái Văn Trừng, 1999) [49].
Bảng 2.1. Thang phân chia dạng sống theo Raunkiaer (1934) (Thái Văn Trừng, 1999) [49].
Dạng sống

Ký hiệu

Nhóm cây chồi trên
Những cây gỗ, dây leo, thảo, bì sinh, ký sinh có chồi tồn tại
nhiều năm cách đất từ 25cm trở lên. Gồm các dạng sống
Chồi trên to: là cây gỗ cao trên 25m
Chồi trên vừa: là cây gỗ cao 8 – 25m
Chồi trên nhỏ: cây gỗ cao 2 – 8m
Chồi trên lùn: cây bụi
Cây bì sinh sống lâu năm
Cây kí sinh, bán ký sinh sống lâu năm
Cây thân thảo sống lâu năm cao trên 25cm
Cây mọng nước sống lâu năm cao trên 25cm
Dây leo sống lâu năm, leo cao trên 25cm
Nhóm cây chồi sát đất
Gồm những cây có chồi cách mặt đất 0 – 25cm, mùa bất lợi

Ph
Phananerophytes
Meg
Mes
Mi

Na
Ep
Pp
Hp
Suc
Lp
Ch
Chamaephytes


22

thường được lá khơ che phủ
Nhóm cây chồi nửa ẩn
Cây có chồi nằm dưới, ngay sát mặt đất, mùa bất lợi thường
được lá khơ che phủ
Nhóm cây chồi ẩn
Cây có chồi nằm sâu trong đất (hoặc trong bùn, nước), mùa
bất lợi phần khí sinh tàn rụi hết nhưng cịn phần thân ngầm ở
dưới đất, sẽ tái sinh vào mùa thuận lợi sau đó
Nhóm cây chồi một năm
Cây chỉ sinh trưởng, ra hoa kết quả trong vòng một năm rồi
chết, chỉ cịn hạt để duy trì sang mùa thuận lợi sau đó

Hm
Hemicryptophytes
Cr
Cryptophytes

Th

Therrophytes

Trong dạng sống, sơ sở quan trọng nhất để sắp xếp các nhóm dạng sống đó là
xem trong thời kỳ khó khăn cho cuộc sống lồi đó tồn tại dưới dạng sống nào: Chỉ
là hạt nghỉ hay có cả chồi, nếu có chồi thì chồi nằm ở vị trí nào so với mặt đất, có
được bảo vệ hay khơng… Chúng tôi chọn cách phân chia này để xây dựng phổ dạng
sống cho hệ thực vật của Khu BTTN Pù Hu.
Đánh giá về tài nguyên thực vật:
Bao gồm tài nguyên đã xác định được giá trị sử dụng và nguồn tài nguyên quý
hiếm của hệ thực vật. Thống kê các loài có giá trị sử dụng từ bảng danh lục thực vật
Khu BTTN Pù Hu bằng các tư liệu chuyên ngành như “Từ điển cây thuốc Việt Nam”
[13]; “1900 loài cây có ích” [35]; “Cây cỏ có ích Việt Nam” [14]; “Danh lục các loài
thực vật Việt Nam” [2], [3], [47]; “Tài nguyên cây gỗ rừng Việt Nam” [23]; “Cây cỏ
Việt Nam” [20], [21]; “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” [33]; … Các tiêu chuẩn
để đánh giá giá trị tài nguyên thực vật được trình bày trong bảng 2.2 cụ thể như sau:


23

Bảng 2.2. Giá trị sử dụng các loài trong hệ thực vật
Giá trị sử dụng
Cây làm thuốc
Có giá trị trong việc chữa trị các bệnh tật, bồi bổ sức khỏe
theo kinh nghiệm cổ truyền và hiện đại
Cây ăn được
Cây được sử dụng toàn bộ hay một phần để ăn (lá, hoa, củ,
quả...)
Cây cho gỗ
Cây cho gỗ có giá trị thương phẩm hoặc gia dụng
Cây làm cảnh

Cây có hoa đẹp, thế đẹp, được sử dụng làm cảnh, trồng ở
công viên, đường phố hoặc cho bóng mát
Cây cho dầu béo
Dầu béo được chiết xuất từ hạt, quả có thể được sử dụng
như dầu thực vật thông thường
Cây cho tinh dầu
Tinh dầu chiết xuất từ lá, vỏ, hoa, quả, hạt… được sử dụng
trong y học, cơng nghiệp…
Cây có chất độc
Chất độc lấy ở cây có thể được sử dụng ở mục đích làm tê
liệt động vật (bẫy, duốc) hoặc gây tử vong
Cây cho tanin, nhựa
Cây cho nhựa được sử dụng trong công nghiệp hoặc thủ
công, bao gồm để nhuộm, cho tanin
Cây cho sợi
Cây có cơng dụng khác

Kí hiệu
M
(Medicine)
F
(Food and fruit)
T
(Timber)
Or
(Ornamental)
Oi
(Oil)
E
(Essential oil)

Pm
(Poisonous medicine)
Ta, Sap
Fb
(Fibre)
U
(Useful)

Nghiên cứu tài nguyên thực vật về mức độ nguy cấp của các loài quý
hiếm: Từ bảng danh lục, kiểm tra tên từng loài dựa vào danh sách các loài đã được
chỉ định trong danh lục của các chỉ tiêu (danh lục đỏ): Sách Đỏ Việt Nam 2007 [4];
Nghị định 32 CP của chính phủ [16]; Danh sách các lồi trong CITES [8]; IUCN
2009 Red list Data [56].


24

2.3.4. Phương pháp xác định các nguyên nhân gây suy giảm và đề xuất giải pháp
bảo tồn thực vật
Để đạt được mục tiêu bảo tồn nguồn tài nguyên của thực vật tại Khu BTTN
Pù Hu, chúng tơi đi tìm hiểu các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật để từ
đó xác định các giải pháp bảo tồn. Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng
phương pháp tiếp cận sau:
- Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thơn có sự tham gia của người
dân (PRA) (theo Gordon Conway, Robert Champers và tập thể, (1980) [6]) để xác
định các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây suy giảm đa dạng thực vật:Phương
pháp này bao gồm cả điều tra phỏng vấn, tổng hợp và phân tích số liệu.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng thực vật: Trên cơ sở phân tích các
ngun nhân đó, để xây dựng các giải pháp bảo tồn có hiệu quả nhất, chúng tơi tiến
hành phân tích cụ thể từng ngun nhân, áp dụng nhiều giải pháp, xây dựng nhiều

chương trình hành động cụ thể nhằm giảm thiểu tác động của nguyên nhân đó.


×