Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất và đời sống của người dân hai xã Quảng Thành và Hương Phong, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.45 KB, 7 trang )

MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN SẢN XUẤT VÀ ĐỜI
SỐNG CỦA NGƢỜI DÂN HAI XÃ QUẢNG THÀNH VÀ HƢƠNG PHONG, TỈNH
THỪA THIÊN HUẾ
ThS. Lê Quang Cảnh
Viện Tài ngun và Mơi trường -Đại học Huế

TĨM TẮT
Xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền và xã Hƣơng Phong, huyện Hƣơng Trà là hai
xã nằm ở phía Tây đầm phá Tam Giang- Cầu Hai thuộc loại nghèo nhất của tỉnh Thừa
Thiên Huế. Hai xã này có địa hình trũng thấp nên rất dễ bị tổn thƣơng bởi những tác động
của thiên tai, biến đổi khí hậu và nƣớc biển dâng. Mặt khác, ngƣời dân ở đây sinh sống
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đây là
những lĩnh vực sản xuất phụ thuộc rất lớn vào sự thay đổi của điều kiện tự nhiên. Báo cáo
này tập trung phân tích những tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai đến hoạt động
sản xuất, sức khỏe và vệ sinh môi trƣờng ở hai xã Quảng Thành và Hƣơng Phong để có
cái nhìn rõ hơn về vấn đề biến đổi khí hậu ở đây.
1. MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại
trong thế kỷ 21. BĐKH sẽ tác động nghiêm trọng đến tất cả các mặt của đời sống từ kinh
tế, xã hội sức khỏe và tài nguyên môi trƣờng trên phạm vi toàn Thế giới. Vấn đề BĐKH
đã, đang và sẽ làm thay đổi tồn diện, sâu sắc q trình phát triển và an ninh toàn cầu nhƣ
lƣơng thực, nƣớc năng lƣợng, các vấn đề về an tồn xã hội, văn hóa, ngoại giao và
thƣơng mại.
Xã Quảng Thành huyện Quảng Điền và xã Hƣơng Phong huyện Hƣơng Trà nằm
ven bờ phía Tây đầm phá Tam Giang- Cầu Hai là hai trong số những xã có địa hình
trũng, thấp thƣờng xun bị ngập lũ của tỉnh Thừa Thiên Huế. Trận lũ lịch sử năm 1999
và cơn bão số 9 năm 2009 đã biến hai xã này thành những ốc đảo, hệ thống giao thông bị
tê liệt, việc cung ứng lƣơng thực thực phẩm cho dân cƣ hai xã này gặp rất nhiều khó
khăn. Đặc biệt trong những năm gần đây biến đổi khí hậu đã và đang xảy ra rất mạnh mẽ
và biểu hiện bằng các hiện tƣợng thời tiết bất thƣờng nhƣ: mực nƣớc biển dâng cao, tần
xuất các cơn bão và áp thấp nhiệt đới dày hơn, lũ lụt và hạn hạn xảy ra thƣờng


xuyên...điều này đã tác động lớn đến môi trƣờng và đời sống của ngƣời dân hai xã này.
Quảng Thành và Hƣơng Phong là 2 xã thuần nông với gần 80% hộ gia đình sản
xuất nơng nghiệp và nuôi trồng thủy sản (NTTS) với tỷ lệ hộ nghèo đƣợc xếp vào loại
cao nhất tỉnh. Vì vậy cộng đồng địa phƣơng rất dễ bị tổn thƣơng bởi những tác động trực
tiếp và gián tiếp của BĐKH lên sản xuất nơng nghiệp và ngƣ nghiệp. Nếu khơng có các
biện pháp thích ứng hiệu quả, trong tƣơng lai khơng xa hai xã này sẽ gánh chịu những
hậu quả nặng nề do tình trạng BĐKH và thiên tai gia tăng.
Báo cáo tham luận này này đã bƣớc đầu nhận diện những tác động của biến đổi
khí hậu và thiên tai đến hoạt động sản xuất, sức khỏe và vệ sinh môi trƣờng ở hai xã
Quảng Thành và Hƣơng Phong, từ đó có cái nhìn rõ hơn về tình hình biến đổi khí hậu ở
đây.
36


2. NỘI DUNG
2.1. Giới thiệu về hai xã Quảng Thành và Hƣơng Phong
Quảng Thành là xã đồng bằng nằm về phía Đơng Nam của huyện Quảng Điền, có tổng
diện tích tự nhiên 1.082,00 ha [3], chiếm 6,63% diện tích tồn huyện, với dân số tự nhiên
11.411 ngƣời gồm 2.477 hộ thuộc 9 thơn. Ranh giới hành chính đƣợc xác định nhƣ sau: Phía
Bắc giáp với xã Quảng An; Phía Nam giáp với xã Hƣơng Vinh thị xã Hƣơng Trà; Phía Đơng
giáp với xã Hƣơng Phong và phía Tây giáp với xã Quảng Thọ.
Hƣơng Phong là xã cực Đông của thị xã Hƣơng Trà có tổng diện tích tự nhiên
khoảng 1.574 ha. Phía Bắc giáp với xã Hải Dƣơng, phía Nam giáp với xã Hƣơng Vinh,
phía Tây giáp với xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, phía Đơng giáp với thị trấn
Thuận An, huyện Phú Vang.
Khu vực hai xã Quảng Thành và Hƣơng Phong nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng
bằng, gị đồi thấp với nhiệt độ trung bình 24- 25,20C, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối trên
410C,nhiệt độ thấp nhất có thể xuống dƣới 100C, tổng lƣợng mƣa trung bình thuộc loại
thấp nhất tỉnh 2.600- 2.800 mm.
Hai xã này nằm ở vùng thấp trũng nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngƣời dân địa

phƣơng thƣờng xuyên chịu ảnh hƣởng bởi các loại hình thiên tai nhƣ: bão lớn, lũ lụt kéo
dài, hạn hán và xâm nhập mặn. Trong những năm gần đây các hiện tƣợng thời tiết cực
đoan ngày càng gia tăng cả về cƣờng độ lẫn tần suất do sự ảnh hƣởng của BĐKH tồn
cầu. Vì thế ngƣời dân ở đây dễ bị tổn thƣơng hơn bởi những tác động trực tiếp và gián
tiếp của BĐKH. Các tác động này ảnh hƣởng nghiêm trọng đến đời sống và hoạt động
sản xuất của ngƣời dân, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp và ni trồng thủy sản
và đó chính là sinh k chớnh ca ngi dõn hai xó ny.
b
b
bi
ii
ii
iể


ển
n
n

đ
đô
ô
ôn
n
ng
g
g
đ
ô
n

g
b
b
b


n
n
đ
ô
n
g
Quảng Điền
Phong Điền

Hải D-ơng

Phú Vang
TP. Huế
H-ơng Trà

huyện Quảng điền

Phú Lộc
A L-ới

H-ơng Phong

H-ơng Thuỷ
Nam Đông


H. Phú vang
TT. Tứ Hạ
H-ơng Toàn

H-ơng Vinh

H-ơng Văn
H-ơng Chữ
H-ơng Xuân
H-ơng An

huyện Phong điền

Tp. huế

H-ơng Hồ

H-ơng Vân

H-ơng Bình

H-ơng Thọ

Hồng Tiến

huyện h-ơng thủy

Bình Điền


Bình Thành
0

huyện a l-ới

2.5

5

kilometers

Hỡnh 1. S vị trí xã Quảng Thành
Hình 2. Sơ đồ vị trí xã Quảng Thành
2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến một số hoạt động sản xuất và đời sống ngƣời
dân hai xã Quảng Thành và Hƣơng Phong
2.2.1. Đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
Trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, BĐKH tác động đến sản xuất
nông nghiệp và an ninh lƣơng thực rất lớn, đó là biến động về diện tích đất canh tác do
37


nƣớc biển dâng; Biến động năng suất, sản lƣợng cây trồng và vật nuôi; Thay đổi cơ cấu,
thời vụ cây trồng; Biến đổi nhu cầu nƣớc; Quy hoạch và xây dựng hệ thống thủy lợi ...
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực chịu tác động nặng nề từ các rủi ro do BĐKH
gây ra, đặc biệt là ở xã Quảng Thành, do nguồn thu nhập từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của ngƣời dân ở đây. Các loại hình thiên
tai nhƣ lũ, lụt và bão không chỉ tàn phá mùa màng, mà còn gây hƣ hỏng cơ sở hạ tầng
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhƣ: cơ sở hạ tầng thủy lợi, kho chứa vật tƣ nông
nghiệp và giao thơng đi lại...Theo báo cáo của chính quyền địa phƣơng, cơn bão số 9 năm
2009 đã gây hƣ hại hoàn toàn cho 65ha rau và làm chết hơn 500 con gà, vịt của ngƣời

dân xã Quảng Thành. Những năm gần đây, lũ ở Quảng Thành có xu hƣớng đến sớm và
kết thúc muộn hơn bình thƣờng, các đợt lũ tiểu mãn xảy ra từ tháng 5- 6 mọi năm gây
ngập, lũ nghiêm trọng cho các thôn ven đầm phá Tam Giang- Cầu Hai [3,7]. Trong thời
gian diễn ra lũ, lụt, ngƣời dân không thể canh tác làm cho đời sống của họ vốn đã khó
khăn nay lại càng khó khăn hơn. Những hiện tƣợng thời tiết bất thƣờng cũng ảnh hƣởng
lớn đến sản xuất nông nghiệp của ngƣời dân. Đợt rét đậm, rét hại kéo dài gần 30 ngày
xảy ra trong cuối năm 2008 đầu năm 2009 đã làm thiệt hại 1.200 ha diện tích đất sản xuất
nơng nghiệp, 500 con gia súc, gia cầm bị chết...
Xã Hƣơng Phong với hơn một nửa dân số sinh sống dựa vào sản xuất nơng nghiệp,
thu nhập bình qn đầu ngƣời chỉ đạt 5 triệu đồng/ngƣời/năm (2008) [7]. Sản xuất nông
nghiệp ở đây rất manh mún, trình độ khoa học kỹ thuật chƣa cao và phụ thuộc rất nhiều
vào điều kiện thời tiết. Do đó, nơng nghiệp sẽ chịu tác động nặng nhất và trực tiếp nhất
bởi những rủi ro do BĐKH gây ra.
Trong những năm gần đây, thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều hơn, thất thƣờng hơn
và cƣờng độ mạnh hơn, gây ra những thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp, làm giảm sản
lƣợng lúa và các loại hoa màu khác.
- Lũ, lụt xuất hiện không theo một quy luật nào, điều đó ảnh hƣởng lớn đến sản xuất
nơng nghiệp theo thời vụ. Vụ đông- xuân 2009, trận mƣa lớn kéo dài gây ngập úng và
thiệt hại đến 90% sản lƣợng lúa của toàn xã.
- Rét đậm, rét hại xảy ra cũng ảnh hƣởng lớn đến diện tích lúa và hoa màu ở xã
Hƣơng Phong, đặc biệt trong vụ sản xuất đông- xuân. Đợt rét đậm, rét hại xảy ra cuối năm
2008, đầu năm 2009 đã làm chết hơn 3,6 ha lúa mới xạ của ngƣời. Mặt khác do rét kéo dài
nên một số trâu, bò đã bị chết rét dẫn đến cảnh nợ nần ở một bộ phận ngƣời dân.
- Xã Hƣơng Phong có địa hình thấp trũng lại nằm ở hạ nguồn các con sông lớn và
tiếp giáp với hệ đầm phá Tam Giang- Cầu Hai nên thƣơng xuyên bị ngập úng khi nƣớc
sông và nƣớc biển dâng cao. Diện tích nơng nghiệp bị thu hẹp, đồng nghĩa với sản lƣợng
lƣơng thực suy giảm ảnh hƣởng đến vấn đề an ninh lƣơng thực và đời sống của ngƣời
nông dân từ lâu đã gắn liền với đồng ruộng.
Nhƣ vậy BĐKH có nguy cơ làm tăng tần suất, cƣờng độ của các loại thiên tai và thời
tiết nguy hiểm, ảnh hƣởng lớn đến năng suất và sản lƣợng cây trồng. BĐKH cũng góp

phần quan trọng làm thay đổi tập quán canh tác, cơ cấu cây trồng đã tồn tại từ lâu đời của
ngƣời dân địa phƣơng.
2.2.2. Đối với hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Thu nhập của cộng đồng ngƣời dân khu vực đầm phá và ven biển tỉnh Thừa Thiên
Huế nói chung và xã Quảng Thành nói riêng chủ yếu từ hoạt động khai thác và nuôi trồng
38


thủy sản (NTTS). Thời tiết diễn biến thất thƣờng, ô nhiễm môi trƣờng do thiên tai là
những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến hoạt động đánh bắt và NTTS ở xã
Quảng Thành [6]. Ở đây ngƣời dân khơng có điều kiện để trang bị những đội thuyền
đánh bắt cá xa bờ, mà chỉ có những loại thuyền nhỏ dùng để đánh bắt cá trên sông và
đầm phá. Vì vậy, thu nhập của ngƣời dân chủ yếu từ hoạt động NTTS. Do vậy, thiên tai
xảy ra hàng năm làm cho công cụ sản xuất bị hƣ hỏng, hoạt động sản xuất gặp nhiều khó
khăn. Theo kết quả tính tốn đối với kịch bản thấp (B1), mực nƣớc biển dâng 65cm, thì
diện tích ngập ở Quảng Thành sẽ là 60,71 ha [1]. Trong đó diện tích ao NTTS là 54,06 ha
[1]. BĐKH không chỉ ảnh hƣởng đến diện tích các ao NTTS mà cịn đến sản lƣợng của
chúng. Lũ, lụt xảy ra không theo quy luật, cƣờng độ và tần suất ngày càng tăng lên đã tác
động đến kế hoạch thả giống của ngƣời dân, nhiều hộ gia đình cịn mất trắng do lũ cao
tràn qua bờ ao nuôi. Nhiệt độ nƣớc trong ao nuôi thƣờng tăng quá nhanh quá ngƣỡng
chịu đựng của nhiều loài sinh vật, trong đó có các lồi ni. Nhiệt độ tăng cũng làm giảm
lƣợng oxy hòa tan ở một số thời điểm làm chết hoặc giảm q trình sinh trƣởng của một
số lồi thủy sản nhƣ tôm, cá... Thay đổi nhiệt độ cũng tạo điều kiện cho việc phát sinh
dịch bệnh cho các lồi ni. Nhiệt độ nƣớc tăng và mơi trƣờng nƣớc xấu đi cũng đã điều
kiện thuận lợi để phát triển của một số loài sinh vật gây bệnh cho các loại tôm. Điều này
đã đƣợc ghi nhận ở nhiều địa phƣơng, trong đó có xã Quảng Thành.
So với xã Quảng Thành, thu nhập từ hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ở xã
Hƣơng Phong cao hơn và chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng thu nhập của ngƣời nông dân.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây hoạt động ni trồng thủy sản (NTTS) ở đây gặp
nhiều khó khăn và bất lợi do thời tiết, môi trƣờng ngày càng bị ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra

nhiều hơn...các đợt rét đậm, rét hại kéo dài và lũ, lụt xảy ra khó dự đốn hơn đã ảnh
hƣởng đến kế hoạch thả con giống của bà con nông dân, nƣớc biển dâng, xâm nhập mặn
ảnh hƣởng xấu đến các ao nuôi.
Hƣơng Phong là xã có địa hình trũng thấp nhất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế với
độ cao trung bình <4m, đặc biệt khu vực cánh đồng 66 mẫu có độ cao trung bình <1,8m.
Với đặc điểm NTTS của ngƣời dân ở đây nhƣ: làm ao, lồng, bè, khoanh nuôi bằng ô lƣới
...đều chủ yếu diễn ra ở khu vực ven đầm phá, do đó dễ bị chi phối và ảnh hƣởng khi xảy
ra thiên tai, lũ, lụt. Mặc dù, xã Hƣơng Phong có những điều kiện hết sức thuận lợi để cho
hoạt động NTTS nhƣ: có diện tích ven phá Tam Giang lớn, ngƣời dân có kinh nghiệm
trọng hoạt động NTTS. Tuy nhiên cũng nhƣ ở xã Quảng Thành, trong những năm trở lại
đây lũ lụt xảy ra thƣờng xuyên, điều kiện thời tiết thay đổi, tình hình dịch bệnh tràn lan
đã ảnh hƣởng mạnh đến hoạt động NTTS ở đây. Nhiều hộ nuôi tôm ở đây sau một thời
gian có thu nhập khá nay phải đối mặt với cảnh nợ ngân hàng, nguy cơ tái nghèo đang
hiển hiện trƣớc mắt.
Mực nƣớc dâng cao làm cho chế độ thủy lý, thủy hóa và thủy sinh trong các ao, đầm
NTTS xấu đi, có thể làm cho các quần xã sinh vật hiện hữu thay đổi cấu trúc và thành
phần. Theo một số kết quả nghiên cứu đƣợc công bố, sản lƣợng một số loài thủy sản kinh
tế đã giảm 1/3 so với trƣớc đây. Những năm gần đây chế độ mƣa thay đổi trong các mùa
khác nhau đã làm độ mặn của hệ thống đầm phá Tam Giang- Cầu Hai thay đổi nhanh
chóng. Vào mùa mƣa thƣờng xảy ra q trình ngọt hóa, ngƣợc lại vào mùa khơ lại xảy ra
q trình mặn hóa. Độ mặn khơng cịn phù hợp đối với một số đối tƣợng nuôi, gây ảnh
hƣởng cho hoạt động đánh bắt và NTTS đã ở đầm phá Tam Giang- Cầu Hai.
2.2.3. Tác động đến các hoạt động sản xuất khác
39


Trên địa bàn hai xã Quảng Thành và Hƣơng Phong vẫn duy trì một số ngành nghề
tiểu thủ cơng nghiệp nhƣ: mộc mỹ nghệ, nghề rèn, may mặc, sản xuất trầm hƣơng, đan
nón...và một số dịch vụ vận chuyển phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản. Các ngành nghề này chủ là những nghề phụ tuy nhiên cũng đã thu hút

một lực lƣợng lao động nhàn rỗi ở địa phƣơng, góp phần cải thiện thu nhập của các hộ
dân. Vào mùa mƣa lũ, các nghề này là nguồn thu nhập chính của các hộ dân ở 2 xã này.
Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây các ngành nghề này đang đối mặt với những khó
khăn lớn, do khó khăn trong việc tìm đầu ra cho các sản phẩm, thiếu nguồn lao động tại
chỗ do một lƣợng lao động trẻ đi tìm việc ở các địa phƣơng khác. Tuy nhiên, so với hoạt
động sản xuất nông nghiệp và NTTS, tác động của biến BĐKH đến các ngành sản xuất
này là không đáng kể và đây đƣợc xem là một trong những phƣơng thức sinh kế phù hợp
với các cộng đồng thƣờng xuyên bị đe dọa bởi thiên tai.
2.2.4. Tác động đến sức khỏe, nhà cửa và vệ sinh môi trường
1) Sức khỏe và tài sản
Tiến hành phỏng vấn trực tiếp ngƣời dân 2 xã Quảng Thành và Hƣơng Phỏng,
nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng: hầu hết những ngƣời đƣợc hỏi đều khẳng định thiên tai,
BĐKH đã và đang tác động đến sức và tài sản của họ. Vào mùa lũ chính vụ thƣờng bắt
đầu vào cuối tháng 9 và kết thúc cuối tháng 12, thì phần lớn 2 xã này đều bị ngập sâu,
nƣớc lũ làm ngập các đƣờng giao thông trong xã và tràn vào nhà dân. Cơn lũ lịch sử năm
1999, đã làm ngập đến 1,5m, đặc biệt có những nơi ngập sâu đến 2m. Cơn lũ này đã gây
ra những thiệt hại vô cùng to lớn đối với ngƣời dân 2 xã Quảng Thành và Hƣơng Phong.
Theo thống kê từ chính quyền địa phƣơng, đã có hàng chục ngƣời chết, hàng trăm héc ta
lúa và hoa màu bị phá hoại, nhiều nhà cửa và tài sản bị nƣớc lũ cuốn trôi. Sau lũ lụt nhiều
dịch bệnh xuất hiện đặc biệt bệnh tiêu chảy, thƣơng hàn ảnh hƣởng nghiêm trọng đến đời
sống của ngƣời dân trong thời gian dài sau khi cơn lũ đi qua. Bên cạnh lũ, lụt bão cũng
gây ra những thiệt hại về ngƣời và tài sản. Những cơn bão mạnh đã xảy ra ở địa phƣơng
nhƣ: bão năm 1985, 1993 và gần nhất là cơn bão số 9 năm 2008 đã làm tốc mái nhiều nhà
cửa, trƣờng học...Một vài hộ gia đình kể rằng khi bão lớn hoặc lốc xảy ra họ phải tìm đến
những nơi trú ẩn an tồn hơn thay vì ngơi nhà của họ rất dễ bị sập khi gặp phải gió mạnh
(Đa số các nhà này khơng có chức năng chống bão). Những đợt thiên tai xảy ra thƣờng
xuyên, cùng với sự thất thƣờng của hệ thống thời tiết đã ảnh hƣởng xấu đến sức khoẻ của
ngƣời dân nhƣ gây ra những thƣơng tích và làm phát sinh một số loại dịch bệnh mới....
Nƣớc lụt chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh sẽ là nguồn lan truyền dịch bệnh, cùng với đó là
số ngƣời chết và bị thƣơng tăng lên do các tai nạn liên quan đến nƣớc, đặc biệt là đối với

trẻ nhỏ. Nƣớc lụt dâng cao còn mang theo chất thải, rác, bùn, bèo lục bình và những chất
bẩn khác vào nhà, làm nhiễm bẩn các vật dụng, do đó tăng nguy cơ gây bệnh cho ngƣời
và vật nuôi.
2) Vệ sinh môi trường nông thôn
Xã Quảng Thành và Hƣơng Phong là hai trong những xã có địa hình thấp trũng
nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm ở hạ lƣu sông Hƣơng và sông Bồ nên khi xảy ra lũ
lụt các chất ô nhiễm từ thƣợng lƣu của hai con sông nay dồn về vùng hạ lƣu gây ô nhiễm
môi trƣờng nghiêm trọng, ảnh hƣởng đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của ngƣời dân
[2,3]. Những năm gần đây, ở địa phƣơng liên cứu liên tục xảy ra các lũ, lụt lớn làm cho
mực nƣớc sông dâng cao mang theo nhiều loại rác thải nhƣ: xác chết động thực vật, bao
bì ny lơng…các chất bẩn này theo dịng nƣớc lụt xâm nhập vào các ao nuôi thủy sản,
40


đọng lại trong các ao hồ, hệ thống kênh mƣơng, đƣờng làng gây ô nhiễm môi trƣờng
đang là một vấn đề đáng báo động. Sông Kim Đôi nằm ở hạ lƣu sông Bồ là nguồn nƣớc
tƣới tiêu và sinh hoạt của ngƣời dân bị ô nhiễm nghiêm trọng sau các trận lụt, các chất ô
nhiễm hữu cơ gây ra hiện tƣợng phú dƣỡng cục bộ tại một số điểm nƣớc ít lƣu thông. Ở
thôn Thủy Điền, xã Quảng Thành, bèo lục bình phủ kín cả một đoạn sơng Kim Đơi, làm
cho tàu thuyền không thể đi lại đƣợc. Ngƣời dân địa phƣơng cho rằng tình trạng bèo phát
triển nhƣ vậy là do việc xây dựng các chiếc cầu nhỏ làm cản trở dòng chảy và do việc
giảm độ mặn của nƣớc từ việc xây đập ngăn mặn ở hạ lƣu. Ngồi ra, tình trạng này cịn
do nƣớc sơng bị ơ nhiễm bởi hàm lƣợng chất hữu cơ quá cao.
2.3. Các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ
Để xây dựng các chính sách nhằm thích ứng và giảm thiểu các tác động của BĐKH
lên các lĩnh vực khác nhau đã đƣợc Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng hƣớng dẫn rất cụ thể
trong chƣơng trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên để áp dụng một
cách hiệu quả vào điều kiện thực tế của một địa phƣơng, một vùng cụ thể cần có những
nghiên cứu sâu hơn nhằm chi tiết hóa các giải pháp thích ứng với điều kiện tự nhiên và
bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của từng địa phƣơng cụ thể. Với đặc điểm của hai xã

Quảng Thành và Hƣơng Phong cần tăng cƣờng các giải pháp sau nhằm thích ứng với
BĐKH một cách hiệu quả nhất:
-

Đối với sản xuất nông nghiệp:

+ Nghiên cứu và triển khai các mơ hình nơng nghiệp có khả năng thích ứng tốt với
những tác động của BĐKH;
+ Tăng cƣờng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, cải thiện hệ thống tiêu
thoát trong mùa lũ và cấp nƣớc trong mùa khơ. Cần thiết có thể điều chỉnh lịch thời vụ và
hệ thống canh tác một cách linh hoạt nhằm chủ động ứng phó với các hiện tƣợng thời tiết
cực đoan nhƣ: bão, lũ lụt, hạn hán;
+ Chọn lọc các giống cây trồng, vật ni có khả năng thích nghi với điều kiện thiếu
nƣớc, chịu mặn và thay đổi theo các mùa khác nhau trong năm;
+ Đầu tƣ thêm các dịch vụ chế biến và lƣu giữ các loại nông sản tập trung.
+ Quy hoạch ngắn hạn và dài hạn sử dụng đất nông nghiệp một cách hiệu quả cùng
với việc xem xét đến các tác động trƣớc mắt và lâu dài của BĐKH đảm bảo nền sản xuất
nông nghiệp ở địa phƣơng đƣợc ổn định và bền vững.
-

Đối với đánh bắt và NTTS

+ Cần tìm ra các giải pháp cụ thể cho từng mơ hình NTTS khác nhau nhằm thích
ứng với sự thay đổi của điều kiện thời tiết;
+ Quy hoạch lại các vùng NTTS một cách phù hợp nhằm tránh hiện tƣợng nƣớc
biển dâng, hạn hán kéo dài, mƣa lũ và sự thay đổi nồng độ muối trong các ao nuôi thủy sản
+ Tiếp tục bảo tồn và phát triển diện tích rừng ngập mặn Rú Giá, đây là một giải
pháp phi cơng trình hiệu quả nhằm giảm thiểu tối đa tác động khi nƣớc biển dâng cao và
che chở cho ngƣời dân trƣớc ảnh hƣởng của bão;
+ Áp dụng công nghệ sinh học trong việc tạo ra các giống thủy sản mới có khả năng

thích ứng tốt trƣớc những thay đổi của các yếu tố môi trƣờng;
41


+ Đổi mới công nghệ, thiết bị nuôi nhƣ: lồng, bè có khả năng chống chịu với các
ảnh hƣởng của gió bão và nƣớc biển dâng;
+ Tăng cƣờng thêm các giải pháp kỹ thuật, năng cao khả năng nuôi trồng của ngƣời
ni để có thể xử lý kịp thời những hiện tƣợng bất thƣờng khi dịch bệnh phát sinh để có
các biện pháp khắc phục hiệu quả.
3. KẾT LUẬN
Qua một số nghiên cứu cho thấy xã Hƣơng Phong và Quảng Thành là hai xã chịu
hậu quả nặng nề nhất bởi những tác động của BĐKH và nƣớc biển dâng ở tỉnh Thừa
Thiên Huế. BĐKH và nƣớc biển dâng tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau,
trong đó hoạt động sản xuất nông nghiệp và NTTS nổi lên nhƣ những lĩnh vực tác động
nghiêm trọng nhất. Do những đặc điểm về điều kiện tự nhiên hết sức bất lợi vì vậy hai xã
này thƣờng xuyên hứng chịu các loại hình thiên tai, đặc biệt là ngập, lũ và bão nhiệt đới.
BĐKH đã và đang có những tác động rõ ràng đến hoạt động sản xuất và đời sống
của ngƣời dân gây thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản cũng nhƣ sản xuất nông nghiệp và
nuôi trồng thủy sản. Trong những năm tới, nếu chính quyền địa phƣơng và các cơ quan
ban ngành khơng có những giải pháp thích ứng, giảm thiểu có hiệu quả với BĐKH, thì
hai xã này sẽ tiếp tục phải hứng chịu những hậu quả nặng nề, ảnh hƣởng đến đời sống,
hoạt động sản xuất và khả năng đạt đƣợc các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ địa phƣơng
sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thử thách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Huy Anh, Đinh Thanh Kiên (2010), “ Đánh giá ảnh hƣởng của nƣớc biển dâng do
biến đổi khia hậu đến hiện trạng sử dụng đất ở xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế”, Kỷ yếu hội thảo môi trường đới ven bờ các tỉnh duyên hải miền Trung, NXB Đại học Huế,
trang 52-62
[2] Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2013), Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt
Nam, NXB Tài nguyên- Môi trƣờng và Bản đồ Việt Nam.

[3] Roger Few (2009), Báo cáo chuyên đề: Đánh giá tính tổn thương của biến đổi khí hậu lên
sinh kế của người dân 2 xã Hương Phong và Quảng Thành, Dự án FLC 09-04: “Thích ứng với biến
đổi khí hậu cấp cộng đồng và các chính sách liên quan ở tỉnh Thừa Thiên Huế”, Huế.
[4] Nguyễn Đình Huy, Lê Quang Cảnh & nnk (2009), Tổng quan về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, môi trường và tai biến thiên nhiên khu vực 2 xã Quảng Thành và Hương Phong,
Báo cáo tổng kết chuyên đề Dự án FLC09-04.
[5] Lê Văn Thăng & nnk, “Nhận thức về biến đổi khí hậu và các giải pháp ứng phó của cộng
đồng ở xã Hƣơng Phong, huyện Hƣơng Trà và xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế”.
[6] Lê Văn Thăng & nnk (2010), “Biến đổi khí hậu và các nguy cơ đối với sinh kế của cộng
đồng xã Hƣơng Phong, huyện Hƣơng Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế”, Kỷ yếu hội thảo môi trường đới
ven bờ các tỉnh duyên hải miền Trung, NXB Đại học Huế, Trang 24-35.
[7] Lê Văn Thăng (Chủ biên) và nnk (2011), Mơ hình thích ứng với biến đổi khí hậu cấp cộng
đồng tại vùng trũng thấp ở tỉnh Thừa Thiên Huế, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.
[8] Đặng Trung Thuận & nnk (2010), Báo cáo chuyên đề: Đánh giá khả năng thích ứng và
nghiên cứu các mơ hình phát triển sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu cho 2 xã Quảng Thành và
Hương Phong, tỉnh Thừa Thiên Huế, Dự án FLC 09-04: “Thích ứng với biến đổi khí hậu cấp cộng
đồng và các chính sách liên quan ở tỉnh Thừa Thiên Huế”, Thành phố Huế.
42



×