Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo việt nam ở đông nam bộ (1945 1975) tập 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 151 trang )

NGUYỄN VĂN HIỆP – PHẠM NGỌC TRÂM
(Chủ biên)

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ KHAI
THÁC BIỂN ĐẢO VIỆT NAM Ở
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ (1945 – 1975)
(TẬP 3)

Bình Dương, 8-2017


MỤC LỤC
Chuyên đề 1 : CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP VÀ TAY SAI TRONG VIỆC
QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC BIỂN ĐẢO ĐÔNG NAM BỘ NHỮNG NĂM (1945
– 1954) ................................................................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề ..................................................................................................................... 1
1.2. Vị thế và sự thay đổi địa lý hành chính vùng biển đảo Việt Nam ở miền Đông
Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám (1945) ........................................................................ 2
1.3. Tình hình vùng ven biển Đơng Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám (1945) ............... 4
1.4. Chính quyền thực dân Pháp và tay sai trong việc quản lý biển đảo Việt Nam ở
miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954) .................................................................................... 14
1.5. Chính quyền thực dân Pháp và tay sai trong việc khai thác biển đảo Việt Nam ở
miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954) .................................................................................... 20
1.6. Tiểu kết luận chuyên đề .............................................................................................. 26
Chuyên đề 2 : HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC BIỂN DẢO VIỆT
NAM Ở MIỀN ĐƠNG NAM BỘ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GỊN (1954 - 1975)... 28
2.1. Tình hình vùng ven biển Đơng Nam Bộ (1954-1975) ............................................... 28
2.2. Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo Việt Nam ở miền Đông Nam Bộ (19541975) .................................................................................................................................. 34
2.3. Tiểu kết luận chuyên đề .............................................................................................. 55
Chuyên đề 3: HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO Ở ĐÔNG
NAM BỘ TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH (1945 – 1954) ................................... 57


3.1. Đặt vấn đề ................................................................................................................... 57
3.2. Lực lượng cách mạng khai thác biển đảo Việt Nam ở miền Đông Nam Bộ (1945 1954) .................................................................................................................................. 57


3.3. Hoạt động phát triển kinh tế của cộng đồng cư dân biển đảo Việt Nam ở miền
Đông Nam Bộ (1945-1954) ............................................................................................... 68
Chuyên đề 4 : HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, ĐÁNH BẮT HẢI SẢN TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở ĐÔNG NAM BỘ (1954 – 1975) ...................................... 74
4.1. Đánh bắt hải sản ở Đông Nam Bộ (1954-1975) ......................................................... 74
4.2. Khai thác du lịch biển Đông Nam Bộ (1954 - 1975) ................................................. 79
4.3. Hoạt động khai thác biển đảo Việt Nam ở miền Đông Nam Bộ của cách mạng
(1954-1975) ....................................................................................................................... 84
Chuyên đề 5 : HOẠT ĐỘNG VẬN TẢI BIỂN Ở ĐÔNG NAM BỘ (1954 - 1975) ... 91
5.1. Đặt vấn đề ................................................................................................................... 91
5.2. Hoạt động vận tải biển ở Đông Nam Bộ (1954 - 1975) ............................................. 92
5.3. Tiểu kết luận chuyên đề ............................................................................................ 120
Chuyên đề 6: NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÔNG NAM
BỘ THỜI KỲ CHIẾN TRANH (1954 – 1975)............................................................ 121
6.1. Một số tiền đề thúc đẩy sự phát triển các nghề truyền thống của cư dân ven biển
Đông Nam Bộ (1954 - 1975) ........................................................................................... 121
6.2. Nghề truyền thống của cư dân ven biển Đông Nam Bộ (1954 - 1975) .................... 122
6.3. Tiểu kết luận chuyên đề ............................................................................................ 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 140


Chuyên đề 1
CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP VÀ TAY SAI TRONG
VIỆC QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC BIỂN ĐẢO VIỆT NAM
Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ NHỮNG NĂM (1945 – 1954)
1.1. Đặt vấn đề

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, các tỉnh thành Đông Nam Bộ phải
trực tiếp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù, chính quyền nhân dân ở
Đông Nam Bộ được thành lập, nhưng nhiệm vụ chủ yếu là huy động sức người, sức của
tập trung cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ ở Đơng Nam Bộ. Do đó
đối với chính quyền cách mạng ở Đông Nam Bộ nhiệm vụ quản lý và khai thác biển đảo
trong những năm 1945 – 1954 ít được chú ý, chỉ một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân
dân vùng hậu cứ, căn cứ địa cách mạng với tinh thần tự cấp, tự túc thu đua tăng gia sản
xuất, bám biển khai thác hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng và kháng chiến. Mãi đến
những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1953 - 1954) vấn
đề quản lý và khai thác biển đảo khu vực Đông Nam Bộ mới được chú trọng sử dụng
vào việc tiếp tế chi viện từ miền Bắc vào miền Nam và chuẩn bị chuyển quân tập kết
bằng đường biển, theo tinh thần hiệp định Giơ ne vơ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp và tay sai, để đối phó với cuộc kháng chiến
của quân và dân ta ở Đông Nam Bộ hoạt động quản lý và khai thác biển đảo của chúng
trong giai đoạn 1945 – 1954 tập trung xây dựng bộ máy chính quyền, cơ sở hạ tầng vùng
biển đảo Đông Nam Bộ, biến khu vực này thành hậu cứ quan trọng để thống trị cả miền
Nam Việt Nam.
Tự thực tiễn ấy, trong chuyên đề này, sau khi phản ánh vị thế và sự thay đổi địa lý
hành chính vùng biển đảo Đơng Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám (1945) sẽ tập trung
trình bày hoạt động quan lý và khai thác biển đảo của chính quyền thực dân Pháp và tay
sai trong giai đoạn 1945 – 1954. Riêng về hoạt động khai thác biển đảo trong những năm
1945 – 1954, chúng tôi cũng có dành một phần để trình bày hoạt động khai thác biển đảo
phục vụ kháng chiến.

1


1.2. Vị thế và sự thay đổi địa lý hành chính vùng biển đảo Việt Nam ở miền
Đơng Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám (1945)
Vùng biển đảo Đông Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954 được xác định trên ba tỉnh

thành: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bà Rịa và tỉnh Cấp (Cap Saint Jaques).
Thành phố Hồ Chí Minh ở vào vị trí chếch hướng Tây Nam của miền Đông Nam
Bộ, Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Tây và Nam giáp tỉnh Long An, Đông và Đông Bắc giáp
tỉnh Đồng Nai, Đông Nam ăn thông ra biển Bà Rịa - Vũng Tàu. Hiện nay, thành phố có
12 quận nội thành (1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Bình Thạnh, Gị Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận)
và 6 huyện ngoại thành (Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Mơn, Thủ Đức, Nhà Bè, Cần Giờ).
Huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh) tiếp giáp với Biển Đơng, có 12km bờ
biển. Cửa biển Cần Giờ, từ thế kỷ XVIII đã được khách nước ngoài ca ngợi là cánh cửa
lớn của Việt Nam mở ra Thái Bình Dương.
Với Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh là một hải cảng quan trọng. Sơng Sài Gịn
đổ ra các đoạn Nhà Bè (16km), Lòng Tàu (33km), Ngã Bảy (16km), có độ sâu có thể
tiếp nhận tàu biển trên 30 ngàn tấn - một ưu thế hiếm có trên thế giới đối với một thành
phố ở sâu trong nội địa. Cảng Sài Gòn nằm sâu trong lòng đất liền 80km theo đường
sơng, nhưng lại có bến Rạch Dừa ở gần cửa biển là nơi có thể phát triển thành hải cảng
lớn. Sau năm 1954, cảng Sài Gịn có quân cảng dài 2km, 11 cầu tàu và thương cảng dài
1991m, 6 bến, 14 cầu tàu, khả năng tồn trữ 48.000 tấn trong 3 tháng. Cảng Nhà Bè cách
cảng Sài Gịn 10 hải lý, có kho chứa xăng dầu 63.000m3. Khi quân viễn chinh Mĩ vào
miền Nam, trên sông Sài Gịn - Nhà Bè lại hình thành thêm 6 cảng mới thay thế cảng Sài
Gòn về mặt tiếp nhận hàng quân sự. Với mặt nước tự nhiên chiếm 29.000 ha trên tồn
khu vực, hệ thống đường sơng đảm bảo thơng thương từ Sài Gịn lên miền Đơng, xuống
miền Tây, sang Campuchia.
Thành phố cảng Sài Gòn trong những năm 1945 – 1954 đã trở thành đầu mối của
nhiều xa lộ, quốc lộ, liên tỉnh lộ… ở khu vực Nam Đông Dương, đảm bảo lưu thơng từ
Sài Gịn ra miền Bắc, đi các tỉnh, lên Lào và Campuchia. Những con đường huyết mạch
sống cịn của Đơng Dương đều qua Sài Gịn: quốc lộ số 1 Hà Nội - thành phố Hồ Chí
Minh, lên ải Bắc, xuống miền Tây, quốc lộ 13 lên Campuchia, Lào, quốc lộ 22 lên
Campuchia, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa là đường vận chuyển lớn bổ sung quốc lộ 1 qua
các cầu trọng tải 50 tấn (Sài Gòn, Rạch Chiếc, Đồng Nai).

2



Sân bay Tân Sơn Nhất của Sài Gòn, là một trong 6 sân bay loại 3 trên toàn miền
Nam (sân máy bay phản lực có thể hạ cánh và có đủ phương tiện cho ngày đêm, mọi thời
tiết), đứng vào loại lớn trên thế giới, nơi quá cảnh của các đường bay quốc tế qua khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Đã có thời 20 hãng hàng khơng thương mại quốc tế sử
dụng sân bay Tân Sơn Nhất. Sân bay có thể tiếp nhận hàng trăm máy bay phản lực, quân
sự và dân sự hạng nặng lên xuống trong một ngày.
Chính do vị thế quan trọng của mình nên dân số thành phố cảng Sài Gịn ln
phát triển với tốc độ cao. Năm 1940, dân số của thành phố khoảng nửa triệu, năm 1954,
gần 2 triệu, năm 1975: 4 triệu. Như vậy, mặc dù trong điều kiện chiến tranh, nhưng dân
số của tahnhf phố vẫn luôn tăng với tốc độ lớn. Vì xuất phát từ yêu cầu phát triển của
nền kinh tế công thương nghiệp và của các ngành phục vụ chiến tranh, do việc mở rộng
các căn cứ quân sự của địch, do mở rộng đô thành và đặc biệt do chiến tranh khốc liệt,
lâu dài tàn phá nông thôn… nhân dân các nơi đổ về thành phố ngày một đơng.
Đối với thực dân Pháp và chính quyền tay sai, sau năm 1945 chúng chia Việt
Nam làm ba vùng là Nam Việt, Trung Việt và Bắc Việt. Miền Nam Việt Nam bao gồm
toàn bộ vùng Nam Bộ, Cao Nguyên miền Nam và một phần Trung Việt. Bà Rịa, Vũng
Tàu là hai tỉnh (tỉnh Bà Rịa và tỉnh Vũng Tàu) thuộc miền Đông của Nam phần Việt
Nam.
Tỉnh Bà Rịa gồm có tỉnh lỵ Bà Rịa và các quận Long Điền, Đất Đỏ, và Cơ Trạch.
Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh Bà Rịa đóng tại tỉnh lỵ (Phước Lễ).
Tỉnh Cấp (Cap Saint Jaques) có các làng Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam
(tổng Vũng Tàu) và tổng Cần Giờ. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh Cấp đóng tại Vũng
Tàu.
Tháng 12-1945 tỉnh Cấp được nhập vào Bà Rịa, gọi là tỉnh Bà Rịa.
Ngày 14-11-1946 “Chính phủ lâm thời Cộng hịa Nam kỳ” ban hành chỉ thị số
153-C/Cir-Sài Gòn thành lập các quận hành chánh quân sự (Délégation administrative et
militaire) Xuyên Mộc và Phú Mỹ. Tuy nhiên, đến ngày 28-7-1947 Tỉnh trưởng Bà Rịa ra
quyết định giải thể quận Xuyên Mộc, tiếp đó ngày 23-9-1947 giải thể quận Phú Mỹ1.

Ngày 10-3-1947 “Chính phủ lâm thời Cộng hịa Nam kỳ” ban hành nghị định
thành lập tỉnh Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Tiếp đó, ngày 3-5-1947 “Chính phủ lâm
1

Phơng Thống đốc Nam kỳ, Hồ sơ VV 216.Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

3


thời Cộng hòa Nam kỳ” ban hành nghị định thành lập quận Cần Giờ thuộc tỉnh Vũng
Tàu gồm các làng thuộc tổng Cần Giờ và tổng An Thịt. Trụ sở quận Cần Giờ đặt tại làng
Cần Thạnh.
Nghị định số 807-Cab/MI của Chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2912-1952, cải biến thị trấn Vũng Tàu thành thị xã hỗn hợp (Commune mixte)2. Nghị định
số 2235-Cab/DAA ngày 16-6-1954 của Thủ hiến Nam Việt tạm sáp nhập vào làng
Phước Hải hai làng Hội Mỹ và Long Mỹ và tạm sáp nhập làng Phước Lợi vào làng
Phước Thọ. Tuy nhiên đến ngày 2-11-1954 nghị định này bị thu hồi. Nghị định số 3517HCSV ngày 29-11-1954 của Đại biểu chính phủ tại Nam Việt thành lập quận Xuyên
Mộc, trụ sở đặt tại Xuyên Mộc3.
Đối với chính quyền cách mạng, từ tháng 5-1951, tỉnh Bà Rịa và các huyện Long
Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Nhà Bè được sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn (gọi
tắt là tỉnh Bà Chợ). Từ đó, đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp xâm lược
(1954), về căn bản địa lý hành chính Bà Rịa – Vũng Tàu khơng có sự thay đổi.
1.3. Tình hình vùng ven biển Đông Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám
(1945)
Sau khi giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám (1945), Ủy ban hành
chính các tỉnh, thành khu vực Đơng Nam Bộ được thành lập. Cùng với nhân dân cả
nước, Ủy ban hành chính lâm thời các tỉnh thành khu vực Đông Nam Bộ tổ chức thực
hiện một số nhiệm vụ cấp bách như tịch thu ruộng đất đồn điền, ruộng muối của thực
dân Pháp và ngoại kiều phản động tạm cấp cho dân nghèo; xóa bỏ thuế thân, giảm tơ,
hủy các món nợ tơ tức cũ đối với nơng dân; phát động tuần lễ vàng; khuyến khích tăng
gia sản xuất, chống đói; mở các lớp bình dân học vụ; phát động phong trào “lá lành đùm

lá rách”. Khuyến khích bà con ven biển khai hoang, phát rẫy trồng cây lương thực, hoa
màu, tham gia các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ.
Tuy nhiên, khơng khí độc lập tự do, hồ hởi xây dựng cuộc sống mới của cộng
đồng cư dân ven biển Đơng Nam Bộ đã nhanh chóng dập tắt vì phải đối mặt với cuộc
chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Sài Gòn, hơn
một triệu người đổ về quảng trường Norodom (nay ở trên đường Lê Duẩn) dự lễ mít tinh

2
3

Phơng Thống đốc Nam kỳ , Hồ sơ VV 216.Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Phông Thống đốc Nam kỳ , Hồ sơ VV 216.Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

4


mừng ngày độc lập dân tộc. Đây là cuộc mít tinh lớn nhất được tổ chức trọng thể giữa
thành phố Sài Gòn 8 ngày sau tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Sáng ngày 23 – 9 - 1945, Hội nghị của Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ tại số
nhà 269 đường Cây Mai. Tham dự hội nghị có các đồng chí Ung Văn Khiêm, Trần Văn
Giàu, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Nguyễn, Huỳnh Văn Tiểng… Đồng chí Hồng
Quốc Việt thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh dự hội nghị
quan trọng này.
Ngay sau khi Hội nghị Cây Mai kết thúc, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ phát lời
kêu gọi nhân dân thành phố và các tỉnh:
“Đồng bào Nam Bộ,
Nhân dân thành phố Sài Gòn,
Anh em công nhân, thanh niên, tự vệ, dân quân, binh sĩ!
Đêm qua thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung âm Sài Gòn.
Như vậy là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa!

Ngày 2 tháng 9 đồng bào đã thề quyết hi sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ
độc lập của Tổ quốc!
Độc lập hay là chết!
Hôm nay
Ủy ban kháng chiến kêu gọi
Tất cả đồng bào già, trẻ, trai, gái hãy cầm vũ khí xơng lên đánh đuổi qn giặc
xâm lược. Ai khơng có phận sự do Ủy ban kháng chiến giao phó, thì hãy lạp tức ra khỏi
thành phố. Những người cịn ở lại thì:
Khơng làm việc, khơng đi lính cho Pháp.
Khơng đưa đường, không báo tin, không bán lương thực cho Pháp.
Hãy tìm thực dân Pháp mà diệt.
Hãy đốt sạch, phá sạch các cơ sở, xe cộ, tàu bè, kho tàng nhà máy của Pháp.
Sài Gòn bị Pháp chiếm phải trở thành một Sài Gịn khơng điện, khơng nước,
khơng chợ búa, không cửa tiệm.
5


Hỡi đồng bào!
Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp, tiêu diệt
tay sai của chúng.
Hỡi anh em binh sĩ, dân quân tự vệ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay xơng lên đánh
đuổi thực dân Pháp cứu nước.
Cuộc kháng chiến bắt đầu!
Sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945”4
Từ ngày 23-9-1945, quân Pháp gây hấn đánh chiếm Sài Gịn và mở rộng tồn
Nam Bộ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai của nhân dân ta
bắt đầu.
Cuộc kháng chiến diễn ra ác liệt trên chiến trường Đông Nam Bộ. Mặc dù lực
lượng vũ trang của ta ở đây ít nhưng được sự hậu thuẫn của đông đảo nhân dân đã kiên
cường kháng chiến ngăn chặn quân địch, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng

nhanh” của Pháp.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ủy ban kháng chiến Nam
Bộ, cùng với nhân dân các tỉnh khác trong cả nước, các tầng lớp nhân dân Đông Nam Bộ
đã khẩn trương chuẩn bị kháng chiến.
Ngày 10-12-1945 Hội nghị Xứ ủy mở rộng tại Đức Hòa (Long An) quyết định
chia Nam Bộ thành ba khu: Khu 7, Khu 8 và Khu 9. Khu 7 gồm các tỉnh và thành phố
Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa (Vũng Tàu
được sáp nhập vào Bà Rịa), thống nhất lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ dưới sự chỉ huy
của các Khu; giải thể Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ và thành lập Ủy ban kháng chiến
miền Nam; phát động chiến tranh du kích rộng khắp, củng cố lực lượng vũ trang, tiến
hành diệt tề, trừ gian để hỗ trợ cho việc xây dựng cở sở đảng, chính quyền và các đồn
thể cách mạng.
Tại các địa bàn ven biển Đông Nam Bộ các đơn vị vũ trang cũng được hình
thành. Lực lượng cộng hòa vệ binh và đội cảm tử quân ở Vũng Tàu được lệnh tập trung
về Bà Rịa sáp nhập với lực lượng vũ trang Bà Rịa mang tên Cộng hòa vệ binh với quân
số 150 người, biên chế thành ba phân đội. Tại các làng xã, các đội tự vệ chiến đấu được
4

Địa chí Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu chủ biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 356.

6


thành lập, tự sưu tầm vũ khí, trang bị thêm giáo mác, luyện tập quân sự, bảo vệ trị an tại
địa phương và bố trí phịng thủ tại các địa bàn xung yếu, ven biển. Phong trào mua súng,
lấy trộm súng của bọn Nhật trang bị cho lực lượng vũ trang được đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia, nhất là thanh thiếu niên.
Trong lúc đó, từ khắp mọi miền đất nước, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, tiếp thêm sức mạnh cho Sài Gòn kháng
chiến dấy lên mạnh mẽ. Ngay sau khi cuộc kháng chiến bắt đầu, các tỉnh kế cận thành

phố Sài Gòn như Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Tân An, Bà Rịa, Vũng Tàu… tổ
chức nhiều đội tự vệ chiến đấu về Sài Gòn đánh Pháp. Ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung,
hàng vạn người xung phong đầu quân vào Nam giết giặc. Hầu hết các tỉnh đều lập
“phòng Nam Bộ” ghi tên các chiến sĩ tình nguyện vào Nam. Họ là những công nhân,
nông dân, thợ thủ công, học sinh, sinh viên, thầy thuốc, nhà giáo, kĩ sư, viên chức, Việt
kiều, cựu binh sĩ… gồm cả già, trẻ, gái, trai. Ngay từ tuần lễ đầu của cuộc kháng chiến ở
Nam Bộ đã có nhiều chi đội lên tàu vào Nam chiến đấu, gồm các đơn vị Giải quyết quân
từ các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, chiến khu Đông Triều, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Nghệ Tĩnh… Hầu như ngày nào trên các
chuyến tàu vào Nam cũng đều có quân Nam tiến.
Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước
và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Sáng ngày 20 tháng 10 năm
1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh soạn trong đêm 19 – 12 – 1946.
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, khơng chia tơn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ
7


quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước…”5.
Trước ngày tồn quốc kháng chiến, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ đã nhận được thư và
điện của Trung ương Đảng. Trong thư “Gửi các đồng chí Nam Bộ”, Trung ương Đảng
chỉ rõ: “Nam Bộ là căn cứ của Pháp thực dân để lấy nhân, vật, tài lực chiến tranh với cả
toàn quốc của ta và Đơng Dương… Những ý định lấy Sài Gịn làm trung tâm chính trị đã
biểu lộ, tất nhiên chúng ta phải có chính sách khơng những làm cho chúng khơng thể lấy
Nam Bộ dùng đánh Trung, Bắc mà lại là Nam Bộ cản trở thêm khó khăn nguy hại cho
chúng. Cho nên công tác phá hoại, bất hợp tác về mọi phương diện là cơng tác chính và
chính sách này muốn thực hành đầy đủ phải làm cho tồn dân có ý thức giác ngộ, hiểu rõ
mọi người đều có thể làm và phải làm để cứu nước… Khơng qn có những đội cảm tử
xung phong, phải hợp tác công tác xung phong cảm tử với quảng đại quần chúng bằng
phương pháp lãn cơng, đình cơng, địi quyền lợi kinh tế trong các cơng xưởng, các sở với
những hình thức đấu tranh chính trị chung, tẩy chay chính phủ bù nhìn, đòi các quyền lợi
tự do dân chủ, chống khủng bố, trong lúc này cũng cần rất quan trọng nghĩa là phải kết
hợp những cuộc đấu tranh không bạo lực với những cuộc chiến đấu bằng lực lượng, võ
khí.
Những cuộc tác chiến đánh úp trong những du kích có thể dùng võ lực bảo vệ tài
sản, sinh mạng dân chúng đi đôi với các cuộc giết bọn Việt gian, tay sai lợi hại của
chúng. Một điều đáng chú ý là luôn ln bảo vệ và xây đắp chính quyền chúng ta ở khắp
thơn q, thành thị, phải có những cơ quan hành chính bí mật hay cơng khai, bao giờ
cũng tiêu biểu chính quyền của ta vẫn có ở Nam Bộ.
Muốn thực hành những nhiệm vụ này, Đảng ta cần phải mạnh và thống nhất.
Khơng có một Đảng thống nhất và mạnh mẽ khơng thể đương đầu với tình thế hiện tại
được. Thống nhất, củng cố Đảng, phát triển Đảng thành một Đảng quần chúng đủ oai
quyền đầy đủ năng lực lãnh đạo là điều kiện cốt yếu để kháng chiến kiến quốc…”6.

5
6


Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1984, t. 4, tr. 203.
Văn kiện quân sự của Đảng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, t. 2, tr. 69, 70, 71, 72.

8


Trong bối cảnh quân và dân Đông Nam Bộ bước vào giai đoạn cùng cả nước
kháng chiến, lời kêu gọi của Bác Hồ và các chỉ thị của Trung ương Đảng có tác dụng cổ
vũ mạnh mẽ lịng u nước, ý chí quyết chiến chống xâm lược, vạch ra đường hướng cơ
bản về cuộc kháng chiến, khẳng định và phát triển những khởi nghĩa tiến hành kháng
chiến ở Đông Nam Bộ.
Tháng 4 năm 1947, đồng chí Lê Duẩn từ Việt Bắc về đến Nam Bộ. Tại chiến khu
Đồng Tháp Mười, Hội nghị Xứ ủy mở rộng được triệu tập. Hội nghị thành lập Xứ ủy
chính thức, bổ sung thêm một số ủy viên Xứ ủy mới và bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư
Xứ ủy.
Tiếp sau Hội nghị Xứ ủy, hội nghị cán bộ Đảng Sài Gòn - Chợ Lớn được triệu tập
tại Bà Vụ (Vườn Thơm). Hội nghị cử Ban chấp hành Thành ủy7, do đồng chí Nguyễn
Văn Linh làm bí thư.
Để củng cố và nâng cao năng lực của Ban lãnh đạo kháng chiến và chuẩn bị cho
việc thành lập Đảng bộ tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu, đầu năm 1947, Xứ ủy Nam Bộ đã điều
động thêm cho tỉnh một số cán bộ chính trị và quân sự. Tháng 4-1947, đại diện cho Xứ
ủy Nam Bộ, đồng chí Trần Xuân Độ triệu tập hội nghị và tiến hành thủ tục cơng nhận
chính thức danh hiệu đảng viên cộng sản. Cũng theo sự chỉ đạo của Xứ ủy, Tỉnh ủy lâm
thời Bà Rịa được thành lập8.
Ngay sau khi thành lập, Tỉnh ủy lâm thời quyết định một số cơng việc trước mắt,
trong đó chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng khu căn cứ kháng chiến
Phước Bửu – Lộc An.
Năm 1947, Quận ủy Long Điền, Vũng Tàu, Đất Đỏ, Cơ Trạch lần lượt được thành
lập. Bên cạnh đó, các lực lượng vũ trang của tỉnh cũng trưởng thành nhanh chóng và
vững chắc. Các tổ chức đồn thể từ tỉnh đến quận, xã được củng cố. Ngày 7-7-1947,

Liên hiệp cơng đồn tỉnh Bà Rịa ra đời. Hệ thống giao thông liên lạc từ tỉnh đến quận, xã
được thơng xuất và giữ vững.

Gồm 15 đồng chí: (13 chính thức, 2 dự bị): Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Thọ Chân, Ngô Sĩ Hùng, Ngô Thị Huệ,
Chương Dương, Huỳnh Văn Vàng, Cao Đăng Chiếm, Quế Lâm, Liễu Châu, Lê Tuấn, Lê Bá Hoa, Phùng Lượng,
Phạm Văn Chúc, Đào Năng An. Dẫn theo Lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định kháng chiến (1954 - 1975), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.132
8
Đồng chí Nguyễn Kế Hoa, cán bộ tăng cường của Xứ ủy được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời ; đồng chí
Bùi Cơng Minh làm phó Bí thư ; đồng chí Trần Xn Độ phụ trách theo dõi chung các cơ quan dân, chính, đảng
đồng thời trực tiếp làm Chính trị viên chi đội 16.
7

9


Thi hành Sắc lệnh số 91/SL ngày 1-10-1947, qui định “Ủy ban Kháng chiến và
Ủy ban hành chính các cấp (tỉnh, huyện, xã hay châu) nay hợp lại thành Ủy ban kháng
chiến kiêm Hành chính”9. Ngày 13-4-1948, Ủy ban Kháng chiến và Ủy ban Hành chính
tỉnh sáp nhập lại thành Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Bà Rịa, sau đó các Ủy ban
Kháng chiến Hành chính các quận và xã cũng lần lượt hình thành. Theo thống kê, lúc
này tỉnh Bà Rịa có 4 quận (quận Đất Đỏ, quận Long Điền, quận Vũng Tàu, quận Cơ
Trạch), 49 xã với 67.039 người10.
Hội nghị Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, Tỉnh ủy Gia Định, Tỉnh ủy Bà Rịa trong
năm 1947 đã đặt ra những vấn đề cơ bản về đường lối và phương pháp đấu tranh cách
mạng ở một thành phố lớn và vùng ven tạm bị chiếm. Hoạt động của các tỉnh, thành đã
cụ thể hóa đường lối kháng chiến của Đảng ta qua các văn kiện chỉ thị toàn dân kháng
chiến, Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương vào hồn cảnh cụ thể ở Đơng Nam Bộ.
Tháng 5 năm 1947, giặc Pháp giảm bớt hoạt động càn quét ở miền Tây Nam Bộ,
tập trung quân về đánh phá vùng xung quanh Sài Gịn và các tỉnh Đơng Nam Bộ. Để có

thêm quân thay thế cho các đơn vị chính quy đã rút ra miền Bắc làm nhiệm vụ bình định
lãnh thổ, thực dân Pháp tiến hành tuyển mộ lính ngụy. Chúng xây dựng hàng loạt căn cứ
khu vực ven biển Đơng Nam Bộ như có căn cứ Long Phước Thôn ở Thủ Đức, căn cứ
Tân Đông Hiệp, Bình An ở Dĩ An.
Căn cứ Long Phước thơn nằm phía hữu ngạn sơng Đồng Nai, phía Tây có sơng
Tắc chạy vòng qua ấp Phước Khánh đến Long Đại, kéo dài từ Tam Đa, Phú Hữu, Long
Trường, Tân Lập đến Tăng Nhơn Phú vịng lên phía Bắc nối liền với Tân Đơng Hiệp,
Đơng Hịa, Dĩ An. Long Phước Thơn cịn là nơi đứng chân của một số cơ quan của
Thành phố, vừa là hậu cứ quan trọng của lực lượng vũ trang biệt động tấn công vào nội
thành từ cửa ngõ phía Đơng thành phố.
Để đối phó các cuộc tấn công của quân Pháp ở Đông Nam Bộ, cuối tháng 10 năm
1947, Tư lệnh bộ Khu 7 phổ biến chỉ thị “phải phá cuộc tiến công mua đông của giặc
Pháp”, của Thường vụ Trung ương Đảng xuống các đơn vị và nhấn mạnh các đơn vị, địa
phương phải “đánh địch để phối hợp với Việt Bắc”. Riêng Sài Gòn phải “mở một đợt

Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) – Những sự kiện lịch sử, Nxb. Văn hóa – Thơng tin, H,
1997, tr.144.
10
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tập I, (1930 - 1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hn, 2000, tr.209.
9

10


đấu tranh chính trị và qn sự rộng khắp, khơng cho địch yên tâm để chi viện cho chiến
trường chính”11
Cùng thời gian này, trên chiến trường ven biển Đông Nam Bộ đã phát triển một
số đơn vị lực lượng vũ trang. Tại Nhà Bè và chiến khu Rừng Sác hình thành trung đoàn
phiên hiệu 300 mang tên liệt sĩ Dương Văn Dương. Trung đồn có hai tiểu đồn mang
phiên hiệu Lê Hồng Phong và Lý Chính Thắng.

Chấp hành chỉ thị của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ và hướng dẫn của
Phòng dân quân các tỉnh, thành các địa phương ven biển Đông Nam Bộ đều lần lượt lập
quân đội bộ, xã đội bộ dân quân, hệ thống dân quân tự vệ … lực lượng từ một tiểu đội
đến hai trung đội, ở xã trung bình có trên một trung đội dân quân tự vệ.
Cuối năm 1947, quân và dân các tỉnh thành Đông Nam Bộ liên tiếp đánh địch thu
được nhiều thắng lợi ở các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Chợ Lớn.
Tại Việt Bắc, ngày 15 - 1 - 1948, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
mở rộng nhằm kiểm điểm tình hình kháng chiến và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Hội nghị chủ trương củng cố toàn dân đồn kết, phá chính sách “dùng người Việt hại
người Việt” của thực dân Pháp, phá mọi chính quyền bù nhìn. Về kinh tế, phá kinh tế tài
chính địch, thực hiện khẩu hiệu tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, cải thiện dân sinh, tịch
thu tài sản của bọn phản quốc cấp cho dân nghèo và bộ đội. Phương châm tác chiến
chiến lược được đề ra là “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ”.
Thực hiện chủ tương trên, bước sang năm 1948 các tỉnh, thành ven biển Đông
Nam Bộ tổ chức lại chiến trường, phát triển lực lượng nhằm tiếp tục đưa cuộc kháng
chiến tiến tới. Ngày 27 - 3 - 1948, Khu ủy Khu 7 mở hội nghị mở rộng toàn khu. Hội
nghị quyết định điều chỉnh chiến trường, xây dựng các trung đoàn tập trung, xử lí trường
hợp bọn gián điệp và phản động lũng đoạn phá hoại trong nội bộ.
Sau Hội nghị, chiến trường Khu 7 chia ra 4 địa bàn hoạt động (4 phân khu):
1. (Phân khu đặc biệt) gồm: Sài Gòn - Chợ Lớn và các quận Gò Vấp, Thủ Đức
(tỉnh Gia Định) và Đức Hòa (tỉnh Chợ Lớn).

Dẫn theo Lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định kháng chiến (1954 - 1975), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1994, tr.154-155.
11

11


2. (Phân khu Duyên Hải) gồm: Bà Rịa, Vũng Tàu và các quận Nhà Bè, Cần Giờ

(vùng Rừng Sác tỉnh Gia Định), Cần Giuộc, Cần Đước (tỉnh Chợ Lớn), Long Thành
(tỉnh Biên Hòa).
3. (Phân khu biên giới) gồm: Tây Ninh, qn khu Đơng Thành (tỉnh Tân An) và
quận Hóc Mơn (tỉnh Gia Định).
4. (Phân khu cao su) gồm: Thủ Dầu Một, Biên Hòa.
Như vậy, Phân khu Duyên Hải gồm: Bà Rịa, Vũng Tàu và các quận Nhà Bè, Cần
Giờ (vùng Rừng Sác tỉnh Gia Định), Cần Giuộc, Cần Đước (tỉnh Chợ Lớn), Long Thành
(tỉnh Biên Hòa) là địa bàn ven biển Đông Nam Bộ.
Đầu năm 1949, tỉnh Bà Rịa giải thể quận Cơ Trạch và thành lập xã Cơ Trạch bao
gồm các làng Bàu Lâm, Ba Mẫu, Thừa Tích và Quảng Giao. Năm 1949, các xã Hắt Lăng
và Tam Phước của huyện Long Điền sáp nhập thành xã Phước Lăng; xã Phước Tụy và
xã Thạnh Mỹ của huyện Đất Đỏ nhập thành xã Phước Mỹ; huyện Vũng Tàu nhập các xã
Sơn Long, Sơn Hòa, Sơn Hiệp thành xã Thống Nhất; các xã Hội Thạnh, Hội Bài A, Hội
Bài B nhập thành xã Đoàn Kết; xã Bàn Thạch, Phước Tân và Phước Long nhập lại thành
xã Tân Thành; xã Long Xuân và xã Phước Hòa nhập thành xã Xuân Hòa12.
Tháng 10 năm 1949, quân viễn chinh Pháp ở miền Nam bắt đầu rút quân ra chiến
trường miền Bắc, chỉ giữ lại miền Nam 28 tiểu đồn qn chính quy. Để có đủ qn số
chiếm đóng bình định, địch triển khai bắt lính ồ ạt, xây dựng ngụy quân. Theo kí kết với
Pháp, chính phủ Bảo Đại được tổ chức quân đội riêng do sĩ quan ngụy chỉ huy, nhưng
vẫn khống chế quân ngụy bằng cách đưa nhân viên kĩ thuật người Pháp vào làm cố vấn,
đẻ ra cơ quan phối hợp hoạt động giữa quân đội Pháp và “quân đội các quốc gia liên kết”
dưới quyền điều khiển của Pháp.
Do đó, tại Đông Nam Bộ cùng với việc xây dựng ngụy quân, chính phủ Bảo Đại
ra sức củng cố hệ thống ngụy quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở, phát triển các
đảng phái phản động làm hậu thuẫn cho cơng cuộc bình định. Những tổ chức đảng phái
như “Quốc gia liên hiệp”, “Liên minh dân chủ quốc gia”, Việt Nam quốc dân Đảng”,
“Việt Nam độc lập dân chủ”, “Liên đoàn thanh niên bảo quốc”, Đại Việt”, rồi các tổ
chức nghiệp đồn cơng nhân do chúng lập ra như “Tổng liên đoàn lao động”, “Tổng liên
đoàn lực lượng thợ thuyền”… lên tiếng ủng hộ chính phủ Bảo Đại, kêu gọi lực lượng
Báo cáo của UBKCHC tỉnh ngày 31-12-1949, Hồ sơ của Trung tâm luu trữ quốc gia III, Phông UBKCHC/NB,

Hộp số 5, Hồ sơ số 121, tr32.
12

12


kháng chiến trở về xây dựng “quốc gia độc lập”. Công cuộc kháng chiến của quân và
dân Đông Nam Bộ đứng trước tình hình mới.
Tháng 9 - 1949, Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra chỉ thị tổ chức lại chiến trường, củng cố
nhân sự cấp khu và tỉnh, giải thể phân khu Duyên Hải của Khu 7. Khu Sài Gòn được mở
rộng về phía Tây Bắc, gồm thêm tồn tỉnh Tây Ninh (Khu 7 chỉ còn lại 3 tỉnh Biên Hòa,
Thủ Dầu Một, Bà Rịa).
Bước sang đầu năm 1950, cuộc kháng chiến của ta trên chiến trường Đông Nam
Bộ gặp nhiều khó khăn. Giặc Pháp tuy có điều lực lượng ra Bắc Bộ và Trung Bộ nhưng
quân số không giảm do vẫn tiếp tục tăng cường viện binh từ Pháp sang Việt Nam và phát
triển thêm ngụy quân tại chỗ.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1950 tình hình có nhiều chuyển biến, cuộc kháng chiến
của nhân dân ta có nhiều bước phát triển mới. Sau thất bại ở chiến dịch Biên giới, chính
phủ Pháp quyết định phái đại tướng De Lattre de Tassigni, nguyên tư lệnh lục quân khối
Tây Âu, sang làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương;
đồng thời, xin Mỹ tăng cường viện trợ cho cuộc chiến tranh.
Trên chiến trường Đông Dương và Việt Nam, De Lattre de Tassigni tiến hành xây
dựng lực lượng cơ động chiến lược, ra sức phát triển ngụy qn; xây dựng hệ thống đồn
bót bít các đường liên lạc, tiếp tế của ta; bao quanh các đồn bót là hệ thống boong-ke
phịng thủ. Chúng tập trung qn bình định vào vùng chúng kiểm sốt; tăng cường gián
điệp, phá hoại tấn công sâu vào vùng tự do và các vùng căn cứ kháng chiến... Ở Đơng
Nam Bộ nói chung, vùng Dun hải Đơng Nam Bộ nói riêng, kế hoạch của De Lattre de
Tassigni đã gây nhiều khó khăn cho ta, nhất là ở những vùng sau lưng địch.
Trước tình hình đó, tháng 2-1951, Trung ương Cục miền Nam quyết định chia lại
chiến trường Nam Bộ thành 2 phân khu. Phân khu miền Đông và phân khu miền Tây.

Ngày 27-6-1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ ra Nghị định số 172/NĐ-51,
thành lập Tỉnh Bà Rịa – Chợ Lớn, theo đó, tỉnh Bà Rịa – Chợ Lớn gồm toàn bộ tỉnh Bà
Rịa và một phần của 3 tỉnh khác là Chợ Lớn, Biên Hịa, Gia Định, có bốn huyện và hai
thị xã: Huyện Long Điền – Đất Đỏ, huyện Vũng Tàu, Liên Huyện (Cần Đước, Cần
Giuộc, Nhà Bè), huyện Long Thành và hai thị xã Cấp và Bà Rịa13.
Vùng dun hải Đơng Nam Bộ có vị trí trọng yếu, bao phủ tồn bộ vùng biển đảo
Đơng Nam Bộ, như một cánh cung bao vây quanh Sài Gòn từ phía Nam và Đơng Nam
13

Thạch Phương, Nguyễn Trong Minh (cb), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, Nxb. KHXH, Hn, 2005, tr.269

13


cùng các tỉnh khác trong Phân liên khu miền Đông tạo thế liên hồn. Chính vì vậy cuộc
đấu tranh giữa ta và địch trên chiến trường Bà Rịa - Chợ Lớn diễn ra rất quyết liệt cho
đến những năm tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.4. Chính quyền thực dân Pháp và tay sai trong việc quản lý biển đảo Việt
Nam ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954)
Vùng duyên hải Đông Nam Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược vừa là vùng ven án
ngữ con đường biển duy nhất vào Sài Gòn, một trong những huyết mạch giao thông
đường biển, vừa là địa đầu tiếp giáp với Nam Trung Bộ. Vì vậy, trong lần tái xâm lược
Việt Nam năm 1945, Pháp coi nơi đây là một trong những địa bàn trọng điểm về chính
trị và quân sự trong chiến lược ở miền Nam Việt Nam của Pháp, nên chúng đưa một lực
lượng quân sự khá hùng mạnh gồm cả bộ binh, pháo binh, thiết giáp, hải quân và lực
lượng an ninh; quân số cao nhất có lúc lên tới hai trung đồn để xâm chiếm và quản lý
vùng này14.
Hoạt động quản lý biển đảo của thực dân và chính quyền tay sai ở vùng duyên hải
Đông Nam Bộ trong giai đoạn 1945 – 1954 tập trung vào hai mảng chính: 1/ quản lý về
an ninh, trị an, 2/ quản lý các hoạt động phát triển kinh tế biển. Trong đó hoạt động quản

lý về an ninh, trị an là chủ yếu, vì vùng duyên hải Đông Nam Bộ là vùng tạm chiếm,
luôn đối mặt với các cuộc tấn công của lực lượng cách mạng.
Tháng 2-1946, sau khi đánh chiếm và làm chủ vùng duyên hải Đông Nam Bộ,
Pháp khẩn trương tổ chức bộ máy tề ngụy nhằm quản lý vùng ven biển, thiết lập tiểu khu
Bà Rịa, Vũng Tàu, Cần Giờ cùng các chi khu Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc
(Quartier), phân tiểu khu Nước Ngọt - Long Hải (Sous quartier autonome) phân chi khu
Bình Ba; thiết lập hàng loạt các đồn bót ven các lộ giao thông; ra sức xây dựng và củng
cố tổ chức hệ thống tề ngụy ở các làng xã. Tính đến cuối tháng 2-1946, quân số của Pháp
và tay sai tập trung ở vùng duyên hải Đông Nam Bộ khoảng 2 trung đoàn gồm bộ binh,
pháo binh, thiết giáp, hải quân, biệt kích với lực lượng cơ động tăng cường khá đơng khi
cần thiết. Trong đó, khống chế thường xuyên các địa bàn ven biển ở đây có tiểu đồn 2
Ma rốc của miền Đơng, tiểu đồn 3 dù ngụy binh, binh đoàn cơ động của Pháp tại Nam
Bộ, hải đoàn xung phong 2 (Rừng Sác) và lực lượng biệt kích15.

14
15

CAP Saint Jacques Pêcherie, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
CAP Saint Jacques Pêcherie, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

14


Trên địa bàn vùng duyên hải Đông Nam Bộ lúc bấy giờ, thực dân Pháp đã chiếm
100 trong số 110 xã - trong đó Bà Rịa – Vũng Tàu có 104 xã, Cần Giờ có 6 xã –chiếm
96% diện tích toàn vùng. Ta thường gọi đây vùng bị địch tạm chiếm và vùng du kích bị
uy hiếp nặng. Tất cả các địa phương ven biển của Đông Nam Bộ đều nằm trong vùng bị
địch tạm chiếm và vùng du kích bị uy hiếp nặng.
Nhằm gia tăng năng lực quản lý và kiểm sốt vùng dun hải Đơng Nam Bộ, thực
dân Pháp đã mở nhiều cuộc hành quân nhằm bình định và kiểm soát thành phố Vũng

Tàu, Bà Rịa và các làng ven biển Cần Giờ… những nơi có vị trí kinh tế quân sự, các đầu
mối giao thông thủy bộ, kiểm soát chặt các bến cảng cửa khẩu và càn quét mở rộng vùng
chiếm đóng, lập tề ngụy, ráo riết bắt lính. Chúng dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ
lôi kéo và gom dân về sống chung quanh đồn bót mà chúng coi như những phịng tuyến
mềm vừa hạn chế các cuộc tập kích của ta vào đồn bót, vừa có điều kiện thực hiện các
chính sách mị dân.
Trên dọc hành lang tuyến biến, để ngăn chặn hoạt động của lực lượng kháng
chiến với cộng đồng cư dân ven biển, đồng thời siết chặt an ninh khu vực này thực dân
Pháp đã triển khai các điểm đóng quân, xây đồn bót, tổ chức càn quét, đốt nhà dân bắn
giết người và gia súc, gom dân trở lại. Tại Vũng Tàu, Cần Giờ, Bà Rịa chúng mở nhiều
cuộc hành quân bắt bớ những người kháng chiến và những gia đình có người tham gia
cách mạng.
Tháng 2-1946, hơn 100 lính Pháp từ chi khu Đất Đỏ theo lộ 23 kéo lên Xuyên
Mộc, triển khai các điểm đóng quân, xây đồn bót, lập chi khu Xuyên Mộc. Sau đó, từ
Xuyên Mộc, chúng tung từng toán trinh sát lùng sục để mở rộng vùng chiếm đóng lên
tận vùng giáp ranh với tỉnh Bình Thuận. Tại Phước Bửu, Pháp cũng thực hiện khủng bố
để gom dân, đốt nhà dân ở Gò Cà, phá hủy các phương tiện sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân. Ngày 25-5-1946, Pháp chiếm Bà Trao - Núi Nứa, đóng đồn ở Bến Đá. Lính
Pháp thường xuyên hành quân vào các làng ven biển để vơ vét thóc gạo, gà, vịt, khủng
bố nhân dân.
Tại Long Mỹ, mặc dù địch đã lập tề xã, chúng cũng khơng kiểm sốt nổi. Chúng
biết nơi đây là căn cứ cách mạng, nơi tập trung cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh,
nên mở nhiều cuộc hành quân càn quét. Ban ngày, địch cùng các loại cơ giới và xe ủi đất
san lấp. Sau đó, dùng pháo 105 và pháo 155 để tàn phá xã này.

15


Tháng 9 -1946, thực dân Pháp đóng đồn pạctigiăng Long Hải, và thường xuyên
đưa lính đi càn quét từ Long Hải đến Lị Vơi. Chúng khơi phục bộ máy tề ngụy và mở

rộng vùng chiếm đóng, thiết lập Tiểu khu Bà Rịa và các Chi khu Vũng Tàu, Long Điền,
Đất Đỏ, Xuyên Mộc, khai thông lộ 2 và các lộ 23, 24, 52 lập đồn bốt dọc theo các trục lộ
giao thông.
Để bảo vệ vịnh Ghềnh Rái và trục sông Lịng Tàu, địch đã thiết lập hệ thống
nhiều đồn bót phịng thủ như đồn Bình Khánh, Phước Khánh. Chi khu Cần Giờ do hai
đại đội Pạctidăng đóng giữ, tên quan hai quận trưởng chỉ huy.
Chiếm đóng đến đâu, thực dân Pháp móc nối những tên tay sai cũ, lập lại các ban
tề, tổ chức thân binh để mở rộng chiếm đóng, kiểm sốt chỗ đóng qn. Những người
trước đây đã từng làm tay sai cho Pháp trước đây, bây giờ ngóc đầu dậy với hy vọng
được chúng dùng lại trong bộ máy tề điệp, phụ họa với những luận điệu phản tuyên
truyền đối với cách mạng, coi việc Pháp quay trở lại là một dịp may để cầu “vinh thân,
phì gia”.
Bên cạnh việc tăng cường lực lượng bảo vệ lộ 2, con đường bộ duy nhất để tiếp tế
cho Bà Rịa và Vũng Tàu kể từ khi lộ 15 bị cắt đứt, kể từ cuối năm 1947, thực dân Pháp
khùng bố đồng bào để uy hiếp tinh thần nhân dân ta. Tại Vũng Tàu chúng tăng cường
lực lượng cho đồn lính bảo an đóng ở Ngã tư Giếng Nước, kiểm sốt chặt chẽ đầu mối
giao thơng giữa Vũng Tàu và căn cứ địa kháng chiến. Chúng kiểm soát gắt gao vùng
Thắng Nhì, vì nơi đây là một đầu cầu tập kết các lực lượng vũ trang từ Bà Trao - Núi
Nứa vào hoạt động nội ơ. Đồng bào Thắng Nhì đã hết lịng ni dấu cán bộ, bộ đội, đóng
góp lương thực, thuốc men tiếp tế cho khu căn cứ Núi Nứa, đưa đón cán bộ, bộ đội hành
quân qua đây.
Từ tháng 10 - 1949, để có đủ quân số chiếm đóng, bình định, địch triển khai ồ ạt
việc bắt lính ở các làng, xã ven biển Đơng Nam Bộ. Chúng kêu gọi xây dựng ngụy quân
dưới danh nghĩa “quân đội quốc gia”. Tại đây, “quân đội quốc gia''” vẫn do Pháp khống
chế, thực tế là thực hiện nhiệm vụ do Pháp giao, dưới hình thức cố vấn và “'phối hợp
hành động”' giữa quân đội Pháp và '”quân đội các quốc gia liên kết”. Chúng hô hào phát
triển các đảng phái phản động làm hậu thuẫn cho cơng cuộc bình định, kêu gọi những
người kháng chiến “trở về với quốc gia độc lập”... Ngày 15 tháng 5 năm 1950, cái gọi là
“quân đội quốc gia Việt Nam” chính thức ra đời với sự chuẩn y của Quốc hội Pháp.


16


Sau thất bại nặng nề ở Biên giới (Thu Đông 1950), thực dân Pháp đẩy mạnh chính
sách dùng người Việt đánh người Việt. Chúng tập trung binh lực bình định vùng đồng
bằng ven biển Đông Nam Bộ. Chúng tập trung binh lực càn quét từng vùng, chiếm đóng
từng khu vực, thọc sâu vào căn cứ ta, chà đi sát lại dài ngày, giết người, cướp của, triệt phá
kinh tế, ra sức ngăn chặn đường tiếp vận từ Khu 8 đến Khu 7. Chúng sử dụng lực lượng
cấp tiểu đoàn, tập trung càn quét, tung biệt kích đánh vào vùng căn cứ của tỉnh. Các vùng
căn cứ Hắt Dịch - Phú Mỹ, Bà Trao - Núi Nứa, Xuyên - Phước - Cơ liên tục bị càn quét.
Về kinh tế, do tình hình chiến tranh diễn ra ác liệt nên sau một thời gian gián
đoạn, các ngành kinh tế trong vùng ven biển đang bị tạm chiếm dần dần hoạt động trở
lại. Tại Vũng Tàu, các sở máy nước, máy điện khôi phục và hoạt động giải quyết các nhu
cầu của bộ máy chính quyền và khối cư dân đơ thị ven biển. Một số ngành dịch vụ,
thương nghiệp, đặc biệt là ngành Bưu điện …. được hồi phục. “Các công ty hàng hải nối
lại các tuyến vận tải biển giữa Việt Nam với Pháp và Hồng Kông... phục vụ cho hoạt
động xuất, nhập khẩu của vùng bị tạm chiếm. Các hãng buôn lớn của người Pháp như
Poinsard và Veyret, Descours, Cabaud, Denis Frères, Bourguoin Meifres, Diethlem... mở
rộng hoạt động xuất khẩu than, cao su, gạo... và nhập khẩu hàng công nghiệp. Kết quả là
sản phẩm hàng hóa trên thị trường dồi dào, hoạt động kinh doanh buôn bán khá sầm uất
… Hàng hóa dồi dào nhưng giá cả thị trường vẫn tăng nhanh. So với năm 1946, năm
1950, giá ở vùng bị tạm chiếm đã tăng 3,3 lần. Tiền ra thị trường nhiều. Đồng tiền Đông
Dương ngày càng mất giá.16
Từ năm 1951, trước những thắng lợi của ta trên mặt trận quân sự, triển vọng thất
bại của cuộc chiến tranh xâm lược Pháp ngày càng bộc lộ rõ. Các nhà kinh doanh Pháp
bắt đầu rút khỏi Việt Nam, chuyển về đầu tư ở châu Âu và châu Phi. Những người còn
lại thì chuyển sang làm ăn theo kiểu chụp giựt, bóc ngắn cắn dài: Rút vốn đầu tư, ra sức
khai thác tài nguyên, tranh thủ kiếm lời nhanh, thu hồi vốn nhanh... Cách làm ăn theo
kiểu giã đám này khiến sản xuất công nghiệp trong vùng bị tạm chiếm ở miền Nam nói
chung, ở Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng khơng tăng trưởng mà sụt giảm dần. “Trên thị

trường thì giá cả tăng nhanh, đồng tiền Đông Dương ngày càng mất giá. Tuy nhiên, hàng
hóa trên thị trường vẫn dồi dào. Hàng nhập khẩu từ Pháp ngày càng nhiều. Ngoài ra lại

Bộ Công thương Việt Nam (2015) Công nghiệp và Thương mại Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến và kiến
quốc - />16

17


có thêm hàng viện trợ của Hoa Kỳ. Nguồn hàng phong phú đã tạo nên một bộ mặt hoạt
động thương mại sầm uất”. 17
Từ năm 1952 trở đi thực dân Pháp và tay sai tăng cường quản lý vùng biển Đông
Nam Bộ gắt gao hơn. Chúng lùng sục vào từng ngõ phố, các làng ven biển để bắt thanh
niên lính, tổ chức nhiều cuộc ruồng bố. Ở thị xã Cấp, địch bắt 50 thanh niên, Đất Đỏ
chúng bắt 70, Long Thành bắt 300, ở Liên Huyện bắt 219. Ở Long Điền - Đất Đỏ, địch
tăng cường bót Long Mỹ. Chúng tận dụng bọn đầu hàng lập thành Commandos liên tiếp
uy hiếp vùng ven căn cứ địa, đánh mạnh cơ sở xã ở các căn cứ huyện, sử dụng phi cơ và
tàu bè kiểm sốt ven sơng, ven biển thay thế bộ binh. Tập trung lực lượng chính quy ven
căn cứ để đối phó với ta; phát triển mạng lưới gián điệp trong căn cứ đi đôi với phao tin
nghi binh và tuyên truyền lôi kéo chiến sĩ và dân chúng. Địch ra sức củng cố vùng bị
địch tạm chiếm bằng các thủ đoạn:
- Càn quét các xã du kích bàn đạp, chặn đường thâm nhập vào các thị trấn và
vùng chúng tạm chiếm đóng;
- Gia tăng hoạt động cảnh sát, mật thám để phá cơ sở ta, tuyên truyền ly gián
đồng bào và cán bộ, kiểm soát chặt chẽ dân chúng trong các thị xã;
- Ở các xã bị tạm chiếm, địch mở nhiều cuộc tuần tiễu, càn quét, phục kích đánh
phá quân - dân - chính xã;
- Phá địa hình, địa vật, củng cố cơng sự đồn bót;
- Phát triển các tôn giáo để mê muội nhân dân làm cho dân chúng cầu an.
- Dùng chính sách khủng bố trắng, tra tấn dã man (kể cả phụ nữ và trẻ em) để chỉ

bắt cán bộ. Tra tấn dã man đồng bào tại chỗ bắt buộc chỉ hầm bí mật. Khi bắt được một
cán bộ trong nhà nào thì đem giết hết gia đình người đó.
- Sử dụng tin tức bọn gián điệp và đầu hàng, dùng chiến thuật đột kích, phục kích,
bao vây để tiêu diệt cán bộ xã và thị xã.
Chúng tăng cường kềm kẹp và bóc lột, làm cho đời sống đồng bào vùng ven biển
như ở Bình Châu, Lộc An, Long Hải, Phước Tỉnh, Tháng Tam… rất khốn đốn. Nam nữ
từ 18 tuổi trở lên mỗi thánh phải đi làm xâu 20 ngày. Bọn tề ngụy, tay sai ở Cộng Hồ và
Bộ Cơng thương Việt Nam (2015) Công nghiệp và Thương mại Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến và kiến
quốc />17

18


Long Phước thường dựng chuyện vu khống, bắt bớ làm tiền đồng bào. Chúng bắt đồng
bào đóng một giấy phép đi làm 15$, một giấy phép mua bán từ 5$ đến 10$, một con trâu
20$, một xe bò 80$, một nhà ngói 80$ và bắt đóng 15% số hoa lợi ruộng trước khi gặt;
thu thuế đảm phụ quốc phòng từ 50$ đến 300$ một năm/người.
Dọc các làng ven biển chúng phát triển các tổ chức phản động đội lối tôn giáo,
khuyến khích cúng kiêng, mê tín dị đoan, phổ biến các kinh sấm truyền; xuyên tạc kháng
chiến. Chúng tổ chức cho đồng bào Vũng Vằng (Long Đất) mở lại ruộng muối, lôi kéo
một số đồng bào vùng căn cứ ta về ở vùng chúng kiểm soát bằng các biện pháp kinh tế;
dồn dân ra hai bên lộ, lập các khu tập trung, tách nhân dân ra khỏi cách mạng; dồn dân
các các xã Phú Mỹ, Phước Thiện, Xn Hịa, Đồn Kết đến các khu dồn ven lộ 15.
Trong khu tập trung, địch kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đánh bắt hải sản của bà con
ngư dân nhằm ngăn chặn việc tiếp tế của đồng bào cho kháng chiến.
*
Tại Côn Đảo, từ sau năm 1945 hoạt động quản lý đảo vẫn duy trì theo tinh thần
Nghị định ngày 17-5-1916 của Tồn quyền Đơng Dương. Trong đó quy định, Giám đốc
đề lao có mọi quyền hành, vừa là người điều hành mọi hoạt động của nhà lao, vừa quản
lý về hành chánh, hành pháp và tư pháp. Năm 1949, sau khi trao trả quyền “độc lập” cho

chính phù bù nhìn Quốc gia Việt Nam, chế độ quản lý Côn Đảo của chính quyền thực
dân có sự thay đổi. Bên cạnh việc duy trì hệ thống đề lao Cơn Đảo, thực dân Pháp và
chính quyền tay sai thiết lập Cơn Đảo thành tiểu khu biệt lập đặt dưới sự quản lý của Bộ
Tư lệnh Hải quân, nhưng vẫn giữ nguyên chế độ quản lý cũ18. Giám đốc đề lao vẫn là
Chúa đảo. Chế độ cai quản này kéo dài cho đến năm 1954, sau khi Hiệp định Genève về
đỉnh chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, thực dân Pháp buộc phải rút quân về nước,
miền Nam Việt Nam, bao gồm cả Cơn Đảo tạm thời đặt dưới sự kiểm sốt của chính
quyền Ngơ Đình Diệm. Tháng 11-1954, Ngơ Đình Diệm phái Bạch Văn Bốn – thiếu tá
Hải quân – ra tiếp quản đảo từ tay người Pháp, đặt Côn Đảo dưới chế độ cai trị quân sự,
với cấp quản lý là Tiểu khu biệt lập Côn Đảo.
Sau khi đánh chiếm được miền Nam, thực dân Pháp dùng chiến tranh tâm lý,
chính trị để tranh thủ nhân dân và thành lập chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh, Lê
Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Bảo Đại (1945 - 1954) để tạo bức bình phong che đậy
dã tâm xâm lược của chúng.
18

Phơng Thống đốc Nam kỳ, Hồ sơ số 3494GD, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II

19


Đối với vùng duyên hải Đông Nam Bộ, thực dân Pháp và chính quyền tay sai xác
định đây là một trong những trọng điểm trong vành đai bao quanh Sài Gòn, nên việc
quản lý các mặt đời sống xã hội, khai thác vị thế biển đảo ở đây đã trở thành một trong
những vấn đề trọng yếu đối với chúng.
Sau khi đánh chiếm được Đông Nam Bộ,, thực dân Pháp và chính quyền tay sai
đã từng bước thiết lập các đơn vị hành chính, triển khai hàng loạt chính sách quản lý
vùng biển đảo Bà Rịa, Vũng Tàu theo phương châm kiểm sốt gắt gao về an ninh chính
trị. Chúng chiêu dụ dân chúng, đón tiếp người hồi cư, trả lương cho công chức cũ, kêu
gọi tham gia vào bộ máy tề ngụy. Phong trào “dinh tê” tản cư vào vùng Pháp chiếm đóng

ngày một đơng hơn – gây cho ta nhiều khăn.
Cùng với thiết lập bộ máy chính quyền quản lý chặt chẽ các địa phương ven biển,
thực dân Pháp triển khai hàng loạt chính sách quản lý mọi mặt đời sống xã hội vùng biển
đảo theo phương châm kiểm sốt gắt gao, thực thi chính sách cai trị hà khắc, liệt tất cả
các phần tử đối lập, lực lượng cách mạng, quần chúng yêu nước vào danh sách những
người chống đối chính quyền.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động quản lý biển đảo giai đoạn 1945 – 1954 của
chính quyền thực dân, tay sai ở Đơng Nam Bộ là sau khi thiết lập bộ máy cai trị ở địa
phương, chúng cho lập hàng loạt đồn bót và tổ chức nhiều cuộc hành quân thám sát, thọc
sâu vào vùng rừng núi, nhất là những địa bàn là căn cứ cách mạng để tiêu diệt lực lượng
kháng chiến.
1.5. Chính quyền thực dân Pháp và tay sai trong việc khai thác biển đảo Việt
Nam ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954)
Đây là thời kỳ Đông Nam Bộ đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt do thực dân
Pháp gây ra, do đó hoạt động khai thác biển đảo của cộng đồng cư dân ven biển Đông
Nam Bộ trong những năm 1945 – 1954 chủ yếu là duy trì các nghề kinh tế biển truyền
thống như đánh bắt thủy sản, làm muối, chế biến hải sản, đan lưới… Các hoạt động khai
thác biển đảo của chính quyền cũng chỉ tập trung khai thác những lợi thế hiện hữu như
du lịch biển, hàng hải.
Sau khi chiếm được vùng ven biển Đông Nam Bộ và từng bước thiết lập bộ máy
cai trị, chính quyền thực dân Pháp và tay sai đã tiến hành khai thác biển đảo theo phương
thức từng bước chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế nơi này từ một cơ cấu nông – ngư nghiệp
thành cơ cấu kinh tế: công nghiệp – dịch vụ – nơng nghiệp. Dưới chính sách khai thác của
20


thực dân Pháp, ở vùng ven biển Đông Nam Bộ thời kỳ này đã hình thành một số ngành,
lĩnh vực công nghiệp điện, nước, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông, hải sản.
Về du lịch biển, nhận thấy Đơng Nam Bộ có tiềm năng rất lớn về du lịch biển đảo,
với đường bờ biển dài, nhiều bãi tắm và danh lam thắng cảnh đẹp, thực dân Pháp và

chính quyền tay sai đã tiến hành một số biện pháp như chỉnh trang đô thị, phát triển cơ
sở hạ tầng.
Những năm 1945 – 1947 thực dân Pháp tập trung giải quyết những khó khăn
trước mắt để phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng của tầng lớp thượng lưu, quan chức. Tu bổ hệ
thống đường sá nội thị, đặc biệt là khu vực trung tâm hành chính ở Vũng Tàu và đơ thị
cảng Sài Gòn.
Tại Vũng Tàu, chúng tiến hành chỉnh trang những dãy hàng quán nhếch nhác với
những nhà gỗ xây dựng vội vàng lợp lá ở Bến Đình thành những căn nhà xây, ngăn nắp
hơn. Tu bổ các công sở như Nhà dây thép, Phòng hoa tiêu, Tòa Bố, sở Cị, sở Tràng
Tiền… góp phần làm cho bộ mặt đơ thị Vũng Tàu thốt khỏi tình trạng xập xệ, điều tan
sau cuộc chiến. Đồng thời tu bổ, sửa chữa Nhà Đèn, Nhà máy nước cung cấp cho các
công sở và phục vụ các hoạt động du lịch – dịch vụ, khắc phục tình trạng khan hiếm
nước ngọt.
Thực dân Pháp cịn tiến hành xây dựng hệ thống đồn bót dọc con đường quốc lộ
số 15 (nay gọi là quốc lộ số 51) vừa để đảm bảo an ninh, hành quân đàn áp lực lượng
kháng chiến, vừa bảo vệ trị an, tạo điều kiện cho quan chức và những người giàu có ở
Sài Gòn và các tỉnh lân cận về Vũng Tàu du lịch, nghỉ ngơi.
Để khôi phục lại hoạt động du lịch biển ở Vũng Tàu, chính quyền một mắt bắt tay
giải quyết tình trạng mất mỹ quan của phố phường, nhất là các khu vực bãi biển, mặt
khác khuyến khích các cơ sở kinh doanh du lịch nhanh chóng khai thác du lịch biển.
Người Pháp đã chú ý khôi phục và đưa các cơ sở du lịch Viện điều Anduzer (nhà nghỉ cổ
nhất ở nước ta), khách sạn: Grand Hotel, Hostellerie du Cap St Jacques, Hotel
Beauséjour… đi vào hoạt động. Dần dần, hệ thống biệt thự ở Vũng Tàu với 48 biệt thự
tư nhân, 11 biệt thự của ngân hàng, 22 biệt thự dành riêng cho sĩ quan cũng đi vào hoạt
động tào điều kiện phát triển hoạt động du lịch biển ở Bà Rịa – Vũng Tàu trong những
năm 1945 – 1954.
Khu vực Bãi Trước với những tòa nhà phân lô khuôn theo những con đường được
quy hoạch sẵn của Pháp kiều, Ấn kiều, Hoa kiều, những người Việt “ăn nên làm ra”,
21



những chủ đồn điền cao su, chủ nhà băng trên Sài Gịn… sẵn sàng đón khách nghỉ mát
từ Sài Gịn xuống.
Khu vực chợ Vũng Tàu ở gần Cầu Đá được xây dựng với hai dãy nhà lồng và khu
chợ Chiều gần Bãi Trước19 hoạt động tấp nập suốt ngày đêm vừa phát triển thương mại
vừa thúc đẩy hoạt động du lịch. Các ngành dịch vụ ở Vũng Tàu thu hút đơng đảo lao
động các làng Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam và dân chúng từ các làng thuộc tổng
Cần Giờ … làm thêm các dịch vụ du lịch, buôn bán nhỏ.
So với các ngành kinh tế khác trong giai đoạn này, hệ thống khách sạn và các loại
hình dịch vụ phục vụ du lịch phát triển khá mạnh ở Vũng Tàu. Những năm 1947 – 1954,
Vũng Tàu được coi là một trong trung tâm du lịch lớn của khu vực phía Nam, được ví
như “sân sau” của hịn ngọc Viễn Đơng (Sài Gịn).
Đối với các đơ thị ven biển Đơng Nam Bộ như Sài Gòn, Vũng Tàu những năm
1945 – 1954 tuy bị chiến tranh chí phối, nhưng các hoạt động kinh tế vẫn sôi nổi. Các
nagnhf công thương và dịch vụ phát triển mạnh. Sự phân công lao động xã hội đã
chuyển dần theo hướng chun mơn hóa với đặc điểm lao động nông nghiệp giảm, lao
động công thương nghiệp tăng lên. Hơn nữa, trong thời gian này tình hình dân số vùng
dun hải Đơng Nam Bộ tăng cơ học lớn vì ảnh hưởng của chiến tranh. Một bộ phận
không nhỏ dân cư rời nông thôn - nông nghiệp vào thành thị và trở thành lao động công
thương nghiệp, dịch vụ. Tiền tệ được thu hút vào tiêu xài hay đầu tư vào công thương
nghiệp, dịch vụ nhiều hơn là mua ruộng đất trở thành địa chủ phát canh thu tơ. Xu hướng
địa chủ bị tư sản hóa vốn có từ trước, nay tăng mạnh hơn, địa chủ rời bỏ nông thôn chạy
về thành thị ngày càng nhiều.
Trước đây, vùng dun hải Đơng Nam Bộ đã có quan hệ kinh tế với nhiều nước
từ châu Á, châu Âu, Châu Mỹ, nhưng trong những năm 1945- 1954 dù thực dân Pháp rất
chú trọng về vấn đề này và đã đề ra một số biện pháp, song do chiến tranh đã chi phối
ngày càng lớn nên những hoạt động kinh tế, thương mại sa sút, nhất là vào những năm
cuối của của chiến tranh 1953 - 1954. Các hoạt động vận tải biển, xuất nhập khẩu ở vùng
duyên hải Đông Nam Bộ bị đình đốn, như: xuất khẩu gạo bị sa sút do sự rớt giá. Hoạt
động giao thương gặp nhiều khó khăn do chiến tranh ngày càng lan rộng, các hoạt động

qn sự khơng đảm bảo an tồn cho sự lưu thông kinh tế.

19

Cạnh Bộ Chỉ huy khu vực Vũng Tàu, tức Bureau de la Place, nay là Trung tâm Văn hoá thành phố Vũng Tàu.

22


×