Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CHÍNH SÁCH đối NGOẠI của VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.45 KB, 16 trang )

dựng đường lối kinh tế đúng đắn. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng ta đã xác định:
Một là, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của
nền kinh tế:
Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh
doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Nguyên tắc cơ bản của điều hành
kinh tế vĩ mô là phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm các
cân đối lớn của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách
tiền tệ và giữa các cơng cụ của chính sách tiền tệ; xử lý phù hợp mối quan hệ
giữa lãi suất tín dụng với tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán
cân thương mại; quản lý tốt thị trường ngoại hối và nợ quốc gia; bảo đảm vốn và
tính thanh khoản cho nền kinh tế; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; thúc đẩy đầu
tư, tăng trưởng, ngăn ngừa lạm phát và bảo đảm an tồn hệ thống tài chính, ngân
hàng.
Phải phát huy tốt hơn vai trò điều tiết của Nhà nước, nhất là một nước
đang trong quá trình chuyển đổi như nước ta, khi mà cơ chế thị trường chưa hình
thành đồng bộ, các cân đối của nền kinh tế chưa thật vững chắc và mơi trường
cạnh tranh vẫn cịn khiếm khuyết. Nhà nước can thiệp vào thị trường là để các
quy luật của kinh tế thị trường được vận hành theo đúng mục tiêu mà khơng làm
méo mó các quan hệ thị trường và để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Khi sử
dụng các công cụ điều tiết phải hết sức chú ý đến mức độ và thời gian để đạt
hiệu quả cao và chi phí thấp. Phải lường trước các phản ứng của thị trường, nếu
các phản ứng này có nguy cơ làm sai lệch những cân bằng cơ bản và gây mất ổn
định kinh tế vĩ mơ thì nhất thiết phải được điều chỉnh kịp thời.
Hai là, tập trung mọi nỗ lực thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh và tái cấu trúc nền kinh tế:
Ổn định kinh tế vĩ mô tuy rất quan trọng nhưng không chỉ là vấn đề của
bản thân chính sách. Chính sách tự nó khơng quyết định tất cả mà chỉ tạo môi
17



trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, huy động và
phân bổ các nguồn lực, điều chỉnh các khả năng phát triển và định hướng cho
các hoạt động của nền kinh tế. Khả năng điều hành kinh tế vĩ mơ cịn phụ thuộc
vào tiềm lực kinh tế và trên cơ sở tiềm lực kinh tế. Nếu tiềm lực kinh tế khơng
đủ mạnh thì khả năng điều hành kinh tế vĩ mô sẽ bị giới hạn. Vì vậy, việc tháo
gỡ mọi khó khăn, huy động các nguồn lực cho đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu là yếu tố quyết
định nhất, phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển bền vững.
Nơng nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp) có vai trị rất quan trọng trong
xố đói giảm nghèo, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu.
Thị trường nông sản, nhất là những nông sản thiết yếu chịu ảnh hưởng ít hơn của
khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu, lại là nhóm hàng có tác
động lớn nhất đến mặt bằng giá của nước ta. Phải tập trung chỉ đạo đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao nhằm tạo ra nhiều
sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng sức mua và nâng cao đời
sống của nơng dân. Biến đổi khí hậu, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh luôn đe doạ
sản xuất nông nghiệp, phải làm tốt cơng tác phịng chống trên từng địa bàn để
giảm tối đa thiệt hại.
Phát triển công nghiệp với giá trị gia tăng cao là khâu trung tâm trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố của nước
ta. Để có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009, phải tăng nhanh giá trị sản xuất
và giá trị gia tăng của ngành công nghiệp. Sự sụt giảm sản xuất và tiêu thụ qua
khủng hoảng cho chúng ta thấy rõ hơn khả năng cạnh tranh và nhu cầu của từng
loại sản phẩm, ở từng thị trường. Các doanh nghiệp, các ngành, địa phương phải
từ góc nhìn đó để bố trí sản xuất trong năm 2010. Hướng chính là tập trung cao
hơn cho những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tỷ trọng thị phần lớn và tốc
độ tăng trưởng nhanh, đi đôi với việc phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ;
đồng thời phải theo dõi những diễn biến mới đang xuất hiện để chủ động điều
chỉnh phù hợp.

18


Năm 2010, Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để kích thích tăng trưởng, đồng
thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và
phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng đầu tư không chỉ tạo ra năng lực sản xuất
mới, thúc đẩy tăng trưởng trong ngành xây dựng mà còn tạo ra thị trường cho
hàng hoá và dịch vụ, giải quyết việc làm và do đó có tác động lan toả đến tồn
bộ nền kinh tế. Vấn đề cấp thiết lúc này là đẩy nhanh tiến độ thi cơng, sớm đưa
cơng trình vào sử dụng, tạo ra nhiều sản phẩm, qua đó mà góp phần nâng cao
hiệu quả đầu tư. Vì vậy, việc phân bổ vốn, tập trung các nguồn lực cho các cơng
trình hồn thành trong năm 2010 phải được thực hiện khẩn trương và nghiêm
ngặt. Phải kiên quyết chấm dứt tình trạng bố trí nguồn lực phân tán, làm thời
gian xây dựng kéo dài, chi phí tăng cao, chậm đưa cơng trình vào khai thác, hiệu
quả thấp.
Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mà các quan hệ kinh
tế ngày càng đa dạng, phức hợp và đan xen, chun mơn hố và hợp tác hố
ngày càng sâu rộng và do đó u cầu các loại hình dịch vụ ngày càng cao.
Những năm vừa qua, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDP,
năm 2009 cịn cao hơn mức tăng sản xuất cơng nghiệp, đóng góp ngày càng
nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra
khả năng phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính,
thơng tin, tư vấn, du lịch, thương mại, vận tải, dịch vụ.
Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại là một
trong những cân đối quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng
trưởng. Mặc dù cịn có những khó khăn do kinh tế thế giới phục hồi chậm nhưng
tình hình là thuận lợi hơn năm 2009. Cần khai thác tốt hơn các thị trường truyền
thống, các thị trường có Hiệp định mậu dịch tư do đồng thời phát triển các thị
trường mới, nhất là các thị trường có nhiều tiềm năng ở khu vực Đông Âu, Tây
Á - Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La tinh. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt

Nam - Nhật Bản có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2009 sẽ phát huy mạnh hơn
trong năm 2010, Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc với khoảng
19


90% số dòng thuế nhập khẩu của Trung Quốc và 6 nước ASEAN được giảm
xuống 0% từ đầu năm 2010 sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam tiếp cận thuận
lợi hơn các thị trường rộng lớn này. Các doanh nghiệp cần tận dụng các cơ hội
mới để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường nội địa nước ta là một thị trường lớn, lại có tốc độ tăng trưởng
cao và khá ổn định. Liên tục trong nhiều năm, doanh số bán lẻ hàng hố và dịch
vụ ln tăng ở mức 10%, riêng năm 2009 tăng khoảng 12% (sau khi đã trừ yếu
tố tăng giá); dịch vụ phân phối trên thị trường nội địa đóng góp khoảng 14%
GDP, sử dụng hơn 5 triệu lao động, chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngành dịch vụ.
Các tập đoàn đa quốc gia đã và đang tích cực khai thác thị trường nội địa nước
ta. Năm vừa qua, quán triệt quan điểm thị trường trong nước là cơ sở, thị trường
ngoài nước là quan trọng và hưởng ứng phong trào người Việt Nam dùng hàng
Việt Nam, thị trường nội địa đã có những khởi sắc mới. Các doanh nghiệp đã
chú ý hơn đến khu vực thị trường này, người tiêu dùng Việt Nam đến với hàng
Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh được thị trường nội
địa, trước hết các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh, quan tâm nhiều
hơn đến thị trường nông thôn. Phải làm ra các sản phẩm có chất lượng, phù hợp
với từng đối tượng tiêu dùng và tạo ra bản sắc riêng khác biệt của hàng hố Việt
Nam. Song song đó, phải coi trọng phát triển hệ thống phân phối, coi hệ thống
phân phối là cơ sở để xác lập mối liên kết giữa sản xuất, phân phối và tiêu thụ,
đồng thời cũng là cơ sở cho việc hình thành kênh lưu thơng ổn định. Các cơ
quan quản lý nhà nước phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu
tư phát triển hệ thống phân phối nhằm xây dựng các doanh nghiệp phân phối
mạnh của Việt Nam. Điều này phải trở thành tư duy chính trị và hành động thực
tiễn của lãnh đạo các ngành và các địa phương. Cần khắc phục tình trạng là

trong khi rất quan tâm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến thiết lập cơ sở
phân phối nhưng lại thờ ơ với các doanh nghiệp trong nước. Mỗi người Việt
Nam, trước hết là những người lãnh đạo và quản lý cần quán triệt sâu sắc quan
điểm đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng ta là: Nội lực là quyết
20


định, ngoại lực là quan trọng. Thị trường nội địa, lực lượng doanh nghiệp trong
nước là những yếu tố quan trọng hợp thành nội lực của đất nước ta.
Phải tháo gỡ mọi khó khăn đang cản trở đầu tư và kinh doanh, thúc đẩy
sản xuất phát triển, mở rộng thị trường; kiên quyết giảm các thủ tục hành chính,
nhất là các thủ tục có liên quan đến gia nhập thị trường, đầu tư, xây dựng cơ
bản, kiểm tra hải quan, kê khai và nộp thuế..., góp phần giảm chi phí, nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phải kiên quyết cắt giảm tối thiểu 30%
các thủ tục hành chính hiện hành. Quyết tâm này của Chính phủ đang chuyển
thành hành động của các bộ ngành và địa phương. Điều cần đặc biệt chú ý là
phải bảo đảm tính đồng bộ trong hoạt động của các ngành, các cấp; một khâu
yếu sẽ làm cản trở và kìm hãm chuyển động của cả hệ thống.
Để nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, ngoài những
việc cần làm ngay như trên, phải thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng. Đây là điều kiện quyết định để nâng cao sức cạnh tranh
trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Công việc này phải làm liên tục trong nhiều năm, gắn với q trình tích luỹ
nguồn lực trong từng doanh nghiệp, ở mỗi ngành sản xuất cũng như trong toàn
bộ nền kinh tế; vừa phát triển tiệm tiến, vừa đi tắt - bắt kịp trong những lĩnh vực
mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh và chúng ta có điều kiện. Từ năm 2010
phải đẩy nhanh tiến trình này.
Phải khẩn trương hồn thiện các tiền đề, điều kiện cho tái cấu trúc. Trước
hết là hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, phát triển mạnh thị trường
công nghệ, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế;

cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia; phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao; huy động các nguồn lực để xây dựng đồng bộ và
hiện đại kết cấu hạ tầng. Phải xác định rõ nội dung của tái cấu trúc, trọng tâm là
tái cấu trúc các ngành sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với tái
cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường nhằm tăng nhanh giá
trị nội địa và giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ, phát triển lực lượng doanh
21


nghiệp dân tộc, tạo dựng các doanh nghiệp Việt Nam có thương hiệu mạnh, có
khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng chính
là q trình chuyển đổi mơ hình tăng trưởng chủ yếu từ dựa vào các yếu tố phát
triển theo chiều rộng là vốn, khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng
thấp sang mơ hình tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào các nhân tố năng
suất tổng hợp như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ
năng quản lý hiện đại, qua đó mà nâng cao mức đóng góp của các yếu tố này
vào tăng trưởng. Các doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc rằng trong thời đại
khoa học công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, các yếu tố năng suất tổng
hợp có vai trị quyết định đến chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong quá
trình này, Nhà nước tạo mơi trường và điều kiện, cịn cộng đồng doanh nghiệp
phải là lực lượng quyết định.
Trong năm 2010, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất
tín dụng để doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất.
Tuy nhiên, đổi mới thiết bị cơng nghệ phải ln gắn liền với mơ hình tổ chức và
mơ hình quản trị mới, tạo nên hiệu quả tổng hợp và thúc đẩy tăng trưởng bền
vững.
Phải tổ chức thực hiện khẩn trương và có hiệu quả, nói đi đơi với làm.
Các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhất là người đứng
đầu phải sâu sát và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Chỉ
đạo kiên quyết và tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt để không những

chuyển chính sách thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội mà cịn giúp hồn
thiện chính sách ngày càng sát đúng hơn, phù hợp với yêu cầu của cuộc sống và
nguyện vọng của nhân dân. Thông qua tổ chức chỉ đạo thực hiện sẽ nẩy sinh
những giải pháp mới, sáng tạo từ thực tiễn phong phú và sôi động ở từng lĩnh
vực, địa phương và trong từng cơ sở.
Ba là, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến chủ trương
chính sách, tạo sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội
từ nhận thức đến hành động
22


Phát triển là một quá trình vận động tổng hợp với nhiều mục tiêu, lại có
sự gắn kết, tương tác giữa kinh tế, xã hội và mơi trường, trong đó có những mục
tiêu cụ thể trong ngắn hạn có thể là mâu thuẫn nhau. Tồn cầu hố làm q trình
tái sản xuất mở rộng trong không gian và biến đổi nhanh theo thời gian, các
động thái phát triển nhiều khi vượt qua khả năng dự báo và các mơ hình tính
tốn. Hơn nữa, khơng một cơ chế, chính sách nào có thể bao quát mọi hiện
tượng kinh tế - xã hội. Vì vậy, có những ý kiến khác nhau về một chính sách cụ
thể nào đó cũng là điều bình thường. Quan trọng nhất là khi đã quyết định, phải
tập trung mọi nỗ lực để thực hiện có kết quả các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu
đã xác định. Phải công khai và minh bạch thông tin, làm rõ chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước. Cơng tác thơng tin tun truyền phải vì lợi ích của
đất nước, của nhân dân và phải kịp thời bác bỏ những thông tin thất thiệt; tạo ra
nhận thức đúng đắn và sự đồng thuận xã hội cao, hành động theo cùng một
hướng. Điều này càng cần thiết trong điều kiện nước ta vốn đi lên từ một nền
sản xuất nhỏ, tư tưởng tiểu nơng và tâm lý “đám đơng” cịn khá nặng nề. Thời
gian qua chúng ta đã ngày càng làm tốt hơn yêu cầu này. Cần làm tốt hơn nữa
trong thời gian tới.
Tình hình kinh tế thế giới đang biến động rất khó lường. Cần theo sát các
động thái phát triển để có phản ứng chính sách nhanh nhạy và phù hợp nhằm tận

dụng các thời cơ mới xuất hiện, đồng thời có giải pháp khắc phục những khó
khăn mới nẩy sinh, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và giải
quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
II.1.3. Giải quyết các vấn đề về đối ngoại.
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và
khó lường. Tồn cầu hố tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các
nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội
nhập quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi
bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
23


trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất
và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất
nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế
và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Mơi trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc
tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát
huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng
đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng
chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hồ bình do các thế lực thù
địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn
nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ
tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước

Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp
tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong
đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với
các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương
Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký
kết với nhiều nước trong và ngồi khu vực những khn khổ quan hệ hữu nghị
và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã
được ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp
định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
24


nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xia...
Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần khơng nhỏ vào
việc khơng ngừng củng cố mơi trường hồ bình, ổn định và tạo mọi điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội
dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam trong bối cảnh thế giới tồn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật
diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu
tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị
trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho
sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu
vực như ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC),
Diễn đàn á - Âu (ASEM) và đang tích cực đàm phán để sớm gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động

của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt
Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và đó là cơ sở để
Việt Nam ứng cử vào ghế Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những
vấn đề tồn cầu mà khơng một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt
Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm,
đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma
túy, ... Đặc biệt từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ
lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song
phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an
ninh và ổn định của các quốc gia.
25


Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, ổn định và phát triển.
II.1.4. Giải quyết vấn đề về tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tơn giáo khác nhau đồng thời tồn tại.
Chỉ tính riêng 6 tơn giáo lớn, số tín đồ đã lên tới một phần tư dân số. Để động
viên được mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào cơng cuộc đổi mới, khơng thể
khơng tính đến lực lượng đông đảo này. Trong những năm qua, nhờ có những
quan điểm chỉ đạo đúng đắn và những chính sách thích hợp trên lĩnh vực tín
ngưỡng, tơn giáo cũng như việc thực hiện có hiệu quả những quan điểm, chính
sách đó, đồng bào có đạo đã hồ hởi, phấn khởi tham gia một cách tự giác vào
quá trình đổi mới. Những thành tựu to lớn trên mọi mặt mà công cuộc đổi mới
hơn 20 năm qua đạt được có sự đóng góp khơng nhỏ của đồng bào có đạo.

Trong khi thấy rõ thành tựu, ưu điểm như vậy, chúng ta cũng thấy các thế
lực thù địch đang ra sức lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “Diễn biến
hồ bình” đối với nước ta. Một số yếu kém trong nhận thức và giải quyết vấn đề
tôn giáo ở nơi này hay nơi khác, ở lúc này hay lúc khác đã có tác động tiêu cực
nhất định tới việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân tộc, trong
đó có sức mạnh của các đồng bào có đạo để thúc đẩy cơng cuộc đổi mới đất
nước. Do vậy, tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo trên tiền đề quán triệt
sâu sắc hơn nữa thành quả đổi mới nhận thức về tôn giáo vào việc hồn thiện
thêm một bước chính sách tơn giáo, là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp
bách ở nước ta hiện nay.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo được xây dựng trên
những cơ sở sau đây: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về việc giải quyết vấn đề tơn giáo; nhiệm vụ chính trị cơ bản của từng giai
đoạn cách mạng; bối cảnh trong nước và quốc tế, trong đó có thực trạng tình
hình tơn giáo; kinh nghiệm trong nước và quốc tế trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo.
26


Xuất phát từ những căn cứ trên và do nhu cầu bức xúc của thực tiễn, ngày
12 tháng 3 năm 2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khố IX
đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW Về cơng tác tôn giáo. Nghị quyết đã nêu lên 5
quan điểm, chính sách đối với tơn giáo. Những quan điểm, chính sách đó là kết
tinh những thành tựu to lớn của chúng ta trong đổi mới nhận thức về tôn giáo, có
giá trị chỉ đạo trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta.
Việc quán triệt sâu sắc những đổi mới tư duy trên đây về tơn giáo chắc
chắn sẽ có tác động tích cực tới việc vận động đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo
trong q trình tiếp tục đổi mới tồn diện đất nước trong giai đoạn hiệnnay.
II.1.5. Giải quyết vấn đè về chính trị.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp,

tiềm ẩn những nhân tố khó lường. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đẩy
mạnh và đạt được những thành tựu quan trọng: chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng - an ninh được giữ vững; nội lực, tiềm năng của đất nước lớn và cịn có
thể phát huy mạnh hơn; uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được củng cố, tăng cường. Đó là những thuận lợi rất cơ bản, tạo cơ sở
vững chắc để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức khơng nhỏ, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
từ cuối năm 2007 đem lại; đồng thời, cũng phải thường xuyên đấu tranh chống
các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hịa bình” rất nguy hiểm,
thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt
và nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ
27


quốc, được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại
hội X, Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới; để trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đạt
hiệu quả thiết thực.
Theo tư duy mới của Đảng ta, mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
hiện nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa bảo vệ sự nghiệp
đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định

chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc là kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước;
kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ và tự bảo vệ trong mọi hoạt động,
mọi lúc mọi nơi, trong đó tự bảo vệ là phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ Tổ
quốc.
Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đồn kết
tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh trong nước với sự
kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực
khác là nhân tố quyết định. Đó cịn là sức mạnh của nền quốc phịng tồn dân và
nền an ninh nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời
bình, bảo đảm đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao của địch.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới địi hỏi phải tập trung xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh tồn diện, có chất lượng tổng hợp
và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; trong đó, phải xây dựng quân đội nhân
28


dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt
trong nhiệm ảo vệ Tổ quốc.
II.2. Thành tựu đạt được
Trong quá trình xây dựng đât nưuocs Đảng ta đã kiên định con đường mà
đại hội II vạch ra và Đảng đã vận dụng vào tình hình của nước ta hiện nay và thu
được nhiều thành tựu đáng kể:
Nước ta giờ đây đã có một nền kinh tế phát triển tuy không bằng các nước

tư bản nhưng đã cho thấy sự phát triển vượt bậc từ khi tiến hành đổi mới.Từ một
nước nông nghiệp giờ đã có nền cơng nghiệp phát triển và dự kiến đến 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.Dù đã trải qua biết bao biến cố thăng
trầm của lịch sử nhưng Việt Nam vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa
,nhiều lúc tưởng chừng như nó rơi xuóng bờ vực thẳm nhưng bằng sự lãnh đạo
tài tình của Đảng mà nhân dân ta vẫn kiên định con đường mà Đảng đã lựa chọn
từ trước đó.
Đảng đã quan tam thật sự đến đời sống của nhân dân dân ,đã làm cho dân
tin dân phục và dân nghe.Trong vấn đề đối ngoại nước ta đã gia nhập tổ chức
WTO đã đặt quan hệ ngoại giao với EU,Nhật Bản,Trung Quốc,ASEAN….. đã
thu được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngồi.
Nền quốc phịng an ninh giữ vững và đảng cũng đang ra sức xây dựng
một nền quốc phịng vững mạnh,khơng lơ là với nhiệm vụ chính tri quân sự.
Phát triển một nên kinh tế gắn với độc lập tự chủ,quan tâm sâu sắc đến
đời sống của người nơng dân,thực hiện xóa đói giảm nghèo thúc đẩy q trình
cơng nghiệp hóa.Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD,năm 2008 đạt
62.9 tỷ USD.
Trong quá trình thực hiện đổi mới đất nước,Đảng ta đã thu được nhiều
thành tựu to lớn để có được thành tựu như ngày hơm nay thì phải trên cơ sở kế
thừa những thành quả đạt được từ trước đó.Trong giai đoạn hiện any Đảng ta
đang thực hiện nhiều biện pháp để làm sao phù hợp với đặc điểm của đất nước
góp phần đưa đất nước phát triển.Những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đạt
29


được đã phải đổi bằng máu và nước ămts của nhân dân lao động.Đảng đã vận
dụng những nguyên tắc,chính sách của đại hội II,đó là cơ sở là tiền đề đối với
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ngày hôm nay.Đảng cộng sản Việt Nam
sẽ từng bước thực hiện trên cơ sở những cái đã có,kế thừa những cái đã đạt được
và tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh để phù hợp với tình hình mới.

Qua đó ta thấy vai trị của Đảng-một Đảng chân chính ,hoạt động với
phương châm lấy dân làm gốc và phục vụ nhân dân.Đó là mục đích của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

30


C.KẾT LUẬN
Sau quá trình tìm hiểu về đường lối chỉ đạo của Đảng tại đại hội II thang
2/1951 và vận dụng giải quyết các vấn đề hiện nay,tơi đã có nhận thức về đường
lối chỉ đạo của Đảng thời kì trước và việc Đảng ta vận dụng giải quyết các vấn
đề hiện nay,cũng thu được những thành tựu đáng kể.Điều đó chứng tỏ đường lối
mà Đảng ta đề ra tại đại hội II tháng 2/1951 vẫn cịn có ý nghĩa và phù hợp với
tình hình bấy giờ.
Để tăng cường sự nhận thức của toàn dân về sự chỉ đạo chiến lược của
Đảng trong đại hội II và vận dụng giải quyết các vấn đề hiện nay ta cần thực
hiện một số biện pháp sau:
-Xây dựng khung chương trình về vấn đề này,trình bày một cách đơn
giản,dễ hiểu,phù hợp với trình độ người học.
-Chú trọng nâng cao tầm hiểu biết cho thanh niên,sinh viên,tầng lớp trẻ.
- Tổ chức các buổi tọa đàm,hội thảo,khuyến khích đơng đảo các thành
phần nhân dân tham gia để nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
- Cần phải hoàn thiện hệ thong pháp luật,thực hiện đào tạo cán bộ có tầm
nhìn chiến lược,tạo dựng tốt về cơ chế,từng bước linh hoạt chủ động thay đổi,bổ
sung đường lối ch phù jowpj với tình hình mới.Chú trọng hon nữa đường lối xây
dựng Đảng đúng đắn sáng tạo.
Tin rằng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,sự đoàn kết của toàn dân sẽ
tạo một đường lối đúng đắn,linh hoạt phù hợp ,kịp thời là điều có thể.Từ đó góp
phần xây dựng đưuọc một đất nước Việt Nam cóa thực lực bên trong và có tiếng
nói trên trường quốc tế,sánh vai cùng các cường quốc năm châu.


31


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phương pháp nghiên cứu khoa học-Phạm Minh Hùng
2.Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.NXB
chính trị quốc gia. 2009
3.Tư tưởng Hồ Chí Minh.NXB chính trị quốc gia. 2009
4.Tạp chí lịch sử Đảng-Viện lịch sử Đảng- Học viện chính trị hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh số 9/2009
5.Tạp chí cộng sản Đảng 9/2006
6.Tạp chí cộng sản số 15-17 2001
7.Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
8.Lịch sử lớp 12-nâng cao.NXB giáo dục
9.Đảng cộng sản việt nam:văn kiện đảng tồn tập. nhà xuất bản chính trị
quốc gia.trang 444
10.Trường Chinh : cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. NXB
sự thật 1976.
11. Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. NXB sự thật 1991.

32



×