Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Luận án biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 188 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN VỊNH

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN VỊNH

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HỒ TRỌNG NGŨ

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về
tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Ngô Văn Vịnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................................8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................8
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................22
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án .........................................24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................27
2.1. Khái niệm, đặc trưng pháp lý, phân loại biện pháp bắt người và mối quan
hệ giữa biện pháp bắt người với các biện pháp ngăn chặn khác trong tố tụng
hình sự .......................................................................................................................27
2.2. Điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự ..........45
2.3. Các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố
tụng hình sự Việt Nam ..............................................................................................57
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG .............69
3.1. Khái quát quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp

bắt người trước năm 2015 .........................................................................................69
3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp
bắt người....................................................................................................................77
3.3. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam ...................................................................................................................92
Chương 4: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ........................................................................1155
4.1. Dự báo tình hình áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình
sự ở Việt Nam .......................................................................................................1155
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật
tố tụng hình sự ở Việt Nam ...................................................................................1222
KẾT LUẬN ..........................................................................................................1488
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................15050
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 1511


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANND

An ninh nhân dân

BCA

Bộ Cơng an

BLHS


Bộ luật Hình sự

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

CAND

Cơng an nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSND

Cảnh sát nhân dân

ĐHQG

Đại học Quốc gia

ĐTHS

Điều tra hình sự


ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

KHXH

Khoa học xã hội

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
PHẦN I: HỆ THỐNG CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Số liệu điều tra, truy tố, xét xử trên toàn quốc
Bảng 3.2: Số đối tượng bị bắt trên toàn quốc
Bảng 3.3: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang
Bảng 3.4: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và
chủ thể áp dụng
Bảng 3.5: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bảng 3.6: Tương quan giữa chủ thể bắt người đang bị truy nã
Bảng 3.7: Tình hình áp dụng biện pháp bắt
Bảng 3.8: Tình hình áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bảng 3.9: Thống kê chức danh ĐTV của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
trong CAND (tính đến tháng 10/2017)
Bảng 3.10: Trình độ nghiệp vụ Cơng an của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
(tính đến tháng 10/2017)
PHẦN II: HỆ THỐNG CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1:

Diễn biến số vụ án và số bị can đã khởi tố

Biểu đồ 3.2:

Số đối tượng bị bắt trong toàn quốc

Biểu đồ 3.3:

Số đối tượng bị bắt quả tang trong toàn quốc


Biểu đồ 3.4:

Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm

giam trong toàn quốc
Biểu đồ 3.5:

Số đối tượng bị bắt khẩn cấp trong toàn quốc

Biểu đồ 3.6:

Số đối tượng bị bắt truy nã trong toàn quốc

Biểu đồ 3.7:

Tương quan giữa các trường hợp bắt

Biểu đồ 3.8:

Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang

Biểu đồ 3.9:

Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Biểu đồ 3.10: Tương quan giữa các chủ thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biểu đồ 3.11: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Biểu đồ 3.12: Tương quan giữa các chủ thể bắt người đang bị truy nã



Biểu đồ 3.13: Số đối tượng Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp
Biểu đồ 3.14: Số đối tượng Viện kiểm sát phê chuẩn bắt khẩn cấp sau trả tự
do khơng xử lý hình sự
Biểu đồ 3.15: Số đối tượng bắt quả tang trả tự do chuyển xử lý hành chính
Biểu đồ 3.16: Số bị can Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam
Biểu đồ 3.17: Số bị can bị bắt tạm giam do CQĐT đình chỉ vì khơng tội
Biểu đồ 3.18: Số bị can bị bắt tạm giam do Viện kiểm sát đình chỉ vì khơng tội
Biểu đồ 3.19: Trình độ nghiệp vụ Cơng an của CBCS Cơ quan CSĐT (tính
đến tháng 10 năm 2017)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ
biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan
trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng,
chính xác và xử lý cơng minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội
cũng như khơng để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Bên cạnh đó,
việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người...; nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt việc điều chỉnh pháp luật đối với biện
pháp bắt người trong TTHS còn thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì
nó liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Do đó, những vi phạm pháp luật về
biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong
TTHS dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá

Đảng và Nhà nước ta.
Hiện nay, dưới góc độ khoa học, việc nhận thức về biện pháp bắt người còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, hệ thống lý luận về biện pháp bắt người còn
chưa được hồn thiện. Đặc biệt nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt
người còn chưa nhận thức đầy đủ về: bản chất pháp lý; mục đích áp dụng biện pháp
bắt người; ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người;… như cịn
có những nhận thức sai lầm khi cho rằng mục đích áp dụng BPNC nói chung và
biện pháp bắt người nói riêng là “tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành bản án hình sự” [51, tr. 199] nên đã dẫn đến sự lạm dụng biện
pháp bắt người, dùng biện pháp bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra

1


khác… Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều
quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của biện pháp bắt người, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hồn thiện hoạt động TTHS nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng, theo đó đã khơng ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đề
ra nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế việc vi phạm pháp luật khi áp dụng
biện pháp bắt người. Cụ thể, để chấn chỉnh một bước quan trọng công tác tư pháp
nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN có nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, khắc
phục tình trạng vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng, Bộ Chính trị đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo cơng
tác tư pháp, trong đó có việc chỉ đạo, chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
và coi đó là những nội dung quan trọng và cấp thiết, như: Chỉ thị số 53/CT - TW ngày
21/3/2000 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2000;
Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày

02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020..., đặc biệt,
khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành với một trong những nội dung quan trọng là
đề cao quyền con người đã có những tác động khơng nhỏ đến việc áp dụng BPNC nói
chung và biện pháp bắt người trong TTHS nói riêng. Do đó, trong những năm gần
đây, việc áp dụng biện pháp bắt người ngày càng được chấn chỉnh, đạt được những
kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của quá trình TTHS. Việc áp dụng biện
pháp bắt người nhìn chung đã đảm bảo được các quy định của pháp luật TTHS về căn
cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp
bắt người vẫn có những tồn tại, hạn chế và vi phạm nhất định, như: tình trạng lạm
dụng biện pháp bắt người cịn kéo dài, gây bất bình trong dư luận xã hội; có lúc, có
nơi, một số địa phương vẫn cịn để xảy ra tình trạng vi phạm về thủ tục áp dụng biện
pháp bắt người… Theo Thống kê của Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin
- VKS nhân dân tối cao, từ năm 2008 đến hết năm 2017, VKS các cấp đã không phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp đối với 1.162 đối tượng, (chiếm tỷ lệ là 0,62% trong tổng số

2


đối tượng bị bắt khẩn cấp), trong đó có 400 đối tượng mặc dù có sự phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp của VKS nhưng sau đó phải trả tự do khơng xử lý hình sự (chiếm tỷ lệ
0,21% trong tổng số đối tượng bị bắt khẩn cấp); hay số đối tượng bị bắt phạm tội quả
tang sau đó trả tự do và chuyển xử lý hành chính là 29.472 đối tượng (chiếm tỷ lệ
7,42% trong tổng số đối tượng bị bắt quả tang)... Điều này đã gây ra những hậu quả
tiêu cực, như: xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế XHCN; trực tiếp xâm
phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân nói chung và người bị bắt nói
riêng; đồng thời làm giảm uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng…
Những tồn tại, thiếu sót và vi phạm nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó phải kể đến việc vận dụng không đúng các quy định của pháp luật
TTHS về biện pháp bắt người; những sơ hở, thiếu sót trong chính các quy định của

pháp luật TTHS về biện pháp bắt người; trình độ pháp luật, nghiệp vụ của một số cán
bộ áp dụng còn hạn chế; sự thiếu trách nhiệm và sa sút về đạo đức nghề nghiệp của
khơng ít cán bộ áp dụng biện pháp bắt người...
Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều cơng trình trong và
ngồi nước nghiên cứu. Các cơng trình nghiên cứu này đã tiếp cận, nghiên cứu từ
nhiều phương diện khác nhau, làm rõ nhiều vấn đề lý luận, pháp luật thực định và
thực trạng áp dụng biện pháp bắt người ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên do
khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và
phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có liên quan đến biện pháp bắt người còn
chưa được đề cập, nghiên cứu tới.
Như vậy, hiện nay vẫn cần một công trình nghiên cứu chuyên biệt về biện
pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn
đề tài “Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận
án tiến sĩ là toàn cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật về biện pháp bắt người trong TTHS để kiến nghị các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong thực tiễn.

3


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của luận án, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
được xác định:
Thứ nhất, nghiên cứu, đánh giá tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên
quan đến biện pháp bắt người ở cả trong nước và ngồi nước, từ đó rút ra những vấn
đề cần tiếp tục được nghiên cứu trong luận án;
Thứ hai, phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người

trong pháp luật TTHS Việt Nam, như: khái niệm, đặc trưng pháp lý; phân loại biện
pháp bắt người; mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các BPNC khác trong
TTHS; điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS; các yếu tố cơ
bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
Thứ ba, phân tích những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp
bắt người;
Thứ tư, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
pháp luật TTHS Việt Nam; những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế và vi phạm pháp
luật trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người cũng như nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, vi phạm đó;
Thứ năm, đưa ra những dự báo khoa học về tình hình áp dụng biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp bắt người ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp luật thực định
về biện pháp bắt người trong TTHS và thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về pháp luật thực định, luận án tập trung nghiên cứu các quy định về biện
pháp bắt người trong Bộ luật TTHS năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015. Tuy
nhiên đối với thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS, luận án chỉ khảo
sát, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo quy định trong Bộ luật
TTHS năm 2003 (từ năm 2008 đến hết năm 2017) trên phạm vi toàn quốc.

4


Biện pháp bắt người trong TTHS do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành, tuy
nhiên luận án tập trung nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS

của CQĐT, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo sát số liệu từ thực tiễn áp dụng của
Cơ quan CSĐT.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước
và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực xã
hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và việc hồn
thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp, nhà nước
pháp quyền và vấn đề quyền con người.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luận án đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, phương pháp tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu nhằm hệ thống hóa các quan điểm,
căn cứ lý luận, các kết quả nghiên cứu từ các cơng trình khoa học đã được cơng bố
có liên quan đến biện pháp bắt người; đồng thời tổng hợp các tài liệu, số liệu phản
ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát;
Thứ hai, phương pháp phân tích. Phương pháp này được sử dụng bao quát
trong tất cả các chương của luận án để phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận
giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận án;
Thứ ba, phương pháp phân tích lịch sử. Phương pháp này được sử dụng trong
Chương 3 để khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật TTHS nước ta về biện pháp bắt người;
Thứ tư, phương pháp luật học so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng
trong Chương 4 để làm sáng tỏ một số quy định về biện pháp bắt người trong pháp

5



luật của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt
Nam để hồn thiện pháp luật;
Thứ năm, phương pháp thống kê hình sự. Phương pháp này được sử dụng để
thu thập các số liệu liên quan đến thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
TTHS của cơ quan có thẩm quyền;
Thứ sáu, phương pháp chuyên gia. Đây là phương pháp được sử dụng trong tất
cả các chương của luận án để tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học, nhà nghiên
cứu lý luận và cán bộ thực tiễn có chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ
sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu;
Thứ bảy, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình. Để có cơ sở cho việc đưa
ra những nhận xét, đánh giá trong luận án, tác giả luận án đã nghiên cứu, tìm hiểu
hồ sơ một số vụ án điểm trong đó có áp dụng biện pháp bắt người đạt kết quả cao
hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS. Đồng thời,
tác giả luận án đã lựa chọn nghiên cứu các hồ sơ điển hình theo từng trường hợp bắt
người với số lượng đối tượng khác nhau, trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm cũng
như những tồn tại, hạn chế để có biện pháp khắc phục. Phương pháp này còn được
sử dụng để nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người ở một số đơn vị và địa
phương điển hình;
Thứ tám, phương pháp tọa đàm khoa học. Để bảo đảm tính khoa học của luận
án, tác giả luận án đã tiến hành hội thảo đề tài luận án tại Khoa Luật. Qua đó, tác giả
luận án đã tham khảo được ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học về
các nội dung luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện
về biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Do đó, luận án đã có nhiều
đóng góp mới về mặt khoa học, cụ thể như:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận về biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam, trong đó lần đầu tiên luận án phân tích, luận

giải về điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS;

6


Thứ hai, phân tích làm rõ những sửa đổi, bổ sung mới trong các quy định về
biện pháp bắt người của Bộ luật TTHS năm 2015;
Thứ ba, bổ sung luận cứ khoa học và luận cứ thực tiễn cho việc nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng nói chung và CQĐT nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thứ nhất, về lý luận. Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung,
hồn thiện hơn hệ thống lý luận về biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS
Việt Nam;
Thứ hai, về thực tiễn. Nội dung của luận án là cơ sở để các nhà lập pháp
nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam hiện hành về biện pháp bắt người, cũng như kịp thời ban hành các văn bản
dưới luật hướng dẫn cụ thể về biện pháp này. Đồng thời, những giải pháp mà luận
án đề xuất từ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp bắt trong pháp
luật TTHS có thể được CQĐT các cấp nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn áp dụng
tại cơ quan mình nhằm nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.
Ngoài ra, nội dung của luận án có thể được sử dụng trong nghiên cứu, học tập của
sinh viên, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy tại các trường CAND, các cơ sở đào tạo về
luật, các cán bộ thực tiễn làm công tác điều tra.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam

Chương 3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt
người và thực trạng áp dụng
Chương 4. Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong thời gian qua ở nước ta đã có rất nhiều các cơng trình khoa học, như:
giáo trình, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa
học, bài báo khoa học… nghiên cứu, đề cập đến biện pháp bắt người trong TTHS.
Có thể sắp xếp các cơng trình khoa học có liên quan mật thiết đến biện pháp bắt
người theo các nhóm sau đây:
1.1.1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người
Hệ thống lý luận về biện pháp bắt người vô cùng phong phú, đề cập đến rất
nhiều vấn đề. Do đó, xuất phát từ nhiệm vụ nghiên cứu, luận án chỉ tập trung khai
thác các cơng trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận được đề cập đến trong luận
án, cụ thể:
- Về khái niệm và đặc trưng pháp lý của biện pháp bắt người.
Khái niệm biện pháp bắt người được đề cập đến trong rất nhiều cơng trình
khoa học, trong đó phải kể đến các giáo trình luật TTHS, bởi vì đây là các cơng
trình nghiên cứu những lý luận căn bản nhất về biện pháp bắt người. Có thể kể đến
một số giáo trình như: “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện
CSND, xuất bản năm 2005 [39]; “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” do

TS. Phạm Mạnh Hùng - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội chủ biên, Nxb. Chính trị
quốc gia sự thật xuất bản năm 2016 [43]; “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND xuất bản năm 2008 [84]…
Ngoài ra, một số từ điển, luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo cũng có đưa ra khái niệm
về biện pháp bắt người, tiêu biểu như: Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND
xuất bản năm 2005 [86]; luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của

8


Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005 [34]; sách chuyên khảo “Áp
dụng biện pháp bắt trong hoạt động điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy” do TS. Nguyễn Quang Nghĩa chủ biên, Nxb. CAND
xuất bản năm 2011 [48]; sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn
Trọng Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2015 [51]; sách chuyên khảo “Về
tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp,
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011 [78]… Mặc dù, các cơng trình nêu trên
đưa ra các khái niệm khác nhau về biện pháp bắt người nhưng cơ bản đều thống
nhất chỉ ra các đặc trưng pháp lý của biện pháp bắt người, bao gồm: một là, bắt
người là một BPNC trong TTHS; hai là, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người
là bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; ba là, mục đích áp dụng là nhằm ngăn
chặn tội phạm, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Có thể thấy việc xác định đối tượng
bị áp dụng biện pháp bắt người bao gồm cả người chưa bị khởi tố là quá rộng. Hơn
nữa, một số khái niệm chưa thể hiện được chủ thể áp dụng biện pháp bắt người hoặc
thể hiện chưa chính xác chủ thể áp dụng biện pháp này khi cho rằng chủ thể áp dụng
là những cơ quan có thẩm quyền: “Bắt là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
do những cơ quan có thẩm quyền tiến hành đối với bị can, bị cáo…” [48, tr.7]. Bên

cạnh đó, nếu xác định mục đích áp dụng biện pháp bắt người là tạo điều kiện thuận
lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự thì sẽ dẫn đến việc lạm
dụng biện pháp bắt người, lấy bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra…
Mặc dù các kết quả nghiên cứu nêu trên chưa đầy đủ, thậm chí một số kết quả
nghiên cứu chưa chính xác nhưng các kết quả này cũng là cơ sở lý luận quan trọng
để luận án tham khảo nhằm luận giải đưa ra khái niệm biện pháp bắt người và làm
rõ các đặc trưng pháp lý của biện pháp này.
- Về phân loại biện pháp bắt người.
Việc phân loại biện pháp bắt người cũng đã được một số cơng trình nghiên
cứu đề cập đến. Theo đó, có thể chia các cơng trình này thành bốn nhóm: nhóm thứ
nhất, chia biện pháp bắt người thành bốn trường hợp, bao gồm: bắt bị can, bị cáo để

9


tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt
người đang bị truy nã [49, tr.62]; nhóm thứ hai, cũng chia biện pháp bắt người
thành bốn trường hợp nhưng bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bắt
một số đối tượng đặc biệt [108, tr.229], [19, tr.55], [44, tr.32]; nhóm thứ ba, chia
biện pháp bắt người thành ba trường hợp, bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã [1, tr.19], [84, tr.201-202]; nhóm thứ tư, chia biện pháp bắt người thành năm
trường hợp, bao gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm
tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị
yêu cầu dẫn độ [43, tr.206]. Khái quát chung có thể thấy khi phân loại biện pháp bắt
người, cả bốn nhóm nêu trên mới chỉ căn cứ vào tiêu chí là đối tượng bị bắt mà
chưa tiến hành phân loại theo các tiêu chí khác.
- Về các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
Đây là vấn đề lý luận về biện pháp bắt người được ít các cơng trình khoa học

đề cập đến. Trong số đó, đáng chú ý là hai cơng trình sau:
Luận văn thạc sĩ “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Lê Thị
Thu Nguyệt, Học viện KHXH, năm 2017 [50]. Tác giả luận văn cho rằng có ba yếu
tố tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS: một là, chất lượng
của các quy phạm pháp luật TTHS về các BPNC trong TTHS [50, tr.14]; hai là, chất
lượng của các quy phạm pháp luật TTHS về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các BPNC; mối quan hệ tố tụng liên quan đến
thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn TTHS trong các cơ quan
tiến hành TTHS [50, tr.14]; ba là, năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng
các BPNC [50, tr.14]. Có thể thấy đây là các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc áp
dụng biện pháp bắt người trong TTHS, tuy nhiên theo tác giả luận án yếu tố thứ nhất
và yếu tố thứ hai cần khái quát chung thành chất lượng của điều chỉnh pháp luật đối
biện pháp bắt người trong TTHS. Ngồi ra, do đây là cơng trình nghiên cứu ở cấp
độ luận văn thạc sĩ cho nên việc phân tích nội dung cụ thể của các yếu tố này còn

10


chưa sâu sắc, như chưa làm rõ được các tiêu chí xác định chất lượng của các quy
phạm pháp luật TTHS về các BPNC…
Luận văn thạc sĩ “Áp dụng pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam của
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Nguyễn Thái Thịnh,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010 [72]. Tác giả
luận văn đã chỉ ra và phân tích các điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam. Theo đó, bao gồm các điều kiện sau: thứ nhất, sự hoàn thiện
của hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan [72, tr.36]; thứ hai, năng lực, trình
độ chun mơn và phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của ĐTV, KSV, Thẩm
phán [72, tr.39]; thứ ba, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành [72, tr.41]; thứ tư, cơ
sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với ĐTV, KSV, Thẩm phán [72,

tr.43]. Đặc biệt, tác giả luận văn đã phân tích tương đối sâu sắc các điều kiện này,
như khi phân tích về điều kiện thứ nhất, tác giả đã tập trung luận giải bốn tiêu chuẩn
cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật có liên quan, như: tính
tồn diện; tính đồng bộ; tính phù hợp và kỹ thuật xây dựng văn bản… Nghiên cứu
về các điều kiện này cho thấy về cơ bản đều tác động đến việc áp dụng biện pháp
bắt người nói riêng và biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam nói chung. Do đó đây
là cơng trình khoa học tiêu biểu để luận án tham khảo làm rõ những yếu tố cơ bản
tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
- Về các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp bắt người.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp bắt người, ngồi
các cơng trình kể trên cịn có các sách bình luận khoa học, như:“Bình luận Khoa
học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên,
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009 [2]; “Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. CAND xuất bản năm 2007
[109]; “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do TS. Trần Văn
Biên - TS. Đinh Thế Hưng đồng chủ biên, Nxb. Thế giới xuất bản năm 2017 [7]…;
các sách chuyên khảo, như: “Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự”
của ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997 [19]; “Về tự
do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp,

11


Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011 [78];… và rất nhiều các bài báo khoa
học, điển hình như: “Các điểm mới trong quy định về những biện pháp ngăn chặn
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003” của ThS. Vũ Gia Lâm, Tạp chí Luật học
[46]; “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của TS.
Trần Quang Tiệp, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005 [76]; “Về việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của PGS.TS.
Nguyễn Đức Thuận, Tạp chí Luật học số 7/2008 [75]; “Biện pháp ngăn chặn “Bắt”

trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của ThS. Phạm Thanh Bình, Tạp chí TAND, số
12/1997 [8]; “Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp” của TS. Trần
Quang Tiệp, Tạp chí TAND số 17/2006 [77]; “Một số vấn đề về bắt người trong
trường hợp khẩn cấp” của ThS. Đào Hữu Dân, Tạp chí Luật học, số 2/2000 [25]…
Các cơng trình này chủ yếu nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988
và Bộ luật TTHS 2003 về biện pháp bắt người với các nội dung, như: căn cứ áp
dụng; thẩm quyền áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng. Số ít các bài bài khoa học
nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về biện pháp bắt người,
như:“Chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của
TS. Mai Đắc Điện, Tạp chí Kiểm sát số 5/2016 [33];“Một số vấn đề về áp dụng biện
pháp bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS.
Nguyễn Tiến Trường, Tạp chí CAND kỳ 2, số 3-2016 [83]… Có thể nói đây là hệ
thống phong phú các cơng trình khoa học nghiên cứu các quy định của pháp luật
TTHS về biện pháp bắt người mà tác giả luận án sẽ chọn lọc tham khảo để làm rõ
vấn đề này trong luận án của mình.
1.1.1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu về thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người trong pháp luật tố tụng hình sự
Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS là nội dung
nghiên cứu chủ yếu của các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và sách chuyên khảo.
Trong đó, tiêu biểu là các cơng trình nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Nguyễn Văn
Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005 [34]. Luận án đã khảo sát, đánh giá thực

12


trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1999
đến năm 2002. Theo đó, việc áp dụng biện pháp bắt người trong những năm gần đây
đã có những tiến bộ đáng kể, việc bắt sai, bắt oan về thủ tục đã giảm nhiều, tỷ lệ bắt

sau đó xử lý hình sự cao… tuy nhiên “cơng tác bắt nói riêng và áp dụng BPNC nói
chung vẫn còn nhiều vụ việc oan sai gây hậu quả nghiêm trọng, làm xôn xao dư luận
quần chúng” [34, tr.109]. Luận án cũng đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng biện pháp bắt người, như: thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam; việc bắt khẩn cấp có thể tạm giữ ngay hay phải chờ VKS phê chuẩn việc bắt
khẩn cấp; khi bắt người phạm tội quả tang nhiều trường hợp rất khó phân biệt được
ngay giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự… Qua nghiên cứu, luận án xác
định có ba nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, vướng mắc và tồn tại trong việc
áp dụng biện pháp bắt người nói riêng và BPNC bắt người, tạm giữ người, tạm giam
người nói chung, đó là: thứ nhất, nguyên nhân thuộc về công tác xây dựng pháp luật
[34, tr.146]; thứ hai, những nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng
các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam [34, tr.148]; thứ ba, những nguyên nhân khách
quan [34, tr.149]. Nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong luận án
này có thể thấy số liệu mà luận án khảo sát đã cũ nên chưa phản ánh được sự thay
đổi, biến động trong thời gian gần đây; ở cấp độ luận án tiến sĩ thì thời gian khảo sát
là ngắn; việc xác định nguyên nhân nêu trên chưa đảm bảo tính khoa học vì nếu chia
ngun nhân thì chỉ có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan… Tuy
nhiên kết quả nghiên cứu của luận án này cũng là tư liệu quan trọng để nghiên cứu
sinh xác định xu hướng áp dụng biện pháp bắt người, làm rõ những tồn tại, thiếu sót
khi áp dụng biện pháp bắt người và nguyên nhân của nó trong luận án của mình.
Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Trọng Phúc, Nxb. Chính
trị Quốc gia xuất bản năm 2015 [51]. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích, đánh
giá thực tiễn áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC nói chung và biện pháp bắt người
nói riêng từ năm 1998 đến năm 2008. Về số liệu đánh giá, tác giả đã khảo sát trong ba
giai đoạn: giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2002; giai đoạn từ năm 2003 đến năm
2008; giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013. Qua đó, tác giả tổng hợp số liệu để xác

13



định cơ cấu các trường hợp bắt người trong tổng thể việc áp dụng biện pháp bắt
người, cụ thể: bắt khẩn cấp chiếm tỷ lệ 26,66%; bắt quả tang chiếm 57,33%; bắt theo
lệnh truy nã và đầu thú chiếm tỷ lệ là 13,82%. Mặc dù hiện nay, trong các báo cáo
công tác bắt, giam giữ hàng năm của CQĐT các cấp đều thống kê số đối tượng đầu
thú chung trong số đối tượng bị bắt truy nã, tuy nhiên nghiên cứu sinh cho rằng để
việc nghiên cứu, so sánh các trường hợp bắt người bảo đảm độ chính xác cần tách
riêng số đối tượng đầu thú khỏi số đối tượng bị bắt. Từ số liệu khảo sát, tác giả
Nguyễn Trọng Phúc đã làm sáng tỏ những tồn tại trong việc áp dụng biện pháp bắt
người, như: bắt người phạm tội quả tang không lập biên bản bắt; việc bắt người đang
bị truy nã không đảm bảo các thủ tục luật định; tình trạng lạm dụng việc bắt người
trong trường hợp khẩn cấp còn kéo dài… Khi xác định nguyên nhân của những tồn tại
này, tác giả Nguyễn Trọng Phúc cho rằng có hai nhóm nguyên nhân: thứ nhất,
nguyên nhân khách quan (từ việc xây dựng văn bản pháp luật TTHS; một số nội dung
của các BPNC chưa rõ nghĩa; sự giám sát của Hội đồng nhân dân và Quốc hội cịn
mang tính hình thức; trang thiết bị, chế độ đối với cán bộ làm công tác điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án, quản lý nơi giam giữ chưa được quan tâm đầy đủ [51,
tr.174]…); thứ hai, nguyên nhân chủ quan (công tác phân loại vụ việc ở cấp cơ sở và
việc đánh giá hồ sơ của ĐTV còn chưa chính xác; ĐTV cịn có tâm lý “bắt thay cho
điều tra” dẫn đến việc lạm dụng biện pháp bắt người; thái độ chấp hành các quy định
của pháp luật TTHS của người có thẩm quyền cịn chưa nghiêm…). Sách chuyên
khảo này nghiên cứu biện pháp bắt người nói riêng và BPNC nói chung dưới góc độ
khoa học luật TTHS, có ý nghĩa lớn cả về mặt thực tiễn, do đó đây là tư liệu khoa học
và thực tiễn để nghiên cứu sinh tham khảo thực hiện luận án của mình, đặc biệt là
những số liệu, đánh giá của tác giả Nguyễn Trọng Phúc từ năm 2009 đến năm 2013.
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn bắt người theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)” của Đào Minh Dũng,
ĐHQG Hà Nội, năm 2017 [27]. Tác giả luận văn đã tổng kết thực tiễn thi hành các
quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về biện pháp bắt người trên địa bàn tỉnh Hải
Dương từ năm 2011 đến năm 2015. Theo đó, từ năm 2011 đến năm 2015, Cơ quan

CSĐT - Công an tỉnh Hải Dương đã bắt 4.912 đối tượng, trong đó: bắt quả tang

14


3.102 đối tượng (chiếm tỷ lệ 63%); bắt tạm giam 1.129 đối tượng (chiếm tỷ lệ
23%); bắt khẩn cấp 612 đối tượng (chiếm tỷ lệ 13%); bắt truy nã 69 đối tượng
(chiếm tỷ lệ 1%). Luận văn cũng đã chỉ ra những sai lầm, vi phạm trong thực tiễn áp
dụng biện pháp bắt người trên địa bàn tỉnh Hải Dương, như: bắt người không đúng
đối tượng; bắt khẩn cấp người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc chưa đủ
chứng cứ; việc bắt khẩn cấp không được CQĐT báo ngay cho VKS cùng cấp mà
tiếp tục tạm giữ đối tượng; việc bắt người phạm tội quả tang không bảo đảm theo
quy định; việc bắt tạm giam chất lượng còn chưa tốt; đồng thời xác định nguyên
nhân dẫn đến những sai lầm, vi phạm trên bao gồm nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan. Mặc dù luận văn thạc sĩ này mới chỉ dừng lại ở việc phân
tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trên phạm vi địa bàn một tỉnh
và trong thời gian 5 năm nhưng đây cũng là cơng trình nghiên cứu chun biệt về
biện pháp bắt người, do đó nghiên cứu sinh sẽ sử dụng một số luận cứ, số liệu trong
luận văn này để phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong
phạm vi địa bàn cả nước.
Ngồi ba cơng trình khoa học tiêu biểu nêu trên còn một số luận văn thạc sĩ đã
nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt người đối với
từng trường hợp bắt người cụ thể, như: luận văn thạc sĩ “Biện pháp bắt người trong
trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Thảo,
ĐHQG Hà Nội, năm 2007 [71]; luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn bắt người
đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt nam” của Trần Quốc Toàn, ĐHQG Hà
Nội, năm 2008 [80]; luận văn thạc sĩ “Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
Luật tố tụng hình sự Việt nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Phạm Thị
Hợp, ĐHQG Hà Nội, năm 2012 [41]; luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn bắt
người phạm tội quả tang trong Luật Tố tụng hình sự Việt nam” của Nguyễn Thị

Huân, ĐHQG Hà Nội, năm 2013 [42];… Các luận văn này mới chỉ phân tích làm rõ
về thực trạng áp dụng một trường hợp bắt người cụ thể do đó chưa có điều kiện so
sánh, đánh giá trong tổng thể việc áp dụng biện pháp bắt người nói chung. Tuy
nhiên, trong luận án của mình, khi phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp
bắt người, nghiên cứu sinh sẽ tham khảo để làm rõ về từng trường hợp bắt người.

15


1.1.1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự
Cùng với thực trạng áp dụng, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp bắt người trong pháp luật TTHS cũng là nội dung nghiên cứu cơ bản trong
nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và sách chuyên khảo. Trong đó, đáng chú ý là
các cơng trình nghiên cứu sau đây:
Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng
hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Nguyễn Văn Điệp,
Đại học Luật Hà Nội, năm 2005 [34]. Trong luận án này, tác giả đã đề xuất bốn nhóm
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam:
Một là, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật [34, tr.166]. Trong giải
pháp này, tác giả kiến nghị sửa đổi cấu trúc điều luật và một số nội dung quy định
về BPNC; đề xuất việc ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện các
quy định về BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong Bộ luật TTHS;
Hai là, giải pháp về tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo đức chủ
thể áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam [34, tr.174]. Đối với giải pháp này, đầu
tiên cần chấp hành nghiêm chỉnh việc bổ nhiệm các chức danh tư pháp, như: ĐTV,
KSV và thẩm phán, đồng thời cần sửa đổi một số quy định cho phù hợp.
Ba là, giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC trong TTHS [34, tr.178]. Để thực hiện giải pháp
này, tác giả đề nghị VKS nhân dân tối cao phối hợp với BCA xây dựng Quy chế

phối hợp giữa ngành Kiểm sát và ngành Công an trong việc áp dụng biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam. Hàng năm, cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp với nhau để
tập huấn những quy định của pháp luật TTHS có liên quan đến BPNC bắt, tạm giữ,
tạm giam cho cán bộ của cơ quan mình. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm đầu
tư cơ sở vật chất cho các cơ sở giam giữ.
Bốn là, giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm [34, tr.179]. Theo đó,
cần quán triệt đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm pháp lý của những người tiến hành tố
tụng trong việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam.
Các giải pháp nêu trên sẽ được nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình thực
hiện luận án của mình, tuy nhiên có thể thấy các giải pháp này cũng chưa đầy đủ,

16


cần phải được bổ sung thêm, như: cần có giải pháp riêng về bảo đảm cơ sở vật chất,
trang thiết bị cần thiết phục vụ việc áp dụng biện pháp bắt người và chế độ chính
sách đối với ĐTV; tăng cường hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT với các
đơn vị khi áp dụng biện pháp bắt người...
Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc,
Nxb. Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2015 [51]. Tác giả Nguyễn Trọng Phúc cũng
kiến nghị bốn nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định các BPNC
trong pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, giải pháp lập pháp [51, tr.206]. Trong nhóm giải pháp này, tác giả
xác định ba nhóm giải pháp, cụ thể: nhóm giải pháp lập pháp theo hướng hạn chế áp
dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và chỉ áp dụng khi có căn cứ [51, tr.206];
nhóm giải pháp lập pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC khác [51, tr.212];
nhóm giải pháp lập pháp đối với các BPNC trong những Hiệp định tương trợ tư
pháp và pháp lý [51, tr.213].
Thứ hai, giải pháp áp dụng pháp luật [51, tr.214]. Trong đó, tác giả đặt ra giải

pháp áp dụng pháp luật đối với các chủ thể có thẩm quyền liên quan đến việc áp
dụng BPNC như đối với CQĐT, VKS, Tòa án và người quản lý trại tạm giam.
Thứ ba, giải pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ [51,
tr.216]. Để thực hiện nhóm giải pháp này, tác giả cho rằng cần thực hiện các nội
dung cơ bản sau: cần xác định cho ĐTV tư tưởng “trọng chứng hơn trọng cung”; tổ
chức cho cán bộ điều tra, ĐTV nghiên cứu, học tập các quy định của Bộ luật TTHS
năm 2003 về biện pháp bắt người; bồi dưỡng những kiến thức pháp luật căn bản cho
Công an cấp cơ sở như kiến thức về các loại vi phạm pháp luật, kiến thức về biên
bản tố tụng, kiến thức pháp luật về quản lý các đối tượng bị áp dụng BPNC bảo lĩnh,
cấm đi khỏi nơi cư trú.
Thứ tư, các giải pháp khác [51, tr.220], như: tăng cường cơ sở vật chất bảo
đảm cho việc tạm giữ, tạm giam; tăng cường sự giám sát của xã hội và nhân dân đối
với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS nói chung và BPNC nói riêng…
Các giải pháp mà tác giả Nguyễn Trọng Phúc đưa ra cũng khá toàn diện, tuy
nhiên xét về mặt khoa học, theo nghiên cứu sinh việc đưa ra các giải pháp khác

17


(nhóm thứ tư) là q rộng và khơng thể hiện được nội hàm cơ bản của giải pháp.
Tuy nhiên, đây cũng là cơng trình khoa học sẽ giúp cho nghiên cứu sinh có cơ sở để
đề xuất các giải pháp trong luận án của mình.
Sách chuyên khảo “Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - Những
vấn đề về lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Duy Thuân, Nxb. CAND xuất bản năm
1999 [74]. Trước khi đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC, tác
giả cuốn sách đã làm rõ khái niệm hiệu quả của BPNC: “Hiệu quả của các biện pháp
ngăn chặn là mối tương quan giữa kết quả thu được do việc áp dụng các biện pháp
này và mục đích mà luật quy định cần phải đạt được khi áp dụng chúng” [74,
tr.123]. Do đó, tác giả Nguyễn Duy Thuân cho rằng để nâng cao hiệu quả áp dụng
BPNC cần giải quyết đúng đắn hai nội dung cơ bản: “Xây dựng hệ thống quy phạm

về các BPNC khoa học, phù hợp với tình hình đặc điểm nước ta trong thời kỳ đổi
mới hiện nay và từng bước nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng các biện pháp
ngăn chặn” [74, tr.123]. Từ đó, theo tác giả Nguyễn Duy Thuân cần tập trung vào
các giải pháp sau: nâng cao trình độ cho ĐTV, KSV, Thẩm phán [74, tr.124]; đề cao
trách nhiệm cá nhân trong việc áp dụng các BPNC [74, tr.125]; hoàn thiện cơ chế
giám sát, kiểm tra đối với hoạt động áp dụng BPNC [74, tr.126]; xử lý nghiêm
minh, kịp thời những vi phạm trong áp dụng BPNC [74, tr.130]; xây dựng cơ chế
quản lý các đối tượng bị áp dụng BPNC [74, tr.130]. Có thể nói, kết quả nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Duy Thuân về giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC
đã cung cấp những luận cứ quan trọng để nghiên cứu sinh làm rõ các giải pháp trong
luận án của mình, trong đó có việc đưa ra khái niệm hiệu quả áp dụng biện pháp bắt
người trong TTHS.
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn bắt người theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)” của Đào Minh Dũng,
ĐHQG Hà Nội, năm 2017 [27]. Trong luận văn này, tác giả đã xác định năm giải
pháp bảo đảm thi hành đúng biện pháp bắt người, như: triển khai thi hành quy định
của Bộ luật TTHS năm 2015 về BPNC bắt người [27, tr.80]; tăng cường cơ chế phối
hợp trong việc thi hành BPNC bắt người theo pháp luật TTHS [27, tr.84]; tăng
cường công tác kiểm sát trong việc thi hành BPNC bắt người [27, tr.86]; nâng cao
năng lực của đội ngũ cán bộ có thẩm quyền [27, tr.87]; một số giải pháp khác [27,

18


×