Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Khóa luận tư tưởng giáo dục của khổng tử và những giá trị, hạn chế của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.69 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

NGUYỄN THỊ DUNG

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị Liên
ThS. Trương Thị Quỳnh Hoa

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và
những giá trị, hạn chế của nó” là cơng trình nghiên cứu của tơi và được
hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Giảng viên – Th. S Nguyễn Thị Liên và
Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Trường đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, ĐHQGHN không liên quan đến những vi pham tác quyền, bản
quyền do tơi gây ra trong q trình thực hiện (nếu có).

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020


Sinh viên

Nguyễn Thị Dung


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th. S Nguyễn
Thị Liên và Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa - người trực tiếp hướng dẫn,
giúp em hồn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo giảng
dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic học
và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để
thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự
nghiệp sau này.
Cuối cùng em xin cảm ơn tới gia đình bạn bè đã ln động viên,
quan tâm, chăm sóc em trong quá trình thực hiện. Mặc dù đã nỗ lực hết sức
để hồn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận
tốt nghiệp của em cịn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ
phía thầy cơ và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và nghiên cứu.
Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự
giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và
khả năng lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự
góp ý và chỉ dẫn của các thầy cơ để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020
Sinh viên
Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận ............................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận ................................ 3
4. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................... 4
6. Những đóng góp của khóa luận ............................................................. 5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .......................................... 5
8. Kết cấu của khóa luận............................................................................. 5
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ.................................................................. 6
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. ................................................................. 6
2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng...................................................................... 10
2.3. Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp .................................................. 12
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 15
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA
KHỔNG TỬ ............................................................................................... 17
2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục ............................ 17
2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục ........................ 19
2.3. Quan niệm của Khổng Tử về các lĩnh vực giáo dục ....................... 22
2.3.1. Giáo dục đạo đức ............................................................................. 22
2.3.2. Giáo dục về các kiến thức khác...................................................... 29
2.4. Quan niệm của Khổng Tử về phƣơng pháp giáo dục ................... 30
2.4.1. Đối với ngƣời thầy ........................................................................... 31
2.4.2. Đối với ngƣời học ............................................................................ 39
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 43
CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO
DỤC CỦA KHỔNG TỬ ........................................................................... 45


3.1. Những giá trị trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử .................. 45

3.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử ................ 52
KẾT LUẬN ................................................................................................ 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên con đường phát triển của một quốc gia, bên cạnh những điều kiện
tự nhiên thì điều kiện xã hội cũng đóng vài trị quan trọng chủ chốt để thúc
đẩy quá trình tiến lên ấy. Trong đó nguồn lực con người đóng vai trị thiết
thực và quan trọng đối với một đất nước. Để đào tạo ra được những người
tài giỏi điều đầu tiên các nước chú trọng giáo dục, xem nó là động lực, đòn
bẩy thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ
và nền kinh tế tri thức, hàm lượng trí tuệ kết tinh trong mỗi sản phẩm hàng
hóa ngày càng chiếm đa số trong giá trị được tạo ra và quyết định đến chất
lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tài năng, trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao
động, sáng tạo của con người không phải xuất hiện một cách tự phát và
ngẫu nhiên, mà phải trải qua một quá trình giáo dục, rèn luyện tích lũy lâu
dài mới có được. Chính bởi vậy, giáo dục lại càng được coi trọng và trở
thành yếu tố cấu thành nên nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy bất kỳ
quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm, đầu tư cho giáo dục. Bởi
vì giáo dục- đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế, góp
phần ổn định chính trị xă hội và hơn hết là góp phần nâng cao chỉ số phát
triển con người. Vì vậy, John Gelbriet viết: “Đồng đô la được đầu tư cho trí
tuệ con người thường mang đến sự gia tăng thu nhập quốc dân lớn hơn
đồng đô la đầu tư vào đường sắt, các đập chắn nước, máy móc, và các
khoản mục cơ bản khác. Giáo dục đang trở thành hình thức đầu tư có hiệu
suất cao”.
Việt Nam là đất nước chịu sự đô hộ trong khoảng thời gian dài nhất

dưới ách thống trị của Trung Hoa. Bởi vì quá trình tiếp xúc dài như vậy,
nên nền giáo dục của Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng, phân hóa lớn từ
nền giáo dục nước bạn. Nho giáo du nhập vào nước ta trong khoảng 2000

1


năm và đã có những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội và con người Việt
Nam.
Trung Quốc là một trong những cái nơi văn hóa lớn, rực rỡ, phong
phú bậc nhất của nền văn minh phương Đông. Và vậy nên, tư tưởng triết
học Trung Quốc từ lâu đã khẳng định được vị trí của mình trong tiến trình
phát triển chung của lịch sử tư tưởng nhân loại với tên tuổi của những nhà
triết học nổi tiếng. Mặc dù, Nho giáo - một trong những học thuyết triết học
và chính trị - xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại ra
đời rất sớm, nhưng nội dung của nó đã dành sự quan tâm lớn đến con người
đặc biệt là vấn đề giáo dục con người.
Cùng với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, thì cơng tác giáo dục đào tạo đã và đang
được đặt lên hàng đầu và đóng góp một phần quan trong trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước. Việc phát triển giáo dục- đào tạo trực tiếp
giúp con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vân dụng những tri
thức khoa học kỹ thuật để từ đó khơng ngừng phát triển kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tiến tới thực hiện các
mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triến đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Phát triến giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công

nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho
phát triền” [23,tr. 115-116].
Với triết học Nho giáo, người mở đầu là Khổng Tử đã có nhiều đóng
góp cho giáo dục Trung Hoa cũng như nhiều nước phương Đông khác. Bởi
vậy, dù ở trong lịch sử hay hiện nay thì tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
vẫn có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam
2


Vì vậy, với tất cả lý do trên, tơi lựa chọn : “Tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó” làm đề tài nghiên cứu trong
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là phân tích một cách có hệ
thống tư tưởng giáo dục Khổng Tử từ mục đích, đối tượng, đến nội dung và
phương pháp giáo dục để qua đó, đồng thời qua đó rút ra những đánh giá
về giá trị và hạn chế của nó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung làm rõ những nội
dung chủ yếu sau:
- Phân tích, khái quát những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
- Phân tích, làm rõ một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử.
- Bước đầu rút ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của nó
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử và đánh giá về tư tưởng đó.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử trong tác phẩm Luận ngữ và những cơng trình nghiên cứu về tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử.
4. Tình hình nghiên cứu
- Các cơng trình: “Đại cương triết học Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê
(Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992),“Đại cương lịch sử tư tưởng
Trung Quốc” của Lê Văn Quán (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996), “Đại
3


cương triết học Trung Quốc cổ đại” của Dỗn Chính (Nhà xuất bản Thanh
niên, 2003), “Đại cương lịch sử triết học phương Đơng cổ đại” của nhóm
tác giả Dỗn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình (Nhà
xuất bản Thanh niên, 2003)… đã trình bày những nét cơ bản về đặc điểm
kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng
triết học Trung Quốc cổ đại, trong đó tư tưởng giáo dục Nho giáo nói
chung và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng.
- “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà
Nội, 2006) đã trình bày ngắn gọn một số nội dung cơ bản trong học thuyết
của Khổng Tử như: “chính danh”, “đức trị”, “tu thân’, “phải học”, “dưỡng
dân”, “giáo dân”, “đạo làm người”.v.v.. Nghiên cứu những nội dung này
giúp chúng tơi có thêm những gợi ý để phân tích một số nội dung giáo dục
của Khổng Tử.
- “Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam” của Phạm Minh Hạc (Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013) đã trình bày triết lý giáo dục của
Việt Nam và một số nhà giáo dục tiêu biểu trên thế giới. Tác giả đã dành
nguyên chương thứ 3 để viết về Khổng Tử và triết lý giáo dục của Khổng
Tử.
- “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa

của nó đối với xã hội ta ngày nay” (Luận án của Nguyễn Văn Bình, 2001)
đã trình bày khái lược về những mối quan hệ trong xã hội Trung Quốc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra, khóa luận chủ yếu vận
dụng những quan điểm biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin,
phương pháp lịch sử triết học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như: phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương pháp phân
tích, luận giải; phương pháp đối chiếu - so sánh; phương pháp thống nhất
lơgíc - lịch sử ; phương pháp tổng hợp, khái quát.

4


6. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận phân tích và trình bày một cách có hệ thống những nội
dung và một số giá trị, hạn chế chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử từ mục đích, đối tượng đến các lĩnh vực giáo dục và phương pháp giáo
dục.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
7.1. Về mặt lý luận
- Từ góc độ và phương pháp tiếp cận triết học khoa học, khóa luận
trình bày khái quát các điều kiện và nhân tố tác động đến sự hình thành tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử.
- Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng
giáo dục của Khổng Tử.
7.2. Về mặt thực tiễn
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy,
nghiên cứu và học tập về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng, tư
tưởng Nho giáo nói chung.
8. Kết cấu của khóa luận

Ngồi các phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của khóa luận được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.

5


CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
1.1.

Điều kiện kinh tế - xã hội.
Từ xa xưa đến nay, bất kì một sự việc hay vấn đề gì nảy sinh thì đều

chịu những ảnh hưởng của chính xã hội, thời đại mà nó đang tồn tại chi
phối. Và bất kì học thuyết gì ra đời và được nhiều người dân nhắc mãi thì
đều phải chứa đựng trong nó vấn đề đáng chú ý và “học thuyết của Khổng
Tử nói chung và tư tương giáo dục của ơng nói riêng” cũng đáng giá như
vậy.
Vì vậy để có thể nghiên cứu và hiểu rõ được học thuyết của Khổng
Tử thì trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu về điều kiện kinh tế-xã hội mà
ơng đã sống - xã hội của thời kỳ Xuân Thu và trước Xuân Thu. Đây là thời
kỳ xã hội Trung Quốc với sự cai trị của các vua nhà Chu.
Về kinh tế, cũng như các nhà nước phương Đông bấy giờ, nền kinh
tế ở đây xuất hiện nhiều thành tựu rực rỡ trong nông nghiệp khi sản lượng
lương thực tăng nhiều hơn từ đó đáp ứng được nhu cầu và đã góp phần làm
cho xã hội hưng thịnh và văn minh hơn trước.
Bởi vì trải qua thời kì chiến tranh lâu dài giữa các nước chư hầu, cho
nên việc quản lý tư liệu sản xuất và sức lao động rất được coi trọng. Thời
gian này thì tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sức lao động là các công
xã và thị tộc thất bại từ chiến tranh và thuộc quyền quản lí của vua nhà Chu.

Vua lấy đất đai chia cho chư hầu, từ đó chư hầu có quyền quản lí đất nhưng
cũng phải chịu áp lực quản lí từ bề trên. Chư hầu có quyền lấy đất đai được
nhà vua ban cho chia lại cho họ hàng, họ hàng lại chia cho dân cày bởi dân
khơng thể có riêng đất đai nên đành phải chịu cảnh đi làm thuê làm mướn.
Khi có sự phân biệt trong của cải là đất đai thì đã có sự phân hóa sâu sắc
trong đẳng cấp xã hội, từ đó ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục. Ở thời kì
này, văn hóa, giáo dục chỉ dành cho quý tộc, thị tộc, giáo dục chủ yếu là ở
trường quan dành riêng cho con quý tộc, quan lại. Giáo dục trong gia tộc và
6


giáo dục học hiệu ngày càng mở nhiều để có thể đáp ứng nhu cầu của
người học. Đặc biệt thời kì này, việc giáo dục chỉ dành cho nam nhân, đặc
biệt là con trai trưởng của gia tộc thì vấn đề giáo dục, đào tạo được coi là
một chuyện hết sức quan trọng.
Vào thời kì này, nhà Chu đã thể hiện rõ lập trường của mình trong
việc phân biệt rõ giữa thành thị và nông thôn; và đã thành lập thành thị với
quy mô rộng lớn. Thành thị là nơi ngụ của vua và tầng lớp quý tộc- những
kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị; cịn nơng thơn là nơi ở của những người
nông nô bị nô dịch. Từ đó trong xã hội có xuất hiện những người được coi
trọng là “quân tử” và những kẻ thấp kém được gọi là “tiểu nhân”. Há phải
chăng cứ là quân tử thì được mọi người mến mộ cịn kẻ tiểu nhân thì bị
người đời khinh bỉ. Liệu những người khơng là quân tử cũng chả là hạng
tiểu nhân thì họ là ai? Trong các học thuyết của Khổng Tử ông cũng đề cập
đến quân tử đến tiểu nhân đến việc giáo dục như thế nào để được thành
quân tử và như thế nào sẽ trở thành tiểu nhân. Nhưng dù cho ông chủ
trương “hữu giáo vô loại” thì ông vẫn coi trọng việc giáo dục người quân tử
và giáo dục như thế nào để trở thành quân tử hơn.
Trải qua thời kì cịn sơ khai về văn minh, vào thời Xn Thu, kinh tế
Trung Quốc chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Đồ sắt ra đời

là bước ngoặt lớn trong nông nghiệp. Công cụ lao động bằng sắt ngày càng
nhiều đã làm cho diện tích đất canh tác ngày càng mở rộng, kỹ thuật trồng
trọt được cải tiến đã làm năng suất lao động tăng, sản lượng nông sản ngày
càng nhiều. Bước tiến bộ trong việc sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng
đến nhiều lĩnh vực khác thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh
chóng. Công cụ bằng sắt ra đời đã mở ra một ngành công nghiệp mới, lạ
cho Trung Quốc là luyện kim, luyện sắt… cùng với đó là sự phát triển của
các ngành chăn nuôi trồng trọt, nông dân biết trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải,
các nghề thủ công nghiệp cũng phát triển theo đặc biệt là làm gốm. Khi
kinh tế trong nước phát triển cộng với sự khai hoang ruộng đất, khai mở bờ
7


cõi, dẫn đến việc thương nghiệp cũng phát triển. Vào thời điểm này đã có
hình thức trao đổi mua bán bằng tiền tệ chứ không như trước. Sự xuất hiện
tiền tệ và thương nghiệp phát triển đã hình thành một tầng lớp người mớingười thương nhân, tầng lớp này ngày càng có vị trí lớn và tầm ảnh hưởng
quan trọng tới kinh tế- xã hội- chính trị. Sự phát triển kinh tế đã làm cho
người dân thoát khỏi những cảnh đói nghèo lạc hậu từ đó họ quan tâm
nhiều hơn đến các vấn đề khác trong xã hội – trong đó có giáo dục.
Nếu ở xã hội trước, giai cấp q tộc chủ nơ nắm tồn bộ sức lao
động ruộng đất và người nơ lệ, thì thời kì này xuất hiện công xã nông
nghiệp với tầng lớp nông nô- người được công xã giao ruộng đất cày và
được khai khẩn đất hoang, luận canh để tăng năng suất. Bên cạnh đó đã tạo
điều kiện cho giới quý tộc chiếm cứ ruộng đất công xã làm ruộng tư- xuất
hiện chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Từ đó trong xã hội hình thành 1
giai cấp mới, giai cấp địa chủ, giai cấp này vừa giàu có về kinh tế, vừa
mong muốn có quyền lực về chính trị, xuất hiện với tư cách địa chủ mới
cùng với giai cấp quý tộc chủ nô vào việc thống trị xã hội.
Ở thời kỳ Xn Thu, tầng lớp q tộc mới, vì có tiền và có tài đã bắt
đầu có thế lực chính trị bắt đầu chi phối xã hội. Đây là tầng lớp đã nhận ra

được sự sai sót, thiếu kém trong sự quản lý cũ mà bắt đầu xây dựng cho
riêng mình một cách quản lí mới. Lúc này học tập khơng cịn là của riêng
mình ai mà cịn là nhu cầu cấp thiết của một nhóm người trong xã hội, sách
viết: “Việc học tập từ chỗ là độc quyền của giới quý tộc thị tộc nay được
mở rộng đến cả thứ dân, nên trường tư mở ra, gọi là giai đoạn “học hạ tư
nhân”” [44, tr.64] . Khổng Tử là người đầu tiên mở ra trường tư nhân để
dạy cho tất cả mọi người, mở rộng phạm vi đối tượng giáo dục đến với các
tầng lớp khác trong xã hội. Với chủ trương “hữu giáo vô loại” Khổng Tử
dạy học không chỉ cho tầng lớp quý tộc địa chủ, những người thương nhân
thích làm quan mà cịn dạy cho những người khác không phân biệt đẳng
cấp.
8


Vào thời kì này, việc quản lý đất đai đã khơng cịn nằm trong tay của
nhà vua nữa, quyền cai trị đất đai của vua Chu bị tước đoạt, giai cấp quý
tộc nhà Chu thì mất dần quyền lực, địa vị kinh tế ngày càng sa sút. Việc
thực hành chế độ “phong hầu kiến địa” chỉ có kết quả trong thời gian đầu,
đến lúc này, các nước chư hầu không còn quy phục và phục tùng nhà Vua
như trước. Trật tự nhà nước đảo lộn, đạo đức suy đồi, chiến tranh loạn lạc
liên miên. Các cuộc chiến thơn tính lẫn nhau giữa các chư hầu nhằm tranh
giành địa vị cũng ngày càng nhiều dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các
nước chư hầu, dân tình loạn lạc, chết chóc, khổ sở, xã hội trở nên rối loạn
hơn bao giờ hết. Sử viết “khắp thiên hạ đều loạn lạc như nước đổ cuồn
cuộn, làm thế nào cho thiên hạ trị?”[43, tr. 36] hay “Nghĩ như vua chẳng ra
vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh
hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho có chắc được ngồi n mà ăn
khơng?”[43, tr.36] . Đây là thời kì mà xã hội Trung Quốc có sự biến động
sâu sắc, chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương Đông ngày càng suy yếu, sự
manh nha bắt đầu xuất hiện chế độ phong kiến sơ kỳ đang dần hình thànhđây chính là nguồn động lực để Khổng Tử đưa ra tư tưởng về giáo dục của

mình. Bởi ơng cho rằng, xã hội hỗn loạn như bấy giờ là do trình độ nhận
thức, con người ngày càng vơ đạo. Vì vậy cần phải có một triết thuyết về
giáo dục để có thể đưa con người trở về đúng với bản chất tự nhiên là thiện,
là yêu thương quý mến đồng loại.
Trong giai đoạn xã hội xáo trộn như thế này, nếu như những nhà cầm
quyền chủ trương dùng “hình pháp” để trị loạn xã hội như Quản Trọng ở
nước Tề, Từ Sản ở nước Trịnh, Thương Ưởng ở nước Tần…với phép trị
nước là đề cao luật pháp, ban bố pháp luật cho dân biết, nếu phạm tội thì sẽ
xử phạt theo pháp luật. Khổng Tử cho rằng chủ trương lập lại trật tự xã hội
bằng con đường giáo dục với mục đích dạy cho con người hiểu rõ được đạo
lý và coi đó là một trong những biện pháp chủ yếu để trở nên chính đạo,
đồng thời ông chú trọng đào tạo nên những người quân tử để cải biến xã
9


hội, đưa tới một xã hội thái bình thịnh trị như thời vua Nghiêu, vua Thuấn.
Ngồi ra, Khổng Tử cịn muốn thông qua giáo dục để xây dựng một xã hội
lí tưởng- xã hội thái bình, thịnh trị có trật tự lễ nghĩa “quân quân, thần thần,
phụ phụ, tử tử”, “chính danh, định phận”, “túc thực, túc binh, dân tín”. Với
một xã hội lí tưởng như vậy thì việc đầu tiên và quan trọng nhất ông hướng
tới giáo dục con người vừa có đức, vừa có tài đặc biệt có thể xây dựng tầng
lớp đứng đầu với “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước đang trong quá trình phát
triển nhưng lại xảy ra chiến tranh loạn lạc. Chính điều này đã phần nào đó
là lý do Khổng Tử đưa ra tư tưởng giáo dục và cũng ảnh hưởng đến những
nội dung giáo dục sau này của ông.
2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng
Tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại có từ thời tiền sử nhưng phát
triển mạnh mẽ từ đời nhà Chu (1134-247 TCN). Trước đây, khi con người
ở thời đại nguyên thủy, tri thức còn đang sơ khai, thường cho rằng tất cả sự

vật trong vũ trụ này đều do các vị Thần sắp đặt. Lúc này, người dân đều lo
sợ trước mẹ thiên nhiên, lo sợ trước những vị Thần tự nhiên. Từ thời nhà
Hạ, nhà Thương đã bắt đầu có quan niệm về Trời và Đế, họ tin rằng Trời và
Đế đều có quyền uy tối thượng: “Thượng đế có quyền uy rất cao, đặt các
Thần giữ các chức quan, địa vị của các Thần là ở dưới Đế và phải phục
tùng mệnh lệnh của Đế” [33, tr.38]. Cho đến thởi kỳ Tây Chu thì bắt đầu có
triết học Trung Quốc. Vào lúc này người ta đã quan tâm đến thần thoại tôn
giáo duy tâm với các biểu tượng về “Thượng đế”, “quỷ thần”.
Cho đến thời Xuân Thu, con người đã biết đến ngũ hành, cho rằng
hầu như toàn bộ vật chất tồn tại quy thành năm loại, đồng thời cũng sử
dụng thuyết âm dương để giải thích những hiện tượng trong thế giới vật
chất.
Thời kỳ này, những “tín ngưỡng” đối với quỷ, thần càng ngày càng ít
đi. Lúc này, tư tưởng chi phối nhà Tây Chu đã trở nên hình thức và giáo
10


điều. Nếu như vào thời nhà Chu, “Lễ” vốn là điển chương thần thánh, là
công cụ thống trị của quý tộc thị tộc; “Thi” vốn là huyết mạch tư tưởng của
giai cấp thống trị thì đến thời Xuân Thu, “Lễ” đã trở thành nghi thức giao
tế của quý tộc, “Thi” đã trở thành lệnh bang giao giữa các nước hay thành
những lời thù tạc trong trường giao tế của quý tộc. Tuy nhiên, văn hóa thời
Tây Chu với những thành tựu mà vua Văn Vương, Vũ vương, Chu Công để
lại vẫn được nhiều người gìn giữ và bảo tồn ở thời Xuân Thu, đặc biệt là
chế độ Lễ - Nhạc nhà Chu rất được Khổng Tử coi trọng. Vì là người có
niềm tin về lịch sử, hồi cổ, nên Khơng Tử rất coi trọng việc gìn giữ và lưu
truyền văn hóa truyền thống, đặc biệt là văn hóa, đạo đức lễ nghi do Chu
Cơng tạo dựng. Để có thể tìm lại và lưu giữ văn hóa truyền thống thì
Khổng Tử coi đó là một nhiệm vụ của giáo dục. Để sau này, trong các bài
giảng của mình, ơng thường sử dụng những câu chuyện về gương người cũ

mà giáo hóa cho học trị của mình.
Kể từ khi các nước chư hầu khơng cịn phục tùng vương mệnh nhà
Chu, dẫn đến chiến tranh loạn lạc. Các cuộc chiến tranh giành địa vị bá chủ
càng ngày gay go, việc tranh giành đất đai và quyền cai trị dân chúng giữa
các dòng họ và quý tộc ngày càng khốc liệt. Bởi vậy chính trị rối loạn, đạo
đức băng hoại, đời sống tinh thần của ngươì dân ngày càng khổ cực, cuộc
sống ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình này đã nảy sinh trong lòng
người dân Trung Quốc một khát vọng về xã hội thái bình, thịnh trị. Đây
cũng là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành học thuyết chính trị- xã hội và
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Đứng trước hoàn cảnh như bấy giờ, đạo
đức được coi như là một trong những vấn đề triết học Trung Quốc, từ đó
các nhà tư tưởng đã đề cao việc “tu tâm, dưỡng tính”.
Vào đầu thời nhà Chu, trong đời sống tinh thần của người Trung
Quốc cổ đại thì ngồi việc tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, Tiên vương của
người Ân, nhà Chu cịn bổ sung thêm tư tưởng kính trời, thờ Thượng đế,
hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất
11


Vào thời Xuân Thu, mặc dù chiến tranh loạn lạc nhưng đây cũng là
thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, còn
được gọi là thời kỳ “bách gia, chư tử”, “bách gia tranh minh”. Chính trong
điều kiện này, đã giúp Khổng Tử nhận thấy được rằng muốn thiết lập lại
trật tự, kỷ cương xã hội thì cần phải giáo hóa con người trước tiên. Trong
giáo dục ông chủ trương dùng “đức trị” và thông qua giáo dục như là
phương tiện để thực hiện đường lối chính trị của mình. Với mong muốn lập
lại trật tự lễ pháp nhà Chu, Khổng Tử đề cao chính sách Nhân trị của Chu
cơng, nêu lí tưởng Vương đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn đời thái cổ.
2.3.


Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp

Khổng Tử (孔子), sinh năm 551 tr.CN và mất năm 479 tr.CN, tên là
Khâu (丘), tự là Trọng Ni (仲尼). Ông sinh ra vào thời Xuân Thu, tại ấp
Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc), trong một gia đình nghèo, có ơng tổ ba đời vốn thuộc dòng
quý tộc sa sút từ nước Tống, sau này dời sang nước Lỗ. Cha của Khổng Tử
là Thúc Lương Ngột làm một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Năm Khổng Tử
lên 3 tuổi thì cha mất, ơng sống với mẹ trong cảnh nghèo khó. Tuy nhà
nghèo nhưng cha làm quan nên lúc cịn nhỏ “ơng cũng được học trong một
trường công (quan học) mở để dạy con cái quý tộc về lục nghệ” [54, tr.40].
Vốn là một người rất thông minh, ham học, xem xét kỹ lưỡng để hiểu biết
tường tận vấn đề, gặp ai cũng học, ở đâu cũng học, bên cạnh đó ơng cũng là
một người tự học và biết học như thế nào để tốt hơn. Khi trưởng thành, trải
qua sự dạy dỗ và tích lũy kiến thức mà mình có được, ơng đã tự ý thức
được rằng, giáo dục là con đường không thể thiếu đối với mọi người để từ
đó ơng mở trường tư dạy học (trước đó chỉ có trường cơng dạy cho con em
quan lại, quý tộc, vua chúa), đưa giáo dục đến với mọi tầng lớp trong xã
hội.
Nhiều sách cho rằng, Khổng Tử bắt đầu dạy học từ sớm trước khi
làm quan. Như có sách ghi rõ: “vào khoảng 30 tuổi, Khổng Tử bắt đầu
12


nhận đệ tử dạy học” [ 21, tr.15]. Học trò thường gọi ông là Khổng Phu Tử
(孔夫子) hay Khổng Tử (chữ Tử ở đây gọi là thầy). Vốn nổi tiếng là người
học rộng, biết nhiều, nên ông được nhiều học trò xin theo học, ngay cả
quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cũng cho hai người con trai là Hà
Kỵ và Nam Cung Quát theo Khổng Tử học lễ. Học trị của Khổng Tử rất
đơng, trong đó có nhiều người tài đức được Khổng Tử nhắc đến nhiều lần

trong Luận ngữ như Nhan Uyên, Tử Lộ, Tử Cống, Nhiễm Hữu, Quý Lộ,
Tử Du, Tử Hạ, Trọng Cung...
Ngay khi cịn trẻ, Khổng Tử đã có mong muốn được làm quan để thi
hành chính đạo, thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Năm 21 tuổi, Khổng
Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách. Sau đó,
làm chức Tư Chức Lại, coi việc ni bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.
Theo các nhà nghiên cứu, Khổng Tử đã kinh qua một số chức quan, có sách
viết ơng làm đến chức “Thượng thư Bộ cơng, Thượng thư Bộ hình, rồi
được thăng tới chức Đệ nhị Tướng quốc, Tư khấu (Quyền Tể tướng)” [21,
tr.48]. Vào năm thứ mười đời Lỗ Quốc công, với tư cách là quan Tư khấu,
Khổng Tử đã mang lại cho nước Lỗ nhiều thành tựu khi hội đàm với Tề
hầu ở Giáp Cốc. Sau vì chính sách của ơng khơng được áp dụng, ông đã đi
chu du thiên hạ cùng với một số học trò thân cận như Nhan Uyên, Tử Lộ,
Nhiễm Hữu... để tuyên truyền cái đạo của mình. “Ông cũng là người đầu
tiên mở phong trào du thuyết khắp các nước để tìm một ơng vua biết dùng
thầy trị ơng” [43, tr. 48]. Sau 13 năm chu du liệt quốc, Khổng Tử vẫn
khơng tìm được nơi nào để hành đạo của mình, ơng quay về nước Lỗ tiếp
tục nghiên cứu và dạy học để truyền đạo cho đời sau.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, cuộc đời Khổng Tử được chia thành bốn
thời kỳ: “1. Thời kỳ thơ ấu và tráng niên từ 1 đến 30 tuổi: Thời kỳ côi cút,
nghèo nàn, hay làm, ham học; 2. Thời kỳ trưởng thành: từ 30 đến 50 tuổi:
Thời kỳ lập chí học đạo, sang Chu, sang Tề, khảo sát phong tục, lễ nhạc,
nghiên cứu sách vở tiền nhân; 3. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp
13


chính trị: Từ 50 đến 68 – Hoặc chấp chính tại Lỗ (50 - 55 tuổi), – Hoặc chu
du thiên hạ (55 đến 68 tuổi); 4. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp
giảng dạy, giáo dục môn đệ và trước tác: từ 68 đến 73 tuổi” [Dẫn theo 43 tr.
48-49]. Như vậy, phần lớn cuộc đời Khổng Tử là để tâm cầu học và dạy

người. Vốn “là người đi nhiều, học nhiều, Khổng Tử đã tổng kết được
nhiều vấn đề về nhận thức, về thực tiễn giáo dục và phương pháp dạy học”
[9, tr.19]. Đúng như nhận định của Nguyễn Văn Thọ: “Đức Khổng Tử sinh
ra đời, có lẽ là để dạy đời, cho nên Ngài hết sức tha thiết với vấn đề giáo
dục”. Gần như cả cuộc đời Khổng Tử theo đuổi sự nghiệp giáo dục với sự
nhiệt tâm và tinh thần “hối nhân bất quyện” – dạy người không chán, ông
đã trở thành nhà giáo dục vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc.
Ơng rất coi trọng việc gìn giữ đạo của Thánh hiền, nhất là các kinh
sách đời trước. Ông “đem Quan thư san định thành Thượng thư, đem thi ca
cổ đại của vùng Hoa Bắc, tương truyền hơn 3.000 thiên (bài), san còn lại
được hơn 300 thiên (tức Kinh Thi), sau đó đính định Lễ thư (tức Kinh Lễ),
Nhạc thư (tức Kinh Nhạc)”. Những năm cuối đời, Khổng Tử thích nhất là
việc san định bộ Chu Dịch, tức là Kinh Dịch, ông ghi chú cẩn thận, xếp đặt
lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu. Ngoài việc san định Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, Khổng Tử còn viết sách Xuân Thu, ghi chép sử nước Lỗ
thời Xuân Thu. Đây cũng chính là những nguồn tài liệu mà Khổng Tử dùng
để giảng dạy cho học trò của ông. Sự nghiệp dạy học của Khổng Tử lại có
quan hệ mật thiết với sự ra đời của cuốn Luận ngữ. Trong q trình dạy học,
những lời dạy học trị, lời đối đáp của Khổng Tử với đệ tử và giữa các đệ tử
với nhau đã được môn đệ của ông ghi chép và biên soạn lại thành cuốn
Luận ngữ. Đây là cuốn kinh điển “phản ánh tư tưởng giáo dục tiến bộ của
Khổng Tử”.

14


Tiểu kết chƣơng 1
Được ví là một trong những nền văn minh lớn của thế giới, Trung
Quốc ở giai đoạn Xuân Thu đã có nhiều thành tựu nổi bật đánh dấu sự phát
triển của đất nước. Về kinh tế đã có nhiều cải tiến trong cơng cụ sản xuất,

từ những hịn cuội, hịn đá để đập vỡ hạt thì bây giờ người Trung Quốc đã
sử dụng những công cụ bằng kim loại để trồng trọt, chăn ni. Về chính trị,
sau khi vua nhà Chu qua đời, đã có nhiều biến động xảy ra. Với địa thế là
một đất nước có diện tích lãnh thổ rộng lớn bật nhất thì việc các cuộc chiến
tranh loạn lạc giữa các chư hầu nhằm xâm chiếm lẫn nhau để giành quyền
cai trị đất nước xảy ra thường xuyên vào giai đoạn này. Điều nãy dẫn đến
cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn, đất nước thì tà đạo ngày
càng nhiều. Sống trong xã hội loạn lạc, vô đạo của xã hội đương thời đã
làm cho Khổng Tử sớm nhận thức và tìm ra con đường cải tạo xã hội bằng
việc phải giáo dục, giáo hóa con người, đào tạo nên những con người đủ
đức hạnh và tài năng để gánh vác trách nhiệm phục hưng xã hội. Điều này
đã thúc đẩy Khổng Tử xây dựng nên học thuyết của mình để xây dựng một
xã hội bình trị, quốc thái dân an.
Khổng Tử được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút nhưng ơng
đã có cơ hội thụ hưởng nên giáo dục quan học, văn hóa, đạo đức, nghi lễ do
Chu Cơng xây dụng. Vốn là một người thông minh, hiếu học, tài năng,
uyên bác, chứng kiến cảnh nước nhà như vậy, là một người yêu nước có
mong muốn xây dựng xã hội quay về thái bình thịnh trị như thời vua
Nghiêu, vua Thuấn thì Khổng Tử đã hiều rõ được vấn đề ngay bây giờ là
phải giáo hóa người dân. Giáo dục cho họ về đạo đức, về chính trị, về lục
nghệ… để từ đó có thể tự mình xem xét, học hỏi và sửa đổi theo chính đạo.
Là một người bắt đầu sự nghiệp học tập cũng như giảng dạy từ rất sớm,
Khổng Phu Tử đã có được những tư tưởng sâu sắc về giáo dục. Từ đó
những bài giảng, lời nói, những so sánh của ơng đã có những tác động to
15


lớn đến học trị, để sau này chính những người học trị đó đã góp cơng xây
dựng nên một cơng trình học thuật có ý nghĩ- tác phẩm “ Luận Ngữ”.


16


CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA
KHỔNG TỬ
Với Khổng Tử, giáo dục không chỉ là phương tiện đưa lại tri thức
hay phương pháp mang đến kỹ năng mà còn là phương thức ứng xử, đạo
làm người trong xã hội. Trong quá trình giảng dạy của mình cũng như
trong tác phẩm Luận ngữ khơng có chia rõ cụ thể về: mục đích giáo dục,
đối tượng giáo dục, các lĩnh vực giáo dục, phương pháp giáo dục, mà là do
người thực hiện sử dụng để có thể nghiên cứu về tư tưởng.
2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục
Giáo dục là việc dạy dỗ con người tránh khỏi sự mơ hồ về thế giới
xung quanh và chính bản thân chúng ta. Giáo dục biến con người tự nhiên
thành con người xã hội, có năng lực nhận thức nhất định. Hoạt động giáo
dục không chỉ đơn thuần diễn ra trong nhà trường, lớp học chính quy mà
cịn có thể tồn tại ở nhiều mơi trường khác trong xã hội.
Đặc biệt trong thời kì xã hội Khổng Tử đang sinh sống, xã hội loạn
lạc, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu thơn tính lẫn nhau làm cho trật
tự xã hội bị đảo lộn, thì việc giáo dục con người như thế nào để có hiệu quả
nhất là vẫn đề cấp thiết. Trước tình hình xã hội như vậy, Khổng Tử chủ
trương tác động đến con người, làm cho con người thấu hiểu đạo lí, biết rõ
quy luật xã hội, từ đó mới có thể xây dựng một xã hội trật tự, kỉ cương,
“ quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, một xã hội thịnh vượng như thời
trước. Vậy nên ơng đặt vai trị của giáo dục là vai trị quan trọng và cấp
thiết có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội.
Mỗi người sinh ra bản chất đều gần giống nhau, nhưng do mơi
trường sống, cách giáo dục, thói quen, tập tục vùng mà ngày càng xa nhau.
Khổng Tử cho rằng : “Tánh tương cận giã, tập tương viễn giã- Bản tính con
người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau”[16,tr.268]. Vì vậy

mơi trường sống và sự giáo dục đối với con người rất quan trọng nhất là
nếu được giáo dục đúng cách từ khi cịn nhỏ thì sẽ giáo hóa được những
17


người tốt. Nếu ở trong gia đình được sự định hướng giáo dục tốt ngay từ
khi còn nhỏ, sau này lớn lên sẽ xây dựng cho người đó một nền tảng tốt để
đối mặt với xã hội ngoài kia. Lớn lên ở những môi trường khác nhau, trong
sự giáo dục khác nhau thì sẽ tạo ra những con người với bản tính và trách
nhiệm khác nhau. Mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhắm khơi dậy bản
tính ngay thẳng, vốn lương thiện của con người, đánh thức con người
hướng đến con người tồn diện.
Bên cạnh đó với ơng việc giáo dục có mục đích để sửa mình và sửa
người “Người qn tử khơng trang trọng thì khơng uy nghi, học tất khơng
vững, chun chú vào sự trung tín, khơng kết bạn với người khơng trung
tín như mình, có lỗi thì chớ ngại sửa đổi”. Với mục tiêu giáo dục để thành
người quân tử, nên ông luôn lấy người quân tử làm hình mẫu để giáo dục
người khác, đặc biệt với ơng mục đích cao cả nhất của giáo dục là có thể tự
sử mình, tự tu tâm dưỡng tính và đặc biệt là không ngần ngại sửa sang lại
lỗi lầm của mình khi mắc phải sai phạm dù là nhỏ nhất.
Với Khổng Tử, mục đích giáo dục khơng đơn thuần là cung cấp kiến
thức mà còn là phương tiện giúp giáo hóa, hình thành nhân cách con người,
cải tạo nhân tính giúp chúng ta trở nên tốt hơn. Giáo dục giúp mình tự soi
xét được chính mình, tự sửa mình, trách mình và tự hồn thiện mình. Và
chính Khổng Tử là người đã đặt nền móng cho thuyết bản tính con người
chia làm thiện và ác để sau này Mạnh Tử và Tuân Tử hình thành nên học
thuyết của mình. Ơng cho rằng, con người phát triển khơng phụ thuộc vào
bản tính tự nhiên mà chủ yếu là do giáo dục và đặc biệt trong xã hội lúc bấy
giờ thì mục đích giáo dục của ơng cũng chính là giúp cải tạo nhân tính, sửa
trị bản thân.

Bên cạnh đó, mục đích giáo dục của ơng là đào tạo những con người
biết tịng chính, biết làm chính trị. Ơng cũng đã xây dựng hình mẫu lý
tưởng là người quân tử có nhiệm vụ cải tạo, phục hưng xã hội. Bởi vì, tại
thời điểm ơng sinh sống xã hội đang cịn loạn lạc, chư hầu khắp nơi nổ ra
18


những cuộc chiến tranh để nhằm thâu chiếm lẫn nhau nên thời điểm ấy ông
muốn giáo dục nên những nhân tài làm chính trị để có thể thiết lập lại trật
tự xã hội. Theo ơng, để có thể ổn định lại xã hội, cần phải có những người
vừa có đức vừa có tài và họ phải thực sự có sức mạnh và có quyền lực. Cho
nên, Khổng Tử rất quan tâm dạy dỗ học trị của mình đạo của người quân
tử. Dù không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm “người quân tử”
nhưng đến thời ông, quân tử mới được xem khơng chỉ là người có địa vị xã
hội mà cịn là người có đạo đức nhân cách và có vai trị to lớn trong xã hội.
“Đạo của bậc quân tử phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc, mình hãy tỏ ra
cho dân thấy hẳn mình là bậc có đức hạnh”[46, tr.87]. Là một khn mẫu
tồn diện, chính Khổng Tử đã dệt nên người quân tử phải có những phẩm
chất mà người thường khơng có, đặc biệt đó là “sự tu tập, lấy mình làm
gốc”, phải tự mình cố gắng, tự mình làm việc, tu sửa bản thân để ngày càng
tốt hơn; và phải “lấy mình làm gốc” bản thân mình phải tốt, phải hồn thiện,
làm việc gì cũng đặt trọng tâm vào chính mình. Hay đạo của người quân tử
phải có bốn điều cốt lõi : “phận làm con phải hiếu thuận với cha mẹ, phận
làm tôi phải trung với vua, phận làm em phải kính nhường anh, phận làm
bằng hữu phải ra tay giúp người”[46, tr.55].
Mặc dù với mục đích giáo dục để phục hưng xã hội, nhưng một mặt
ông chủ trương phục hưng xã hội bằng những người được giáo dục và một
mặt ông lại giáo dục những người đó theo khuôn mẫu trong q khứ, thì
điều này sẽ tạo ra một vịng trịn lặp lại.
Nói tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là để cải biến xã hội,

giáo dục người phát triển toàn diện, dạy cho con người biết hiểu biết về đạo
và hành đạo, đào tạo những người có kiến thức để tham gia vào hoạt động
chính trị, và giúp con người có thể tu dưỡng nhân tính.
2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục
Ở thời kỳ này, việc giáo dục đã bắt đầu đi vào hệ thống, Khổng Tử
cũng như tất cả những nhà tư tưởng thời kì này đều hướng đến đối tượng
19


cần phải giáo dục là chính con người. Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vơ
loại”- có nghĩa là giáo dục, giáo hóa với tất cả mọi người mà khơng phân
biệt loại người. Vì vậy một lần nữa khẳng định phạm vi giáo dục của ông
không chỉ dừng lại ở các con em quý tộc quan lại mà còn bao gồm cả
thường dân và nơ lệ.
Với mục đích là có thể giáo hóa tất cả mọi người trong thiên hạ thì
điểm cốt lõi đầu tiên ơng muốn đấy là có thể giáo dục hướng con người tới
chỗ hoàn thiện (người quân tử). Trong sách Luận ngữ, có thể thấy, Khổng
Tử chia xã hội thành nhiều hạng người. Ở góc độ tư chất, ơng chia thành ba
hạng người: Thượng trí, trung nhân và hạ ngu. Và đối với ơng thì “trên từ
bậc Thiên tử lần xuống chí hạng bình dân, ai ấy đều phải lấy sự tu tập lấy
mình làm gốc”[46, tr.7] và muốn tu sửa bản thân để trở thành người có đức
hạnh hồn tồn thì trước hết phải giữ cái tâm cho chính, cái ý cho thành, rồi
mới cách vật, trí tri được, mới hiểu rõ các sự vật và biết đến cùng cực cái
biết. Trong sách Luận Ngữ ông có viết: “Trung nhân dĩ thượng khả dĩ ngữ
thượng dã; trung nhân dĩ hạ bất khả dĩ ngữ thượng dã.”[45, tr.93]– Tức là
“Người có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí cao xa cho
được, từ bậc trung trở xuống, khơng thể giảng đạo lí cao xa cho được”[ 45].
Ý của ông ở đây không phải chỉ có những người trung nhân và thượng trí
mới được giảng đạo lí cao xa cịn những người cịn lại thì khơng được
giảng, mà ơng muốn khun là khơng nên dạy vì nếu dạy người ta cũng

khơng hiểu hết: “Đạo của người quân tử rộng lớn mênh mông mà cũng ẩn
nhẹm hết sức. Dẫu cho hạng ngu phu ngu phụ trong xã hội cũng dự biết
chút ít về đạo ấy. Mà biết cho cùng tột, ví dầu là thánh nhân cũng chẳng
biết hết cho nổi”. Trong sách Luận ngữ, theo cấp bậc học tập Khổng Tử lại
chia xã hội thành bốn hạng người: “Con người sinh ra, tự nhiên biết được
đạo lý, đó là hạng người cao thượng. Cần phải học rồi mới biết, đó là hạng
thứ hai. Tự mình ám độn, nhưng chịu khó học tập đạo lý, đó là hạng thứ ba.
Đã ám độn mà chẳng chịu khó học tập, đó là hạng người đê hèn”[37] . Và
20


×