Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.45 KB, 23 trang )

Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free
Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong
khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ
dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hịa hóa thủ tục hải
quan giữa các nước.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA đượcđược ký kết vào
năm
1992
tại
Singapore.
Ban
đầu
chỉ

sáu
nước
là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là
ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV)
được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này.
Sự ra đời của AFTA:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong mơi
trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước
những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu khơng có sự liên kết chặt chẽ hơn và những
nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
i). Q trình tồn cầu hố kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất
đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế.
ii). Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU,
NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN
khi thâm nhập vào những thị trường này.
iii). Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng


rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông
Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải
mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992 , theo sáng kiến của Thái lan, Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu
dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.


Mục tiêu của AFTA:
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
i)
Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các
hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi
quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN
càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hố từ những nhà sản
suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong
thương mại nội khối.
ii)
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo
ra một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
iii)
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc
tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại
khu vực (RTA) trên thế giới.


Tóm lược về q trình tham gia FTAs của Việt Nam


Tính đến nay, Việt Nam chưa ký kết và triển khai FTA riêng với nước nào. Tuy nhiên,
Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 3 hiệp định FTAs là Hiệp định
Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA).

Việt Nam và ASEAN hiện đã kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP). Các Hiệp đinh Thương mại Tự do ASEAN-AustraliaNew Zealand (AANZFTA) và ASEAN-Ấn Độ (AIFTA) hiện đã kết thúc đàm phán và
được ký vào cuối năm 2008. Riêng Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN – EU
hiện đang tiếp tục đàm phán. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang cùng Nhật Bản đàm phán
một Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện, hiệp định FTA song phương đầu tiên của Việt
Nam và đang xem xét đàm phán một FTA song phương với Chi-lê.
Dưới đây xin khái quát lại những mốc thời gian quan trọng trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, bao gồm cả việc tham gia đàm phán FTA trong
khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN với các nước ngoài khối:
Năm 1986: Việt Nam bắt đầu chính sách Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
sang nền kinh tế thị trường, thiết lập nền tảng cho quá trình cải tổ kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Năm 1994: Việt Nam đệ đơn xin gia nhập GATT và năm 1995 tái khẳng định quyết tâm
đàm phán gia nhập WTO.
Năm 1995: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Năm 1996: Việt Nam tham gia Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung
(CEPT) trong khuôn khổ AFTA của ASEAN. Năm 1996 cũng là năm Việt Nam trở thành
thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM).


Năm 1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC)
Năm 2002: Cùng ASEAN khởi động đàm phán ACFTA với Trung Quốc.
Năm 2003: Chương trình Thu hoạch sớm (Early Harvest) trong khn khổ ACFTA chính
thức được triển khai.

Năm 2003: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Ấn Độ (AIFTA) và Nhật Bản
(AJFTA)
Năm 2004: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Hàn Quốc (AKFTA), Australia và
New Zealand (AANZ FTA).
Năm 2006: Được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Năm 2007: Cùng ASEAN khởi động đàm phán FTA với EU và khởi động đàm phán FTA
song phương với Nhật Bản.
Năm 2008: khởi động đàm phán FTA song phương với Chi-lê.


A. Những thách thức và những cơ hội của Việt nam tham gia vào AFTA:
Thuận lợi :
- Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê suất ưu đãi thấp
hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành cho các nước thành viên
WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng hố Việt nam có thể thâm nhập thị
trường của tất cả các nước thành viên ASEAN.
- Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong nội bộ khối ,
khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song phương và
đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn
như Mỹ, nhật, EU hay WTO..
- Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh vực
mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh trong
xuất khẩu nơng sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt
hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên thế giới.
- Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh so với các
nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả
rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
- Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ
thuật cao trong khu vực


Khó khăn :
- Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu
giảm.
- Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là
xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp
phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực :
cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và
phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi
cơ cấu kinh tế.
Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam.


Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh
tranh hơn.


Các Quan hệ kinh tế chính của ASEAN với các quốc gia khác
Trung Quốc-ASEAN
1/ Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN là chỉ khu vực mậu dịch tự do giữa
Trung Quốc và 10 nước ASEAN, tức 10+1.
2/ Việc đề xuất thành lập Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN:
Tháng 9-2000, tại Hội nghị cấp cao Trung Quốc-ASEAN lần thứ 4 diễn ra tại Xin-ga-po,
Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã nêu ra sáng kiến thành lập Khu vực mậu dịch tự
do Trung Quốc-ASEAN, nhận được sự hoan nghênh và đồng thuận của các nước
ASEAN. Tháng 11-2001, tại Hội nghị cấp cao ASEAN diễn ra tại Bru-nây, Trung Quốc
và 10 nước thành viên ASEAN tuyên bố sẽ xây dựng Khu vực mậu dịch tự do Trung
Quốc-ASEAN trong 10 năm tới. Ngày 4-11-2002, Hội nghị cấp cao Trung Quốc-ASEAN
lần thứ 6 diễn ra tại Thủ đô Nông-pênh của Cam-pu-chia. Thủ tướng Trung Quốc Chu
Dung Cơ và các nhà Lãnh đạo của 10 nước ASEAN đã ký kết "Hiệp định khung hợp tác

kinh tế toàn diện Trung Quốc-ASEAN", tuyên bố sẽ hoàn thành xây dựng Khu vực mậu
dịch tự do Trung Quốc-ASEAN vào năm 2010, từ đó chính thức khởi động tiến trình xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN.
3/ Mục tiêu của Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN:
Một là, hoàn thành việc cắt giảm thuế quan và phi thuế quan trong vòng 10 năm, loại trừ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa hai bên. Hai là, xây dựng một khuôn khổ
chung, bao gồm một loạt biện pháp về nhất thể hoá thị trường. Ví dụ như xúc tiến đầu tư,
tiện lợi hóa thương mại, thương mại hài hoà cũng như nguyên tắc và tiêu chuẩn đầu tư.
4/ Tầm quan trọng của Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN:
Xây dựng Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN là một bước đi lịch sử trong tiến
trình hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN. Việc này đã phản ánh đầy đủ nguyện vọng tốt
đẹp mong muốn tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị của Lãnh đạo hai bên, cũng thể
hiện lên sự liên kết kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN không ngừng được tăng cường,
là một cột mốc mới trong phát triển quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN.
Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN hoàn thành xây dựng sẽ tạo ra một thị
trường rộng lớn với 1,9 tỷ người tiêu dùng, GDP tiếp cận 6000 tỷ USD và giao lưu
thương mại đạt tới 1200 tỷ USD. Nếu tính theo dân số, đây sẽ là khu vực mậu dịch tự do


lớn nhất trên thế giới; về quy mô kinh tế cũng đứng thứ 3 thế giới chỉ sau Liên minh châu
Âu và Bắc Mỹ, và là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất trong các nước đang phát triển.
5/ Tiến trình phát triển của Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN:
Từ năm 1995-2002, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và ASEAN tăng
trung bình 15%/năm. Năm 2003 đạt mức kỷ lục 78,2 tỷ USD, tăng 42,9% năm 2002.
Ngày 1-1-2004, Chương trình thu hoạch sớm của Khu vực mậu dịch tự do Trung QuốcASEAN chính thức thực thi, thuế suất hàng nông sản đã giảm mạnh, đến năm 2006 có
khoảng 600 mặt hàng nơng sản có mức thuế suất 0%.
Cuối năm 2004, hai bên đã ký kết "Hiệp định thương mại hàng hoá" và "Hiệp định về cơ
chế giải quyết tranh chấp", đánh dấu việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do bước vào
giai đoạn thực chất.
Tháng 4-2005, trong chuyến thăm các nước Bru-nây, In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin, Chủ tịch

Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đề xuất đến năm 2010, nâng kim ngạch thương mại hai
chiều giữa Trung Quốc và ASEAN lên tới 200 tỷ USD.
Ngày 20-7-2005 bắt đầu thực thi chương trình giảm thuế của "Hiệp định thương mại hàng
hoá" Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN, có 7000 mặt hàng giữa hai bên đã
giảm thuế suất mới mức lớn, đi vào thị trường đối phương một cách thuận tiện hơn trong
khi xoá bỏ hạn ngạch và điều kiện thâm nhập thị trường được cải thiện đáng kể. Việc này
có lợi cho sản phẩm của các nước ASEAN đi vào thị trường Trung Quốc, cũng góp phần
cho doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu nguyên vật liệu, linh phụ kiện và thiết bị từ các
nước ASEAN với giá thành rẻ hơn.
Ngày 15-8-2009, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế-Thương mại Trung Quốc-ASEAN lần thứ 8
diễn ra tại Thủ đô Băng Cốc của Thái Lan. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức
Minh và Bộ trưởng Kinh tế-Thương mại của 10 nước ASEAN đã ký kết "Hiệp định đầu
tư Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN". Việc này đánh dấu hai bên đã hoàn
thành các đàm phán quan trọng của Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do, Khu vực mậu
dịch tự do Trung Quốc-ASEAN sẽ hoàn thành toàn diện vào năm 2010.
Theo "Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện Trung Quốc-ASEAN" ký kết năm 2002,
ngồi một số ít sản phẩm ra, Trung Quốc và 6 nước thành viên cũ của ASEAN tương đối
phát triển và 4 nước thành viên mới sẽ thực hiện thuế quan không phần trăm vào năm
2010 và 2015, liên quan tới hơn 7000 mặt hàng.


Ngày 1-1-2010, Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN sau khi hoàn thành xây
dựng sẽ tạo ra cơ hội thương mại vô tận và tương lai phát triển rộng lớn cho Trung Quốc
và các nước ASEAN


ASEAN-HÀN QUỐC

Xác định tầm quan trọng của việc tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước
ASEAN và Hàn Quốc, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Hàn Quốc ngày 13 tháng 12

năm 2004 tại Viên Chăn, Lào, các nhà lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc đã ký Tuyên
bố chung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc với mục tiêu
thiết lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) trong các lĩnh vực
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư. Các cuộc đàm phán về
AKFTA sẽ được bắt đầu trong năm 2005 và hoàn thành trong thời hạn hai năm.
Để tiến hành các cuộc đàm phán về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc
theo quyết định của Lãnh đạo cấp cao, các nước ASEAN và Hàn Quốc đã thành lập Uỷ
ban đàm phán thương mại ASEAN-Hàn Quốc (AKTNC). Sau một năm đàm phán,
AKTNC đã thỏa thuận xong các nội dung cơ bản và ngày 13 tháng 12 năm 2005, các nhà
Lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc đã ký kết Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện
giữa ASEAN và Hàn Quốc tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ quan hệ hợp tác kinh tế giữa
ASEAN và Hàn Quốc cũng như việc thiết lập Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn
Quốc. Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã thay mặt Chính phủ Cộng hồ Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định này.
Nội dung cơ bản của Hiệp định khung:
Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện đã được ASEAN và Hàn Quốc thống nhất
dựa trên cơ sở Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện đã được ký kết giữa
ASEAN và Trung Quốc, trong đó quy định các mục tiêu, nguyên tắc đàm phán AKFTA
đối với thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, các nội dung hợp tác kinh tế
và các vấn đề thực thi.
Hiệp định khung gồm 5 Chương, 19 Điều với Phụ lục về Hợp tác kinh tế kèm theo.
Ngoài ra, Hiệp định về Thương mại hàng hoá, Hiệp định về Thương mại Dịch vụ, Hiệp
định về Đầu tư, Hiệp định về Cơ chế giải quyết tranh chấp và các hiệp định khác về
AKFTA có thể được thỏa thuận và ký kết giữa các Bên là phần không tách rời của Hiệp
định khung kể từ ngày từng văn bản này có hiệu lực. Một số điểm đáng chú ý trong nội
dung của Hiệp định khung như sau:
Đưa ra các định nghĩa, các nước ASEAN muốn xác định rõ đối tác là Hàn Quốc với ngụ
ý là trong trường hợp 2 miền Triều Tiên thống nhất thì phải đàm phán lại AKFTA chứ
Bắc Triều Tiên khơng được mặc nhiên hưởng lợi ích của AKFTA.
Trong các biện pháp hợp tác kinh tế toàn diện, các bên đã xác định rõ việc dành đối xử

đặc biệt và khác biệt (cho các nước đang phát triển) đối với các nước ASEAN và các linh
hoạt hơn nữa đối với các nước ASEAN mới (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam).


Theo điều khoản này, Hàn Quốc đã chấp nhận có các cam kết cao hơn và được thực hiện
nhanh hơn các nước ASEAN.
Về các lĩnh vực tự do hoá, các bên xác định sẽ bắt đầu đàm phán từ đầu năm 2006 với
mục tiêu hoàn tất Hiệp định về Thương mại dịch vụ và Hiệp định về Đầu tư trong năm
2006.
Hợp tác kinh tế là một trong những nội dung quan trọng và nổi bật của Hiệp định. So với
Hiệp định khung ASEAN – Trung Quốc, các nội dung hợp tác trong AKFTA không chỉ
đa dạng hơn về lĩnh vực hợp tác mà còn tương đối cụ thể. Các nước ASEAN đã yêu cầu
Hàn Quốc tăng cường hợp tác kinh tế vì cho rằng việc tự do hóa trong khn khổ
AKFTA sẽ mang lại lợi ích cho Hàn Quốc nhiều hơn các nước ASEAN và hợp tác kinh
tế là sự bù đắp phần nào lợi ích cho các nước ASEAN. Các nội dung hợp tác cụ thể gồm:
Thủ tục hải quan; Xúc tiến thương mại và đầu tư; Doanh nghiệp nhỏ và vừa; Quản lý và
phát triển nguồn nhân lực; Du lịch; Khoa học và công nghệ; Dịch vụ tài chính; Cơng
nghệ thơng tin và viễn thơng; Nơng nghiệp, ngư nghiệp, chăn ni, cây trồng và lâm
nghiệp; Sở hữu trí tuệ; Cơng nghiệp mơi trường; Phát sóng; Cơng nghệ xây dựng; Tiêu
chuẩn, hợp chuẩn và các biện pháp kiểm dịch động thực vật; Khai mỏ; Năng lượng; Tài
nguyên thiên nhiên; Đóng tàu và vận tải biển; và Phim ảnh.
Nội dung hợp tác chủ yếu là: trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn,
thực tiễn họat động; tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn, hội thảo, tọa đàm; các chương
trình, dự án nghiên cứu, thử nghiệm chung; các chương trình, họat động hỗ trợ kỹ thuật,
nâng cao năng lực; trao đổi chuyên gia, đào tạo cán bộ...Đối với một số lĩnh vực nhạy
cảm, các bên quy định rõ việc tham gia hợp tác của từng nước dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, đồng thuận, không cản trở các tiến trình hợp tác/tự do hóa khác và vì lợi ích và
quan tâm của tất cả các Bên.
Các chương trình xây dựng năng lực và trợ giúp kỹ thuật nhấn mạnh việc hỗ trợ nhiều
hơn cho các nước ASEAN mới nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế,

kể cả bằng việc tăng cường hợp tác tiểu vùng.
Ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định khung:
Về mặt chính trị, việc ký kết Hiệp định khung giữa ASEAN - Hàn Quốc đánh dấu một
mốc quan trọng trong quá trình xây dựng mối quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa
ASEAN và Hàn Quốc, tiến tới xây dựng Khu vực Thương mại tự do ASEAN - Hàn
Quốc trong tương lai nhằm tạo lập một không gian kinh tế ổn định và năng động phục vụ
phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc tế, việc ký kết Hiệp định cũng tạo ra thế và lực
mới của ASEAN trong quan hệ với Hàn Quốc và với các đối tác kinh tế quan trọng khác
như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, EU và Hoa Kỳ.
Đối với Việt Nam, việc ký kết và thực hiện Hiệp định khung ASEAN - Hàn Quốc đã đưa
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc lên một tầm cao mới, tạo lập nền tảng vững
chắc hơn cho quan hệ song phương, đồng thời mở ra nhiều cơ hội và hướng hợp tác mới
giữa hai nước trong tương lai.
Về mặt kinh tế, việc thiết lập Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc chắc chắn
sẽ đem lại những lợi ích đáng kể cho các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Việt Nam.


Đến năm 2010, Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc sẽ căn bản trở thành một
thị trường khu vực mậu dịch rộng mở, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư
trong khu vực. Việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế theo Hiệp định sẽ tạo
sức ép, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy các nước tham gia Hiệp định triển khai các biện
pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng cường hiệu quả và tính cạnh tranh của nền
kinh tế.
Bên cạnh những lợi ích kinh tế rõ rệt, Việt Nam tham gia vào Khu vực Thương mại tự do
ASEAN-Hàn Quốc cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Mức nhập
siêu của nước ta với Hàn Quốc luôn duy trì ở mức cao trong suốt nhiều năm qua có thể
sẽ cịn tăng thêm trong thời gian đầu thực hiện AKFTA. Giống như trong các Khu vực
Thương mại tự do khác, như AFTA hay ACFTA, ASEAN gồm các nền kinh tế có cơ cấu
và trình độ phát triển khác biệt nên lợi ích của AKFTA sẽ khơng san đều cho mọi thành
viên. Những nước phát triển hơn trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan,

Philippines sẽ là những nước có nhiều cơ hội hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh từ
AKFTA nhờ có nền tảng cơng nghiệp tiên tiến. Các nước thành viên mới, trong đó có
Việt Nam, chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức bên cạnh những lợi ích thu
được từ Khu vực Thương mại tự do này.


Hiệp định AJCEP – Cơ hội cho các nhà doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản

Ngày 01/4/2008, Bộ trưởng Bộ Cơng Thương Việt Nam đã thay mặt Chính phủ ký
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản trước sự chứng kiến của
Đại Sứ Nhật Bản và đại diện sứ quán của các nước ASEAN tại Việt Nam, đại diện
các Bộ, ngành hữu quan. Hiệp định chính thức có hiệu lực đối với Nhật Bản và một
số nước ASEAN (trong đó có Việt Nam) vào ngày 01 tháng 12 năm 2008.
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) là hiệp định toàn diện,
chứa đựng các quy tắc căn bản về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và
các hoạt động hợp tác kinh tế khác. Trong đó, quan trọng nhất là các cam kết về lộ trình
giảm thuế, tiến tới loại bỏ phần lớn thuế nhập khẩu giữa các nước ASEAN và Nhật Bản.
Theo kế hoạch, đến năm 2018, ASEAN và Nhật Bản cơ bản trở thành một khu vực
thương mại tự do về hàng hoá.
Theo hiệp định này, ta cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị nhập khẩu từ Nhật
Bản trong 16 năm và 69% giá trị nhập khẩu trong vòng 10 năm. Đổi lại, Nhật Bản loại
bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị nhập khẩu từ Việt Nam trong vịng 10 năm. Ngay
khi Hiệp định có hiệu lực, Nhật Bản ngay lập tức loại bỏ thuế quan đối với 7287 dòng
thuế, tương đương 80% biểu thuế.
Với Việt Nam, nhờ đặc điểm quan trọng là tính bổ trợ mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế của
hai nước, quan hệ đầu tư và thương mại của hai nước hầu như không tạo ra cạnh tranh
đối đầu. Nhật Bản là nước nhập siêu lớn về nông sản và các mặt hàng công nghiệp tiêu
dùng như dệt may, giày da, thực phẩm chế biến trong khi Việt Nam lại là nước có lợi thế
xuất khẩu các sản phẩm này. Ngược lại, với ưu thế về vốn và công nghệ, Nhật Bản là
nguồn cung ứng thiết bị, công nghệ, nguyên liệu cho sản xuất và vốn đầu tư rất cần thiết

cho nước ta trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay. Trong bối cảnh
đó, AJCEP là một xúc tác quan trọng, thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư giữa Nhật
Bản và Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản đang tăng
trưởng đều đặn, đạt mức trung bình trên 20%. Nếu như năm 2003, kim ngạch hai chiều
mới là xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ thì đến năm 2007, con số này đã gấp đôi, đạt 12 tỷ đô la Mỹ.
Cán cân thương mại luôn ở mức cân bằng, nhiều năm Việt Nam cịn có xuất siêu, ví
dụ năm 2005-2006 ta xuất siêu trên 300 triệu đô la Mỹ/năm. Năm 2007, Nhật Bản là thị
trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam với kim ngạch đạt 6,07 tỷ đô la Mỹ, chỉ đứng
sau thị trường Hoa kỳ (khoảng 10 tỷ đô la Mỹ). Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Nhật Bản dự kiến đạt 8,5 tỉ USD, tăng 31,6% so với năm 2007. Thị


trường này hiện chiếm khoảng 11,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Cơ hội lớn nhất của Việt Nam là khả năng khai thác tối đa ưu thế xuất khẩu đối với mặt
hàng nơng thuỷ sản. Trong vịng 10 năm, Nhật Bản cam kết giảm và loại bỏ thuế quan
đối với trên 81% giá trị xuất khẩu nông thuỷ sản. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu như
tôm, cá, cua đông lạnh và chế biến, rau quả nhiệt đới, các sản phẩm gỗ sẽ hưởng mức
thuế ưu đãi thấp hơn nhiều so với mức thuế hiện hành. Chỉ tính riêng mặt hàng thuỷ sản,
61 mặt hàng chiếm 70% giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế
nhập khẩu 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực và 144 mặt hàng chiếm 83% giá trị xuất
khẩu sẽ khơng cịn chịu thuế nhập khẩu trong vịng 10 năm. Cùng với lợi ích nhờ giảm
thuế, hàng nơng thuỷ hải sản của Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường Nhật Bản
thuận lợi hơn một khi chương trình hợp tác về vệ sinh, an toàn thực phẩm được triển
khai theo đúng mục tiêu.
Nhiều mặt hàng công nghiệp mà ta có lợi thế xuất khẩu cũng phát huy được lợi ích. Cụ
thể, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 95% số dòng thuế chiếm đến 94,5% giá trị xuất
khẩu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản sẽ có mức thuế 0%.
Trong thời gian 10 năm, 98% số dòng thuế chiếm 98% giá trị thương mại các sản phẩm
công nghiệp của Việt Nam sẽ không bị áp thuế nhập khẩu. Mặt hàng có cơ hội nhiều nhất

nhờ AJCEP của Việt Nam là giày dép, may mặc, thiết bị điện tử, dây dẫn điện, đồ sứ vệ
sinh, đồ gỗ.
Đối với hoạt động nhập khẩu, Việt Nam mở cửa thị trường cho nhiều mặt hàng công
nghiệp, hàng công nghệ cao, do vậy các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận các
máy móc, thiết bị, nguyên liệu chất lượng cao từ Nhật Bản để phục vụ cho hoạt động sản
xuất, đầu tư. Cùng với dòng đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản tại Việt Nam đang ngày một gia
tăng, việc giảm thuế trong các nhóm hàng nguyên vật liệu, thiết bị sẽ là động lực quan
trọng để các doanh nghiệp Nhật Bản mở rộng đầu tư tại Việt Nam.

Việc nâng cao sự hiểu biết, kiến thức về Hiệp định này là hết sức cần thiết để các doanh
nghiệp có thể tận dụng tốt cơ hội thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, qua đó, góp phần
nâng cao kim ngạch xuất khẩu, giảm nhập siêu, cũng như kích thích nhu cầu sản xuất để
xuất khẩu của nền kinh tế, và điều này sẽ đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn suy thối
tồn cầu hiện nay./.


ASEAN và Ấn Độ đạt thỏa thuận mậu dịch tự do

FTA đạt được với Ấn Độ là hiệp ước thứ tư sau Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc”,
ơng Surin nói và tỏ ra lạc quan rằng những cuộc đàm phán tương tự với Úc và New
Zealand rồi cũng sẽ gặt hái kết quả trong những tháng tới.
NCIEC- Sau 3 năm nỗ lực đàm phán, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
cuối cùng đã đạt đến hiệp ước mậu dịch tự do (FTA) với Ấn Độ vào thứ Năm, 7-8.
“Tôi được thông báo rằng ASEAN và Ấn Độ đã chốt lại các cuộc đàm phán về FTA vào
sáng nay. Việc này sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác giữa 1 tỉ dân của Ấn Độ với 567 triệu
dân của chúng ta”, Tổng thư ký ASEAN, Surin Pitsuwan, trả lời hãng thông tấn Bernama
bên lề hội nghị các bộ trưởng năng lượng ASEAN đang diễn ra tại Malaysia. Ông Surin
cho biết vấn đề bấy lâu cản trở tiến trình thỏa thuận, liên quan đến nông sản nhập khẩu từ
các nước thành viên ASEAN, cuối cùng đã được giải quyết.
Các quan chức kinh tế cao cấp của ASEAN (SEOM) đã gặp phái đoàn Ấn Độ tại cuộc hội

đàm ASEAN-Ấn Độ trong khuôn khổ hội nghị SEOM lần thứ 39 tổ chức ở Brunei.
ASEAN và Ấn Độ đã ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện vào tháng 10-2003,
dự định kết thúc đàm phán vào tháng 6-2006 và thỏa thuận mậu dịch tự do sẽ có hiệu lực
từ ngày 1-1-2007.
Tuy nhiên, những vướng mắc về vấn đề nông sản đã ngăn cản tiến trình, Ấn Độ từ chối
giảm thuế nhập khẩu dầu cọ, tiêu, trà và cà phê trong khi các thành viên ASEAN, nhất là
Indonesia và Malaysia, yêu cầu được mở rộng đường xuất khẩu dầu cọ vào nước này.
Giai đoạn đầu, Ấn Độ đưa ra một danh sách đặc cách gồm 1.414 sản phẩm nhằm bảo hộ
ngành dệt may và nông nghiệp trong nước nhưng sau giảm xuống còn 560 sản phẩm.
Thương mại giữa Ấn Độ và ASEAN đạt gần 20 tỉ đô la Mỹ vào năm ngối và dự kiến
tăng đến 30 tỉ đơ la vào năm 2010.
“FTA đạt được với Ấn Độ là hiệp ước thứ tư sau Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc”, ông
Surin nói và tỏ ra lạc quan rằng những cuộc đàm phán tương tự với Úc và New Zealand
rồi cũng sẽ gặt hái kết quả trong những tháng tới.
Ngày 8-8, ASEAN kỷ niệm 41 năm thành lập. Hiệp hội 10 nước Đơng Nam Á đang
hướng tới hình thành một thị trường thống nhất như liên minh châu Âu (EU), gọi là Cộng
đồng Kinh tế ASEAN, vào năm 2015


Ký kết Hiệp định thành lập Khu vực Thương mại tự do ASEAN -Úc – New Zealand

Ngày 27 tháng 2 năm 2009, tại Thái Lan, Bộ trưởng Kinh tế các nước ASEAN và
CER (Úc và Niu-di-lân) đã ký kết Hiệp định thành lập Khu vực Thương mại tự do
ASEAN -Úc - Niu-di-lân (Hiệp định AANZFTA) sau 6 tháng kể từ khi các Bộ
trưởng tuyên bố kết thúc đàm phán giữa hai bên tại Singapo ngày 28 tháng 8 năm
2008.
Việc ký kết Hiệp định AANZFTA diễn ra đúng vào thời điểm đang có nhiều mối quan
ngại về tình hình kinh tế tồn cầu. Trong bối cảnh này, Hiệp định AANZFTA có thể được
xem như là một phản ứng của khu vực đối với cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đang
diễn ra. Các Bộ trưởng tin tưởng rằng Hiệp định AANZFTA không chỉ đem lại một nền

tảng vững chắc cho ASEAN, Úc, Niu-di-lân sát cánh bên nhau hướng tới một sự phát
triển và tăng trưởng bền vững, từ đó tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, mà cịn góp
phần thúc đẩy Nghị trình phát triển Doha của WTO và củng cố hơn nữa hệ thống thương
mại đa phương.
Các Bộ trưởng ghi nhận rằng Hiệp định AANZFTA là Hiệp định thương mại đầu tiên
giữa khu vực và khu vực cho cả ASEAN, Úc và Niu-di-lân. Đây là Hiệp định thương mại
tự do thứ tư mà ASEAN ký kết với các đối tác (sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ) và
là Hiệp định đầu tiên mà Úc và Niu-di-lân cùng tham gia đàm phán với các nước khác.
Với quy mô gồm 8 chương kèm theo các lịch trình cam kết cụ thể, Hiệp định AANZFTA
bao quát các lĩnh vực như thương mại hàng hoá, dịch vụ (bao gồm dịch vụ tài chính và
viễn thơng), thương mại điện tử, di chuyển của thể nhân, đầu tư, cơ chế giải quyết tranh
chấp và các điều khoản cụ thể trong các lĩnh vực khác như: các biện pháp kiểm dịch
động thực vật, tiêu chuẩn, các quy định kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp, sở hữu
trí tuệ và cạnh tranh. Hiệp định cũng bao gồm một chương về hợp tác kinh tế nhằm cung
cấp một khung khổ cho hợp tác liên quan đến thương mại và đầu tư. Theo đó, các bên ký
kết một Thoả thuận thực hiện Chương trình hợp tác kinh tế 5 năm để hỗ trợ việc thực thi
Hiệp định AANZFTA liên khu vực.
Thông qua Hiệp định AANZFTA, ASEAN, Úc và Niu-di-lân đã tạo nên một khu vực
thương mại tự do trên 600 triệu dân với tổng GDP đạt khoảng 2,3 nghìn tỷ đơ la Mỹ năm
2007 và 2,7 nghìn tỷ đơ la Mỹ năm 2008 theo số liệu của IMF. Thương mại khu vực
ASEAN-Úc-Niu-di-lân đang tăng trưởng trung bình khoảng 16%/năm kể từ khi bắt đầu
đàm phán FTA vào năm 2005. Đầu tư của Úc và Niu-di-lân vào khu vực ASEAN đã lên
tới 1,1 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007. Với việc tự do hoá thương mại và đầu tư theo Hiệp
định AANZFTA, các Bộ trưởng tin tưởng rằng thương mại và đầu tư trong khu vực sẽ
tăng trưởng hơn nữa trong thời gian tới. Hiện Úc và Niu-di-lân là đối tác thương mại lớn
thứ 6 của ASEAN còn ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ hai của Úc và lớn thứ 3 đối
với Niu-di-lân.


Hiệp định AANZFTA mở ra một loạt cơ hội kinh doanh mới cho 2 khu vực. Không chỉ

mở cửa thị trường, Hiệp định AANZFTA còn đem lại sự minh bạch và ổn định hơn cho
các công ty đang kinh doanh trong khu vực. Các Bộ trưởng khuyến khích các nhà đầu tư
và kinh doanh tận dụng các cơ hội này và hiện thực hố những lợi ích tiềm năng của
Hiệp định AANZFTA. Các Bộ trưởng cũng coi Hiệp định AANZFTA như là một chất
xúc tác quan trọng cho việc củng cố và thúc đẩy hội nhập khu vực – không chỉ trong khu
vực Đông Á mà cả trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Các Bộ trưởng nhất trí đẩy nhanh việc hoàn tất các thủ tục trong nước để Hiệp định
AANZFTA sớm có hiệu lực. Các Bộ trưởng lưu ý rằng Hiệp định AANZFTA sẽ có hiệu
lực vào thời điểm 60 ngày sau khi Úc và Niu-di-lân, và ít nhất 4 thành viên ASEAN
thơng báo hồn thành q trình phê chuẩn Hiệp định này.
Các Bộ trưởng cũng đại diện cho các Chính phủ khẳng định rằng các cam kết sẽ được
thực thi đúng thời hạn. Các Bộ trưởng nhấn mạnh rằng lợi ích thu được từ Hiệp định
AANZFTA chỉ có thể được tối đa hố nếu các cam kết được thực thi kịp thời. Hướng tới
mục tiêu này, các Bộ trưởng nhất trí về việc cần phải nhanh chóng thiết lập một hệ thống
hỗ trợ quản lý và thực thi Hiệp định AANZFTA.
Các Bộ trưởng ASEAN cũng hoan nghênh việc Úc và Niu-di-lân cơng nhận Việt Nam có
nền kinh tế thị trường và một lần nữa khuyến khích các đối tác thương mại khác của
ASEAN công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường
HIỆP ĐỊNH VỀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CÓ HIỆU LỰC CHUNG (CEPT-AFTA):
A. Các Quy định chung của Hiệp định CEPT:
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN cũng
trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common
Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế
quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế
về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so
với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm).
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện
Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới

đây :


-

Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan
xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời
hạn tối đa là trong vòng 10 năm.

-

Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy phép,
kiểm sốt hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ.

-

Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan

Các Nội dung và Quy định cụ thể :
1. Vấn đề về thuế quan:
Các bước thực hiện như sau :
Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hố trong biểu thuế quan của
mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT:
-

Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL).

-

Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL).


-

Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL)

-

Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL)

Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
-

Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải
thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ
hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người,
động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hố nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo
cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT).

-

Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL):
là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các
nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm
này , cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm
xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo
CEPT.

-


Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa
giảm thuế (TEL) : Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực
hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế.
Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những
sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa
là tất cả những sản phẩm hàng hố được giao dịch thương mại bình thường trừ những
sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GE nêu trên.


Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện
Hiệp định):
-

Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể
cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay( IL) và Danh
mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL)

Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng
năm :
-

Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên
phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm
đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thơng báo cho các nước
thành viên.

B. Q trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt nam :
1. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt nam:
Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các nước
thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt

Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để đạt được mức
thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm.
Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm:

Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm:
danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng
nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).

Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết
thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm
xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm
xuống 0-5% vào 1/1/2003.

Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong
vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm thuế
với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa
vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm khơng ít
hơn 5%.

Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết
thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm
2010 :0-5%.



Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng
bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp
hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó.



Tình hình thực hiện CEPT của ta hiện nay
Lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của các mặt hàng trong danh mục loại trừ hoàn
toàn của Việt Nam
(30/12/2004 14:47)
Tiếp tục thực hiện các cam kết mạnh mẽ trong AFTA: Lộ trình thực hiện CEPT/AFTA
của các mặt hàng trong danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam
Để bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, và các giá trị văn
hoá, lịch sử và khảo cổ, ASEAN cho phép các nước thành viên không phải thực hiện tự
do hoá thương mại (cắt giảm thuế quan và loại bỏ các biện pháp phi quan thuế) đối với
một số mặt hàng. Theo thông lệ từ trước tới nay, các nước ASEAN thường xác định một
số mặt hàng có nguy cơ đe dọa đến các lĩnh vực nêu trên thành Danh mục Loại trừ hoàn
toàn (Danh mục LTHT) của nước mình, nghĩa là loại trừ hồn tồn khỏi việc tự do hoá
thương mại.
Tuy nhiên, trên thực tế, một số nước đã sử dụng Danh mục này vì các mục đích
khác như bảo hộ sản xuất, đảm bảo số thu ngân sách... Do đó, từ năm 1999 đến nay,
ASEAN đẩy mạnh việc rà sốt để đưa các mặt hàng khơng phù hợp nêu trên vào thực
hiện cắt giảm thuế quan và loại bỏ hàng rào phi thuế.
Đối với Việt Nam, theo phân loại của Biểu thuế hiện hành, Danh mục LTHT của
Việt Nam hiện có 424 mặt hàng, trong đó những nhóm mặt hàng được coi là khơng phù
hợp với quy định của ASEAN bao gồm:
(i)

Nhóm các mặt hàng giữ lại Danh mục LTHT vì lo sợ biện pháp quản lý trong
nước không đủ mạnh, nếu thực hiện giảm thuế sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia,
môi trường, và giá trị văn hoá, bao gồm:Thiết bị truyền phát và ra đa; Quặng xỉ tro;
Các chất rác thải và rác thải y tế; và Các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, do bản
chất các mặt hàng nói trên là những mặt hàng thương mại thơng thường nên việc duy
trì trong Danh mục LTHT là khơng phù hợp. Thay vào đó, ta cần phải có các biện
pháp quản lý trong nước hữu hiệu thì mới có thể ngăn chặn được các nguy cơ ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng hay văn hố.


(ii)

Nhóm các mặt hàng đa số có thuế suất cao (từ 20-150%) và/hoặc đang áp dụng
các biện pháp phi thuế khác như cấm nhập... Thuộc nhóm này bao gồm: Rượu mạnh;
Thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá; Ô tô; Xe máy và linh kiện xe máy; và Lốp cũ và
lốp đắp lại.


(iii)

Nhóm các mặt hàng có thuế suất thường xuyên thay đổi (0-30%) giữ lại Danh
mục LTHT vì lý do kiểm soát giá cả, điều tiết cân đối lớn của nền kinh tế. Thuộc
nhóm này bao gồm Xăng dầu các loại.

Theo quy định của ASEAN, tất cả những mặt hàng nêu trên của Việt Nam sẽ phải
loại bỏ ngay ra khỏi Danh mục LTHT và đưa vào cắt giảm thuế suất để đạt mức thuế suất
0-5% vào năm 2006. Nhưng căn cứ vào tình hình sản xuất và tiêu dùng thực tế trong
nước, Bộ Tài chính dự kiến sẽ đàm phán với ASEAN để có một lộ trình thực hiện
CEPT/AFTA linh hoạt hơn cho một số nhóm mặt hàng (xem Bảng sau đây). Tuy nhiên,
việc ASEAN có chấp nhận lộ trình linh hoạt như ta đề xuất sẽ còn phụ thuộc vào tiến
trình đàm phán.
Bảng: Lộ trình giảm thuế CEPT/AFTA dự kiến đối với một số mặt hàng
trong Danh mục LTHT:

Mặt hàng đưa vào cắt giảm

Rượu mạnh; Quặng xỉ tro; Thiết bị
truyền phát; Các tác phẩm nghệ thuật
Xe máy và linh kiện xe máy

Xăng dầu; Ơ tơ từ 10-30 chỗ ngồi
Ơ tô từ 10 chỗ ngồi trở xuống

Năm đưa vào
cắt giảm

2005
2006
2007
2008

Lộ trình giảm thuế dự
kiến
T/s CEPT T/s CEPT
tại thời vào năm kết
điểm đưa
thúc
vào
≤20%
5% (2006)
20%
≤20%
20%

5% (2007)
0-5% (2008)
5% (2009)

Như vậy, các mặt hàng còn lại trong Danh mục LTHT của Việt Nam sẽ bao gồm:
Thuốc phiện; Thuốc nổ và pháo hoa; Xe tăng; Vũ khí; Thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá;

Lốp cũ và Lốp đắp lại; Rác thải và rác thải y tê. Trong số này, ngoài các mặt hàng Thuốc
phiện, Thuốc nổ và pháo hoa, Xe tăng, và Vũ khí là phù hợp với quy định của ASEAN về
việc giữ lại Danh mục LTHT, những mặt hàng còn lại sẽ tiếp tục được rà sốt để nghiên
cứu lộ trình phù hợp để đưa vào thực hiện CEPT.
Việc chuyển các mặt hàng nói trên ra khỏi Danh mục LTHT và đưa vào cắt giảm
thuế suất theo chương trình CEPT/AFTA dự kiến sẽ có tác động đáng kể đến thương mại
và sản xuất trong nước. Về thương mại, việc đưa các mặt hàng như rượu mạnh, xe máy, ô
tô, v.v... vào thực hiện tự do hoá thương mại trong ASEAN sẽ làm tăng lượng nhập khẩu
vào Việt Nam, người tiêu dùng Việt Nam được hưởng lợi nhưng sẽ có tác động hai mặt
đối với sản xuất trong nước. Một mặt áp lực cạnh tranh cả về giá và chất lượng đối với
các doanh nghiệp trong nước tăng lên. Tuy nhiên, về dài hạn, có tác động tốt là động lực
thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước phải đổi mới nâng cao năng lực sản xuất cạnh tranh


với hàng ngoại nhập và có thể vươn ra các thị trường ngồi nước.
Cùng với tiến trình tiếp tục rà sốt Danh mục LTHT, cần có sự phối hợp chặt chẽ
của các bộ ngành có liên quan trong việc xây dựng các biện pháp quản lý trong nước đối
với các mặt hàng này để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cam kết của Việt Nam đối với Hiệp
định CEPT và dự phịng các biện pháp để đối phó với những bất cập gây ra khi nhập
khẩu những hàng hố có ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, đạo đức xã hội, sức khỏe
con người, động thực vật, cũng như các giá trị văn hoá, khảo cổ và lịch sử. Về dài hạn,
mục tiêu cuối cùng sẽ khơng duy trì một Danh mục LTHT như hiện nay, thay vào đó sẽ
vận dụng quy định của ASEAN chỉ khi nào các nguy cơ nêu trên xảy ra.



×