Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

bao cao thực tâp nguyên văn thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.75 MB, 63 trang )

SƠ ĐỒ QUY HOẠCH CHỢ XÃ NGỌC LONG

B

Bờ kè
A1

A2

A3

Hàng

Nhà

Nhà

Thịt

hàng

hàng

Lợn

quần

bán

áo


tạp

Hàng

hóa

Quán phở

Quán phơ

Khu

VS

bán

bán



lợn

Hàng bánh, bún tươi
Khu bán

Gạo

Rau củ quả

Nha BQL


Khu

vịt

bán

Cổng Chợ

Nhà

Khu vực để xe máy

Sân TT

Khu bán bò





LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu, Nhà nước ta trong công ác đấu tranh phòng, trống tội phạm
nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyèn bình đẳng
giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì trật tự, an tồn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự cịn góp
phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Những năm vừa qua, thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nền kinh tế của cả nước đã có những khởi sắc đáng mừng, từ
đó có những tác động tích cực đến đời sống của tồn bộ nhân dân cả nước. Đời sống nhân dân được cải thiện, chính trị - xã hội được
ổn định, quốc phịng, an ninh được tăng cường, hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên, Nhân dân, cán bộ, đảng viên phấn khởi, tin

tưởng vào Đảng, nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt
được, chúng ta cịn gặp nhiều khó khăn và thách thức to lớn đặt ra với toàn Đảng và toàn dân, đặc biệt là các tỉnh, thành phố lớn như:
tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thối đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn đẩy lùi... Còn tiềm ẩn những yếu tố
gây mất ổn định chính trị - xã hội. Theo đó, một trong những vấ đề bức xúc đặt ra là việc người chưa thành niên làm trái pháp luật và
phạm tội khơng cịn là hiện tượng mang tính chất điểm nóng tại một vài địa phương, đơ thị có nhịp độ phát triển kinh tế cao mà đã phổ
biến trên nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước ta. Đặc biệt, điều đáng lo ngại là trong những năm gần đây, Thủ đoạn phạm tội của các
đối tượng này khơng cịn đơn giản do bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính tốn, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
không chỉ trẻ hóa về độ tuổi, sự tinh vi, xảo quyệt trong hành vi, mà đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm. Số
lượng các vụ án tăng nhanh, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra, cùng với tính chất phức tạp của từng vụ án là những thủ đoạn
tinh vi, do đó tính nguy hiểm ngày càng cao để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm xôn xao
dư luận xã hội. Việc gia tăng các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời
cũng được trẻ hố, có nhiều vụ án các bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có


khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù chung thân hoặc tử hình như tội: “Cố ý gây thương tích”, “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Trộm
cắp tài sản
Đặc biệt, vụ thảm án tại tiệm vàng Ngọc Bích ở Bắc Giang mà kẻ tội đồ Lê Văn Luyện thì chưa đến 18 tuổi, hay vụ nữ sinh
Nguyễn Thị Giang giết bạn học ở Hưng Yên mới 15 tuổi đã một lần nữa gióng hồi chng cảnh báo về sự gia tăng tỷ lệ phạm tội ở lứa
tuổi này.
Theo báo cáo về cơng tác phịng chống tội phạm của Chính phủ trình Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 2 cho thấy, tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng gia tăng, chiếm 15-18%. Hàng năm các cơ quan thi hành pháp luật bắt giữ, truy tố hơn 115
nghìn người, trong đó có 16-18 nghìn đối tượng là người dưới 18 tuổi… Với diễn biến như vậy, như phát biểu của ơng Nguyễn Đức
Chung khi cịn làm Giám đốc Cơng an thành phố Hà Nội thì “theo phép tính nhân thì chỉ sau 5-10 năm nữa đất nước chúng ta sẽ có
gần 1 triệu người có tiền án tiền sự, trong đó có 200 nghìn người dưới 30 tuổi”. Đây chính là con số đáng báo động, buộc các cấp, các
ngành phải có những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm phịng ngừa sự gia tăng của tình trạng phạm tội ở lứa tuổi chưa trưởng thành. Còn
xét riêng trê địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang:
Chính sách hình sự của Nhà nước CHXHCNVN đối với người chưa thành niên phạm tội có vị trí đặc biệt trong chính sáh đấu
tranh phịng, chống tội phạm ở nước ta. Pháp luật về việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các quy định khác của pháp luật về lao động,
việc làm, về giáo dục ... đều có quan điểm tiếp cận riieng đối với đối tượng trẻ em. Pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự...cũng
có nhiều nội dung điều chỉnh đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong thực tiễn hoạt động, Có khơng ít trường hợp đã bị

Tịa án xét xử, áp dụng mức phạt nghiêm khắc nhưng tác dụng phòng ngừa, cảnh báo chưa cao, tỷ lệ người dưới 18 tuổi tái phạm cịn
nhiều.
Chính vì vậy, em trọn nghiên cứu đề tài “ Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn nơi thực tập” (
trên cơ sở số liệu thực tiễn đại bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang) làm báo cáo thực tập tốt nghiệp. Nhằm hiểu rõ hơn về trách nhiệm
hình sự của NCTN phạm tội. Bởi lẽ, không thể áp dụng các biện pháp xử lý NCTN phạm tội giống như những người đã thành niên.


2. Mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành,
trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu tại địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang từ năm 2016 đến năm 2019. Xác định những hạn chế
trong việc áp dụng các quy định về TNHS của NCTN phạm tội, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hồn thiện chế
định này trong BLHS Việt Nam hiện hành.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Trong đó tập trung nghiên
cứu khái quát về TNHS, TNHS của NCTN, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS của NCTN và thực tiễn xét xử
NCTN phạm tội tại địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
Thứ hai, nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội trong luật hình sự Việt Nam hiện hành. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý,
quy định hình phạt và các biện pháp áp dụng với NCTN phạm tội.
Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của báo cáo đúng như tên gọi của nó – Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trên địa
bàn nơi thực tập ( trên cơ sở số liệu thực tiễn đại bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu trên, bài báo báo có những phạm vi nghiên cứu như sau:



1) Khái quat chung về TNHS
2) Khái niệm NCTN
3) Đặc điểm tâm lý của NCTN
4) Khái niệm trách nhiệm hình sự của NCTN
5) Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội
6) Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự của NCTN phạm tội
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiê cứu đề tài là các hê thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về trách nhiệm, hình phạt và cải tạo con người; cá quan điểm của ĐCSVN về pháp luật nói chung, chính sách hình sự nói riêng,
đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người chưa thành niên, cũng như trách nhiệm đối
với đối tượng này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phuong pháp nghiên cứu của khoa luật hình sự như: phâ tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp
so sánh, đố chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề về khoa
học cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa luận và thực tiễn của đoạn văn
Ý nghĩa luận và thực tiễn quan trọng của đoạn văn là ở chỗ - em đã làm rõ một số vấn đề chung NCTN phạm tội, các nguyên tắc
xử lý dối tượng này; khái niệm và các nguyên tắc về trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội; phân tích quy định của bộ luật hình


sự Việt Nam về trách nhiệm hình sư đối với NCTN phạm tội và thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang ( nơi
thực tập)
6. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình hình sự của NCTN.
Chương 2: Quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội và thực tiễn áp dụng tại
huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
Chương 3: những giải pháp và kiến nghị .



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1.1. Trách nhiệm pháp lý
Trong đời sống xã hội, chính trị và pháp lý “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa tương đồng, thống nhất như sau:
Một là, theo từ điển tiếng Việt “trách nhiệm” có nghĩa là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận về phía mình.
Hai là, “trách nhiệm” là hậu quả bất lợi do hành vi của một người gây ra, vi phạm bổn phận, nghĩa vụ và người đó phải gánh
chịu trước người khác, trước Nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý được đặt ra tùy theo tính chất vi phạm của hành vi đó đối với từng nhóm quan hệ xã hội khác nhau được
pháp luật bảo vệ, bao gồm các nội dung như: trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, TNHS v.v… Dưới góc
độ khoa học pháp lý “Trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu và được thể
hiện bằng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được pháp luật quy định”.
1.1.2. Trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự
Thuật ngữ “TNHS” không được ghi nhận dưới dạng định nghĩa nhưng tinh thần của chế định TNHS lại được ghi nhận trực tiếp
tại Điều 2 BLHS và gián tiếp như là sự liên kết xuyên suốt các quy định của phần chung và phần các tội phạm trong BLHS hiện hành.
Theo quy định của pháp luật hình sự, một người chỉ có thể phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện bao gồm cả chủ
quan và khách quan. Cơ sở của TNHS được hiểu là căn cứ buộc một người vi phạm pháp luật hình sự phải chịu TNHS. Việc nghiên
cứu chính xác và nhận thức đúng đắn cơ sở của TNHS sẽ góp phần triển khai tốt chính sách hình sự và các nguyên tắc của Luật hình
sự Việt Nam.


Với pháp luật Việt Nam việc áp dụng chính xác TNHS đối với người phạm tội có ý nghĩa và mục đích rất quan trọng mang tính
chất xã hội “…nhằm từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới thủ tiêu tình trạng phạm tội và những nguyên nhân làm phát sinh tội
phạm…” TNHS còn bao gồm những đặc điểm riêng như sau:
Một là, TNHS là một phần của trách nhiệm pháp lý, nó mang tính nghiêm khắc so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý khác.
Hai là, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Vì vậy, khi có hành vi thực hiện gây
nguy hiểm cho xã hội, gây tổn hại đến các quan hệ xã hội được BLHS quy định là tội phạm thì có nghĩa là phát sinh TNHS.
Ba là, TNHS chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên Nhà nước và người phạm tội. TNHS
mang tính chất công, Nhà nước là cơ quan duy nhất mới có quyền buộc người phạm tội phải chịu TNHS nhằm mục đích trừng trị,

trừng phạt các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Bốn là, TNHS mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối với bản thân người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà trong BLHS quy định là tội phạm.
Từ những phân tích trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự “TNHS được hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu
quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc 10 nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà
nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội”
1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cở sở của TNHS được hiểu là yếu tố nền tảng, những căn cứ chung dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới có
thể áp dụng TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, cơ sở của TNHS là những vấn đề lý luận nhằm lý giải cho vấn
đề là tại sao một người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm đã thực hiện của mình. Việc tìm hiểu về cơ sở của
TNHS sẽ giúp chúng ta đi vào phân tích hai vấn đề cơ sở triết học và cơ sở pháp lý của TNHS đối với NCTN phạm tội.
a. Về cơ sở triết học
Các nhà làm luật nước ta buộc người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải chịu TNHS về hành vi tội phạm mà họ đã thực
hiện, thơng qua việc phân tích về cơ sở triết học của TNHS đối với người phạm tội. Qua đó, giải quyết mối quan hệ giữa tự do và trách


nhiệm “Cơ sở của mọi trách nhiệm kể cả trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý trong đó có TNHS là sự tự do của con người.
Con người phải chịu trách nhiệm khi có tự do”
Trách nhiệm chỉ được đặt ra khi con người có tự do và ngược lại tự do là cơ sở của trách nhiệm. Hành vi của con người không
phải là sự phản ánh trực diện đối với hồn cảnh mà nó là sự phản ứng thơng qua sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Chính
vì thế, khi đặt trong cùng một hoàn cảnh, chịu sự tác động như nhau của những điều kiện bên ngoài nhưng mỗi người khác nhau lại có
cách xử sự khác nhau. Trong trường hợp họ lại chọn cách xử sự xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ thì họ phải chịu
TNHS về chính hành vi phạm tội của mình.
Vì vậy, cơ sở để quy kết TNHS đối với người phạm tội chính là do họ đã thể hiện sự tự do trong việc lựa chọn cách hành xử trái
với quy định pháp luật, trong khi họ vẫn có thể lựa chọn những cách hành xử khác phù hợp với lợi ích của bản thân và lợi ích của cộng
đồng, xã hội.


b. Về cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của TNHS là những căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền phải dựa vào đó mới có thể đặt vấn đề TNHS đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo tinh thần của
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: “Những gì có thể là cơ sở của TNHS đối với việc áp dụng hình phạt cũng như việc áp dụng hình
thức TNHS với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi tội phạm đều phải do pháp luật hình sự quy định” Cở sở pháp lý của TNHS
được quy định cụ thể tại Điều 2 của BLHS hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”.
Như vậy, cơ sở để truy cứu TNHS đối với một người chính là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm.
Ngồi BLHS khơng có văn bản pháp luật nào khác quy định về tội phạm. Một người chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi của mình
nếu hành vi đó được BLHS quy định là tội phạm. Việc kết luận hành vi nào là tội phạm, cấu thành tội gì, chịu hình phạt như thế nào thì
cần phải xác định hành vi đó đã thoả mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách
quan, chủ thể và mặt chủ quan. Nếu một hành vi đã thoả mãn hết dấu hiệu của cấu thành tội phạm tức là người đó đã thực hiện hành vi
phạm tội cụ thể được quy định trong BLHS hiện hành. Vì vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ
của TNHS.
1.2. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI
1.2.1. Khái niệm đặc điểm của người chưa thành niên
a. Khái niệm NCT
Pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau quy định khái niệm người chưa thành niên khác nhau. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền
trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa
thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ


luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản
pháp luật đó đều quy định tuổi của ngườichưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người
chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là cơng dân
Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đồn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa
tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân

cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội.
b. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, tồn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ cơng dân. Chính vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý; Về trạng thái cảm xúc: Người chưa thành niên là người
đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức; Về nhận thức pháp luật: khả năng nhận thức về pháp luật của người chưa
thành niên còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng
thú không đúng đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Về nhu cầu độc lập: Nhu cầu độc lập có thể được
hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Ở lứa tuổi chưa
thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ,
phô trương. Về nhu cầu khám phá cái mới: Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành
niên. Tuy vậy, sự tị mị và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em.
c. Cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Xác định tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc khi xác định chủ thể của tội phạm. Việc xác định chính xác tuổi của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có vai trị quan trọng đối với việc xác định một người có phải 14 chịu TNHS hay khơng. Ngồi ra,


việc xác định chính xác độ tuổi cịn nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng chính sách, chủ trương, nguyên tắc và
đường lối xử lý hình sự đối với những người phạm tội ở các nhóm tuổi khác nhau.
Vấn đề xác định tuổi theo quy định của luật hình sự là tính tuổi trịn, tuổi đủ, nghĩa là phải đủ ngày, đủ tháng. Ví dụ: NCTN là
người chưa đủ 18 tuổi, như vậy 17 tuổi, 11 tháng 29 ngày vẫn được xem là người chưa đủ 18 tuổi vẫn là NCTN. Việc tính tuổi của
NCTN sẽ căn cứ trên những giấy tờ có ghi nhận ngày sinh mà trước hết chính là giấy khai sinh của họ. Tuy nhiên, trên thực tế có
những trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm sinh của bị can, bị cáo vì những lý do như: bị can, bị cáo khơng có giấy khai
sinh, khơng có giấy tờ tùy thân,… Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của bị can, bị
cáo.
Chính vì thế, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, thương binh và
xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT – VKSTC – TANDTC – BCA – BTP – BLĐTBXH ngày 12/7/2011 về hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN, theo đó tuổi chịu TNHS sẽ được tính dựa vào
Điều 6 của Thơng tư liên tịch với những quy định rất cụ thể về xác định tuổi của bị can, bị cáo:
- Trong trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm
ngày sinh của bị can, bị cáo.

- Trong Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong q đó thì phải lấy
tháng cuối cùng và ngày cuối cùng của tháng đó trong quý làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
- Trong trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối 15 năm, nhưng không xác định được ngày tháng thì phải lấy
ngày 30 tháng 6 (Nửa đầu năm) hoặc ngày 31 tháng 12 (nửa cuối năm) làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
- Trong trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng khơng xác định được ngày tháng sinh thì phải lấy ngày 31 tháng 12
của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
- Trong trường hợp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là NCTN thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của
họ.
- Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được chính xác NCTN sinh vào ngày, tháng, năm nào thì phải suy đốn theo
hướng tuổi thấp nhất cho họ, đây là suy đốn có lợi.


1.2.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
Qua phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự, khái niệm người chưa thành niên ta có thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên như sau: Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người chưa thành niên phạm
tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình.


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐĨI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI
2.1.1. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 91 BLHS 2015, có các nguyên tắc cụ thể như
sau: Thứ nhất, so với Điều 69 BLHS 1999, Điều 91 BLHS năm 2015 bổ sung nguyên tắc:“Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải
bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” (khoản 1, Điều 91). Đây là nguyên tắc định hướng, nội dung của nguyên tắc này là
đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân, khi tiến hành một hoạt động liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm
rằng quyết định đó là tốt nhất cho trẻ em trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của pháp
luật.

Như vậy mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là để giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân
có ích cho xã hội chứ khơng đề cập trực tiếp đến mục đích trừng trị. Do đó ta cần hiểu rằng, đối với người chưa thành niên, nếu như
hành vi mà họ thực hiện bị BLHS coi là tội phạm nhưng việc có đưa ra truy tố xét xử hay không là việc mà các cơ quan chức năng có
thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc và ngay trong giai đoạn này mục tiêu giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên cũng phải được đặt
lên hàng đầu. Để thực hiện được nguyên tắc này, khi người chưa thành niên phạm tội các cơ quan tư pháp phải xác định tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc làm này sẽ giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc
về hành vi của mình có như vậy mới có thể giúp họ sửa chữa lỗi lầm và trở thành người có ích cho xã hội.
Thứ hai là điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn so với người thành niên phạm
tội.


Trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 2, Điều 69 của BLHS năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên, khoản 2, Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định của
pháp luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
các biện pháp giám sát, giáo dục.
Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 134 (tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất
trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội
mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật tức là phạm tội rất nghiêm trọng thuộc một trong 28 tội danh mà BLHS năm
2015 quy định đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 123 (tội giết người); Điều 134,
các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142
(tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều
151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép
chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy).Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể
trong vụ án.
Như vậy, so với BLHS 1999, khoản 2, Điều 91 BLHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự đối với
cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung quy định về việc áp

dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả áp
dụng của chế định pháp lý này.


Thứ ba, việc truy cứu TNHS người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tịa án áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục và
biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được quy định tại mục 2 và mục 3, Chương XII của BLHS, gồm: Khiển trách(Điều
93), Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94), Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95) và biện pháp tư pháp Giáo dục tại trường giáo
dưỡng (Điều 96).
Như vậy, có thể nói rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người thành niên phạm tội là biện pháp cuối cùng.
Nguyên tắc thứ tư đối với người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ TNHS. Tính chất giảm nhẹ được thể hiện ở
những quy định về loại và mức phạt tù có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Thứ năm, “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”; Thứ sáu,“Tòa án chỉ áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn
đe, phịng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người
đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
Tử hình và tù chung thân là hai biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS, người phạm
tội chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng giáo dục khơng cịn nữa. Chính vì vậy đối với
người chưa thành niên phạm tội, khi mục đích của việc truy cứu TNHS chủ yếu là nhằm giáo dục cải tạo họ, thì khơng thể áp dụng hai
hình phạt này.
Nguyên tắc cuối cùng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Khoản 7 Điều 91 BLHS: “Án đã tuyên đối với
người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.


2.1.2. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người chưa thành niên phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
thì sẽ có gia đình hoặc cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục đối với

người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94) và giáo
dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Đây là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người phạm
tội đi vào thực tế và có hiệu quả.
Trên cơ sở quy định của BLHS, Bộ luật tố tụng hình sự năm (BLTTHS) 2015 cũng bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật.
Ngồi ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 (do đã có các biện pháp giám sát, giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96).
+ Biện pháp khiển trách (Điều 93 BLHS 2015)
Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm
a khoản 2, Điều 91 của BLHS 2015; người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị khơng đáng kể trong vụ án.
Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người
dưới 18 tuổi. Người bị khiển trách phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan
có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức
phù hợp.
Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c
khoản 3, Điều 93 BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm.
Biện pháp này nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ.
+ Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94 BLHS năm 2015)


Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường
hợp quy định tại điểm a khoản 2 điều 91 của BLHS 2015; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại; tuân thủ pháp luật, nội
quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình
học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Tùy trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy

định tại điểm a khoản 3 điều 94 BLHS 2015 và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 điều 93 của BLHS 2015 từ 03 tháng
đến 01 năm.
+

Giáo

dục

tại

xã,

phường,

thị

trấn

(Điều

95

BLHS

năm

2015)

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của

BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS.
Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải chấp
hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi
không được phép và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của BLHS 2015.
Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy
ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn
giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những điểm mới nổi bật của
BLHS 2015, thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối
tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên.


2.1.3. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96 BLHS 2015)
Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét cần phải cách ly
họ ra khỏi mơi trường gia đình- xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành cơng dân có ích.
Khi quyết định biện pháp tư pháp này, tòa án cần xem xét tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và môi trường sống của người đó. Thời hạn của biện pháp giáo dục trường giáo dưỡng là từ 1 năm đến 2 năm.
Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội
hoặc có những vi phạm pháp luật khác. Tuy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bắt buộc người chưa thành niên phạm tội phải chịu
sự quản lý chặt chẽ và phải cách li ra khỏi xã hội nhưng họ được học tập văn hóa và nghề nghiệp. Tại đây, họ được học tập, rèn luyện
để trờ thành công dân tốt trong tương lai.
Nếu người được giáo dục tại trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của
trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tịa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo
dưỡng (Điều 97 BLHS).
2.1.4. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm
của người chưa thành niên, yêu cầu của việc phòng chống tội phạm, nguyên tắc nhân đạo XHCN, luật hình sự quy định các hình phạt
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:
1. Cảnh cáo.
2. Phạt tiền.

3. Cải tạo khơng giam giữ.
4. Tù có thời hạn.


+ Cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt chính, có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với
người phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra cho người bị kết án những tổn hại về tinh thần. Người chưa thành niên
phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
+ Phạt tiền: Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tước đi quyền lợi vật chất của
họ. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người đã từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập
hoặc tài sản riêng.
+ Cải tạo khơng giam giữ: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý.
Cải tạo khơng giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc khơng buộc người được áp dụng hình phạt này phải
cách li khỏi xã hội. Họ vẫn có thể thực hiện cơng việc thường ngày và sống trong mơi trường gia đình và xã hội như trước đây. Người
chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng hai điều kiện sau: Hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý; Họ
phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.
+ Tù có thời hạn: Tù có thời hạn là hình phạt cách li người phạm tội ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo họ trở thành cơng dân có
ích cho xã hội. Đây là hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy loại hình này có thể áp dụng đối với mọi tội
phạm được quy định trong luật hình sự Việt Nam. Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội. Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:
“Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc
tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;


Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng khơng q 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
khơng q một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.

2.2. THỰC TIỄN TRÁCH NHIỆM SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN
MINH, TỈNH HÀ GIANG
2.2.1. Giới thiệu chung về huyện Yên Minh, tỉnh Hà giang và cơ quan thực tập
a. Giới thiệu chung về huyện Yên Minh, tỉnh Hà giang
⮚ Lịch sử hình thành
Huyện được thành lập ngày 15 tháng 12 năm 1962 theo Quyết định số 211-QĐCP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở tách 15
xã: Bạch Đích, Du Già, Du Tiến, Đường Thượng, Lao Và Chải, Lũng Hồ, Mậu Duệ, Mậu Long, Na Khê, Nậm Ban, Ngam La, Ngọc
Long, Niêm Sơn, Tát Ngà, Yên Minh thuộc huyện Đồng Văn.
Ngày 21 tháng 10 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) ban hành quyết định 179/HĐBT, tách 4 xã Phú
Lũng, Thắng Mố, Sủng Tráng, Sủng Thài của huyện Đồng Văn để sáp nhập vào huyện Yên Minh, tách 3 xã Niêm Sơn, Nậm Ban, Tát
Ngà của huyện Yên Minh để sáp nhập vào huyện Mèo Vạc.[4] Huyện Yên Minh có 16 xã: Bạch Đích, Du Già, Du Tiến, Đường
Thượng, Lao Và Chải, Lũng Hồ, Mậu Duệ, Mậu Long, Na Khê, Ngam La, Ngọc Long, Phú Lũng, Sủng Thài, Sủng Tráng, Thắng Mố,
Yên Minh.
Ngày 20 tháng 8 năm 1999, chia xã Yên Minh thành thị trấn Yên Minh - thị trấn huyện lị huyện Yên Minh và 2 xã: Hữu Vinh,
Đơng Minh.
⮚ Vị trí địa lý
Huyện nằm phía đơng bắc tỉnh Hà Giang, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía đơng bắc giáp huyện Đồng Văn, phía
đơng giáp huyện Mèo Vạc, đông nam giáp huyện Bảo Lâm (Cao Bằng), phía tây giáp huyện Quản Bạ và phía nam giáp huyện Bắc Mê.


⮚ Diện tích, dân cư, giao thơng

Ảnh: Di tích thành lũy của người Mơng Trắng tại n Minh
Huyện có diện tích 783,65 km², dân số là 90.200 người (năm 2018). Huyện ly là thị trấn Yên Minh nằm trên đường Quốc lộ
4(4C) cách thành phố Hà Giang khoảng 98 km về hướng đông bắc. Tỉnh lộ 176 theo hướng nam đi huyện Bắc Mê.
Theo niên giám thống kê năm 2018. Dân số toàn huyện là 90.200 người, mật độ dân số 80 người/km2. Huyện có 16 dân tộc
cùng chung sống, trong đó dân tộc Mơng chiếm 53,2%, dân tộc Dao chiếm 15%, dân tộc Tày chiếm 13,95% dân số, còn lại là các dân
tộc khác có tỷ lệ dân số ít như Pu Péo, Lơ Lơ… Các dân tộc có đời sống văn hóa, tinh thần khá phong phú, đa dạng.
⮚ Các đơn vị hành chính



×