Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

SKKN tổ chức hoạt động sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học và nâng cao chất lượng môn ngữ văn lớp 10 tại trường trung học phổ thông yên dũng số 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 51 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THUYẾT MINH
MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Tổ chức hoạt động sân khấu hóa tác phẩm văn học dân
gian nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học và nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn lớp 10 tại trường trung học phổ thông Yên Dũng số 3
2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 10/9/2020
3. Các thông tin cần bảo mật: Không
4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm:
Trước khi giải pháp này được thực hiện tại trường trung học phổ thông Yên
Dũng số 3, chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm về hoạt động sân khấu hóa tác phẩm
văn học dân gian đã được thực hiện ở nhiều trường. Tuy nhiên, hầu hết những tài
liệu này đều có điểm chung về hình thức xây dựng hoạt động là: tổ chức thành một
buổi ngoại khóa, như hoạt động ngồi giờ lên lớp; hoạt động này diễn ra sau khi đã
học xong chương trình văn học dân gian. Mặc dù cách thức tổ chức như vậy vẫn
mang lại ý nghĩa nhất định, song lại dẫn đến hiện tượng “no dồn, đói góp”. Học
sinh khơng có được sự thú vị khi trải nghiệm hoạt động sân khấu hóa trong từng
giờ học. Vì vậy phần nào đã làm giảm niềm hứng thú, u thích mơn Ngữ văn nói
chung và văn học dân gian nói riêng.
5. Sự cần thiết áp dụng giải pháp sáng kiến
Khi dạy chuyên đề văn học dân gian, bản thân tôi luôn thường trực niềm trăn
trở: làm thế nào để học sinh có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm
văn học dân gian; làm thế nào để các em yêu thích bộ phận văn học này trong bối
cảnh xã hội hiện đại ngày nay, để mỗi tác phẩm sẽ trở thành “viên ngọc lấp lánh”
trong tâm hồn các em. Từ trăn trở đó và với kinh nghiệm giảng dạy, tôi nhận thấy
rất cần áp dụng giải pháp sáng kiến này trong các giờ học văn học dân gian. Thậm
chí, giải pháp này có thể phát triển để áp dụng cả với bộ phận văn học viết và văn
học nước ngồi. Thú vị, bổ ích và phù hợp là những từ để dành cho hoạt động này
trong giờ học. Bởi lẽ:


Trước hết là do đặc trưng của bộ phận văn học dân gian. Văn học dân gian là
những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản phẩm của quá trình sáng
tác tập thể thể hiện nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động. Bộ phận


2
văn học này gắn liền với hình thức diễn xướng (kể, hát, hị, ngâm, múa, diễn…)
trong các mơi trường sinh hoạt dân gian khác nhau (nghi lễ, lao động, sinh
hoạt).Tính diễn xướng gắn với văn học dân gian như một điều kiện sống cịn - nhờ
đó mà tác phẩm được truyền đến đông đảo quần chúng nhân dân. Và giờ đây, để
làm sống lại tác phẩm văn học dân gian trong mơi trường học tập, thì hình thức sân
khấu hóa là một hoạt động thú vị. Trên sân khấu biểu diễn, cũng chính là bục giảng
quen thuộc, cả người thể hiện, cả người tiếp nhận đều tỏ ra rất hào hứng.
Thứ hai, hoạt động này vơ cùng bổ ích với học sinh. Khơng phải bất cứ học
sinh nào đều có sẵn niềm say mê, u thích đối với mơn học. Vì vậy, nhiệm vụ của
hoạt động sân khấu hóa là gợi hứng thú đối với bài học, và hơn thế nữa, cịn thắp
lên “ngọn lửa đam mê”, bồi đắp tình u lâu bền đối với mơn học. Chỉ có đam mê
mới đưa các em khám phá đến tận cùng vẻ đẹp của những tác phẩm văn chương.
Câu nói của các em học sinh lớp 10a6: “Giờ học môn văn, thời gian trôi đi nhanh
thế cô ạ!”, những tiếng cười sảng khoái của học sinh 10a3, 10a1 hay nhiều cánh
tay của các em lớp 10a9, 10A5 giơ lên để được trải nghiệm với hoạt động sân khấu
hóa đã cho thấy các em thực sự yêu thích hoạt động này và cũng là sự động viên to
lớn để tôi tiếp tục theo đuổi giải pháp (xem phụ lục II, mục 2). Sân khấu hóa cịn là
cách để học sinh khắc sâu kiến thức. Để thực hiện hoạt động, các em sẽ đọc kĩ tác
phẩm, suy ngẫm, trăn trở, từ đó thấm thía hơn ý nghĩa, tư tưởng. Đây là cách rèn kĩ
năng cảm thụ văn học, thể hiện sự tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Sân
khấu hóa cũng là hoạt động giúp học sinh có cơ hội thể hiện khả năng của mình ở
nhiều lĩnh vực nghệ thuật (hát, múa, đóng kịch, biên kịch, đạo diễn). Các em có dịp
được khám phá và hiểu năng lực bản thân mình hơn. Nhờ đó, giáo viên cũng phát
hiện tài năng và có thêm một kênh thơng tin giúp định hướng nghề nghiệp cho học

sinh. Mặt khác, nhờ hoạt động này, học sinh trong lớp sẽ tăng tính đồn kết, gần
gũi, biết hợp tác, giúp đỡ nhau trong học tập. Điều này rất ý nghĩa, bởi khi mới
bước vào lớp 10, các em đến từ các xã, thậm chí là huyện, tỉnh khác nhau nên còn
xa lạ, bỡ ngỡ, rụt rè. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các em sẽ quen-hiểu nhau
hơn, tự tin phân công nhiệm vụ cho nhau và có trách nhiệm với mỗi phần việc
được giao.
Như vậy, sự bổ ích của hoạt động sân khấu hóa văn học dân gian là ở chỗ học
sinh sẽ “làm” rất nhiều điều, thay vì chỉ “biết” theo cách dạy truyền thống. Điều
này đáp ứng được yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay- chuyển từ truyền thụ
kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất người học.


3
Thứ 3, hoạt động này còn phù hợp và đáp ứng u cầu đổi mới chương trình
mơn Ngữ văn năm 2021 sắp tới. Theo Dự thảo đổi mới chương trình Ngữ văn lớp
10, chuyên đề sân khấu hóa văn học dân gian được xây dựng 15 tiết/ 105 tiết.
Trong khi đó chương trình những năm học trước khơng có, cịn năm học 20202021 xây dựng 01 tiết. Điều này đã khẳng định sự đổi mới tích cực của chương
trình và cần thiết của hoạt động ý nghĩa này nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục trong
thời đại mới.
6. Mục đích của giải pháp sáng kiến
Sân khấu hóa lớp học có rất nhiều cách thức như: ngâm thơ, kể câu chuyện
ngắn, đóng vai, đóng kịch, hát, múa, chia sẻ những cảm xúc chân thành về một
nhân vật hay tác phẩm. Trong giờ dạy của mình, tơi đã áp dụng một số hình thức
trên. Với sự nhiệt tình, tâm huyết và cố gắng của người dạy, những hoạt động như
thế giúp học sinh đạt được mục đích sau:
* Giải pháp 1 - Hình thức diễn kịch:
Tất cả những văn bản văn học dân gian trong chương trình đều có thể
chuyển thành kịch bản nên giải pháp này sẽ phát huy tối ưu việc củng cố kiến thức
cho học sinh (xem phụ lục I, mục I). Khi nhập vai vào nhân vật, các em sẽ phải đọc
kĩ văn bản, nắm bắt ý nghĩa nhân sinh mà tác giả dân gian gửi gắm. Trong quá

trình tập luyện, học sinh sẽ trao đổi với giáo viên, từ đó hiểu hơn về nhân vật, khắc
sâu hơn kiến thức. Mặt khác, giải pháp cũng phát huy khả năng diễn xuất, sự tự tin,
bản lĩnh trước tập thể. Đặc biệt, từ sự gợi ý của giáo viên, học sinh sẽ tự mình sáng
tạo kịch bản, khi đó các em sẽ có thêm niềm đồng cảm với tác giả dân gian.
* Giải pháp 2 – Hình thức ngâm thơ, hát, múa:
Ngâm thơ và hát dân ca nhằm giúp học sinh hiểu được mối quan hệ của thể
loại ca dao và dân ca (xem phụ lục I, mục II ). Ca dao là lời thơ dân gian, còn dân
ca là những câu hát kết hợp giữa lời ca dao và âm nhạc. Hình thức múa lại giúp
học sinh củng cố kiến thức bằng một loại hình nghệ thuật khác, khơng phải bằng
ngơn từ mà bằng động tác hình thể, biểu cảm khn mặt. Dù trừu tượng, nhưng sẽ
phát huy trí tưởng tượng của học sinh. Trải nghiệm 3 hình thức trên, các em thêm
bồi đắp ý thức trân trọng, gìn giữ bản sắc văn hóa dân gian của dân tộc.
* Giải pháp 3 – Hình thức hùng biện:
Hình thức này giúp học sinh bộc lộ cảm nhận của cá nhân mình về nhân vật
hay tác phẩm văn học dân gian (xem phụ lục I, mục III ). Thực hiện hoạt động
thuyết trình cho học sinh, giáo viên sẽ tích hợp với bài học Trình bày một vấn đề
trong chương trình kì I. Vì vậy, các em sẽ được ơn tập, mở rộng, năng cao kiến


4
thức, được rèn kỹ năng nói trước tập thể. Muốn bài hùng biện lôi cuốn, hấp dẫn,
thuyết phục người nghe, đòi hỏi sự nắm vững kiến thức và cả tự tin. Được hùng
biện, đặc biệt, hùng biện thành công sẽ là những kỉ niệm khó phai trong cuộc đời
học sinh của các em.
* Như vậy, điểm mới của sáng kiến là thực hiện hoạt động sân khấu hóa
ngay trong giờ học và áp dụng ở từng tác phẩm văn học dân gian; Từ đó hướng tới
mục tiêu khơi dậy một cách tốt nhất hứng thú học tập của học sinh trong giờ Ngữ
văn và bắt kịp định hướng tổ chức chuỗi hoạt động học trong chương trình giáo
dục mới nhằm hình thành năng lực, phẩm chất cho người học.
7. Nội dung

7.1.Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến
7.1.1. Các giải pháp áp dụng
* Giải pháp 1 – Hình thức diễn kịch:
- Nội dung:
+ Trong tiết học, giáo viên có thể tổ chức hoạt động này từ 3-5 phút, tùy
theo dung lượng kịch bản, ở phần khởi động, hoặc tổng kết bài học. Có thể chuẩn
bị trang phục, đạo cụ để phần biểu diễn thêm hấp dẫn. Để tiết kiệm kinh phí, tổ bộ
mơn, nhà trường nên mua một số bộ trang phục biểu diễn để sử dụng trong các vở
kịch của tất cả các lớp và ở những năm sau. Bởi, hầu hết các vở kịch về Văn học
dân gian đều có trang phục giống nhau.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn tình huống, trích đoạn hay sự việc
tiêu biểu thể hiện được chủ đề của tác phẩm để xây dựng kịch bản. Cũng có thể
liên kết nội dung của một số văn bản để xây dựng thành một kịch bản mới, nhằm
phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên: cần đảm bảo được giá
trị nghệ thuật của tác phẩm; và thận trọng để khơng hiện đại hóa q mức các sáng
tác dân gian. Sự việc thầy trò một trường ở Thành phố Hồ Chí Minh đưa “cảnh
nhạy cảm” vào sân khấu hóa cũng là bài học của việc tiếp cận văn bản khi sáng tạo
kịch bản.
- Kết quả khi thực hiện giải pháp:
+ Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp: Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các
em học sinh đã xây dựng được hệ thống các kịch bản từ tác phẩm văn học dân gian
trong chương trình. (chi tiết tại phụ lục I, mục I)
+ Hình ảnh, video minh chứng (chi tiết tại phụ lục III)
* Giải pháp 2 - Hình thức ngâm thơ, hát, múa:
- Nội dung:


5
+ Giáo viên nên gợi ý cho học sinh một số điệu ru, bài dân ca, hát đối đáp
giao duyên quen thuộc của 3 miền để biểu diễn, bên cạnh những bài các em tự lựa

chọn theo sở thích của mình. Để phần biểu diễn hấp dẫn, lơi cuốn, giáo viên cho
các em được chuẩn bị, tập luyện ở nhà trước; chuẩn bị cả nhạc beat để các em hát
theo nhạc. Có thể linh hoạt hình thức biểu diễn đơn ca, song ca, tam ca hoặc tốp ca
theo tổ, nhóm.
+ Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên sẽ hỏi học sinh hiểu biết về lời
ca dao của bài dân ca, hoặc ý nghĩa của bài dân ca. Mỗi bài dân ca đều có ý nghĩa
riêng, vơ cùng thú vị. Giáo viên có thể chuẩn bị trước những thơng tin về ý nghĩa
của một số bài dân ca và cung cấp cho các em. Trong giờ văn nhưng lại được hiểu
thêm kiến thức bộ môn khác cũng là một kỉ niệm đáng nhớ của cả giáo viên và học
sinh. Đồng thời, sẽ giúp các em hiểu sâu sắc và yêu quý hơn những làn điệu dân ca
của dân tộc.
+ Bên cạnh những làn điệu dân ca, giáo viên cũng có thể khuyến khích các
em trình bày những ca khúc dân gian đương đại lấy cảm hứng từ những tác phẩm
dân gian. Đây là những bài hát hiện đại rất gần gũi, quen thuộc với thế hệ các em.
+ Hình thức múa địi hỏi đầu tư nhiều thời gian, cơng sức hơn. Tuy nhiên, sự
cố gắng của giáo viên và học sinh sẽ mang tới cho giờ học môn văn khơng chỉ có
kiến thức bề bộn mà cịn đậm tính nghệ thuật.
- Kết quả khi thực hiện giải pháp:
+ Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp: Dưới sự gợi ý của giáo viên, các em
học sinh đã sưu tầm được một số bài hát dân ca, bài hát hiện đại theo phong cách
dân gian và lấy cảm hứng từ tác phẩm văn học dân gian trong chương trình. (chi
tiết tại phụ lục I, mục II)
+ Hình ảnh, video minh chứng (chi tiết tại phụ lục III)
* Giải pháp 3 – Hình thức hùng biện:
- Nội dung:
+ Hình thức này được thực hiện sau khi kết thúc bài học, hoặc ở giờ học sau.
Các em sẽ chuẩn bị bài hùng biện theo cá nhân, nhóm, tổ và cử đại diện trình bày,
hoặc giáo viên gọi bất kì. Thời gian trình bày khoảng từ 3-5 phút. Khi hùng biện,
giáo viên khuyến khích các em có nhạc nền, có hình ảnh, video minh họa để thêm
sinh động, hấp dẫn.

- Kết quả khi thực hiện giải pháp:


6
+ Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp: giáo viên xây dựng được một số câu
hỏi, vấn đề liên quan đến các tác phẩm văn học dân gian để học sinh hùng biện.
(chi tiết tại phụ lục I, mục III)
+ Hình ảnh, video minh chứng (chi tiết tại phụ lục III)
* Lưu ý chung: Để hoạt động sân khấu hóa văn học dân gian có hiệu quả
cao hơn, cần lưu ý một số điều sau:
- Giáo viên cũng có thể khích lệ những học sinh nhút nhát để rèn luyện bản
lĩnh, sự tự tin của các em.
-Tổ chức hình thức thi và phần thưởng là những điểm số vừa mang tính ghi
nhận, vừa mang tính động viên, khích lệ. Điểm đạt được là điểm thường xuyênđiểm miệng, 15 phút của các em.
- Giáo viên sẽ quay video để làm tài liệu tham khảo và trình chiếu cho
những lớp khác khơng thực hiện hoạt động đó. Dù khơng thực hiện hoạt động,
nhưng được xem bạn cùng khối biểu diễn cũng là một điều thú vị.


7
* Khảo sát việc tổ chức hoạt động sân khấu hóa văn học dân gian của GV
Số GV
khảo
sát

Tỉ lệ
%

9


100

9

100

9

100

9

100

- Củng cố kiến thức của HS

7

78

- Tạo ra hứng thú cho HS

9

100

- Tạo ra “tình huống có vấn đề” để vào bài

3


33

- Đóng kịch

9

100

- Hát

9

100

- Hùng biện

3

56

T
T

Nội dung khảo sát

Việc thiết kế nội dung bài học có được thầy (cơ) thực
1 hiện thường xun khơng
- Có
- Khơng
Theo thầy (cơ), hoạt động sân khấu hóa có cần thiết cho

2 một giờ học tác phẩm văn học dân gian khơng?
- Có
- Khơng
Khi thiết kế nội dung bài học tác phẩm dân gian, các thầy
3 (cơ) có thiết kế hoạt động sân khấu hóa khơng?
- Có
- Khơng
Thầy (cơ) có thực hiện hoạt động sân khấu hóa cho một
4 giờ học tác phẩm văn học dân gian khơng?
- Có
- Khơng
Khi thiết kế hoạt động sân khấu hóa tác phẩm văn học
5 dân gian, các thầy (cơ) xác định mục tiêu là gì?

Hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian, thầy
6 (cơ) thường tổ chức là gì?

- Khác


8
Qua việc khảo sát trên, tôi nhận thấy tất cả các thầy cô trong tổ chuyên môn
đều tổ chức hoạt động sân khấu hóa trong giờ dạy. Điều đó góp phần khẳng định
vai trò, ý nghĩa, hiệu quả của hoạt đông này để tạo hứng thú cho học sinh và nâng
cao chất lượng giờ dạy của giáo viên.
* Các bảng số liệu so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp:
- Kết quả định tính:
+ Năm học 2020 -2021, tôi giảng dạy ở lớp: 10a3, 10a5, 10a6, 10a9 - đều là
lớp theo ban cơ bản. Tôi đã tiến hành dạy thực nghiêm bài giảng Nhưng nó phải
bằng hai mày ở lớp 10a3, 10a9, 10a6; còn lớp 10a5, tôi dạy theo phương pháp

truyền thống - không tổ chức hoạt động sân khấu hóa. Sau khi thực nghiệm và đối
chứng, tôi tiến hành khảo sát đánh giá mức độ hứng thú của học sinh lớp 10a3 và
10a5 sau tiết học (mẫu phiếu 2 – phần phụ lục II).
Kết quả đạt được như sau:
Khảo sát, đánh giá mức độ hứng thú trong giờ học
Đối
tượng

Đối
chứng

Lớp

SL

Rất
hứng thú

Hứng thú

Bình
thường

SL

TL
(%)

SL


TL
(%)

SL

TL
(%)

SL

TL
(%)

Khơng
hứng thú

10a3

45

33

73

8

17

4


12

0

0

10a5
Thực
nghiệm

43

17

39

7

16

19

33

0

0

Qua kết quả bảng khảo sát, tôi nhận thấy: mức độ rất hứng thú, hứng thú của
học sinh lớp thực nghiệm tăng và giảm tỉ lệ học sinh có thái độ bình thường và

khơng hứng thú với bài học. Giờ học không căng thẳng khô khan, ngược lại, các
em hào hứng tham gia hoạt động và có những trận cười sảng khối khi xem bạn
mình diễn kịch.(chi tiết tại phụ lục III). Từ đó, chất lượng giờ học cũng tăng lên.
+ Sau đó, tơi đã tiến hành áp dụng giải pháp sáng kiến ở lớp 10a5 trong thời
gian cịn lại của học kì I. Sau khi kết thúc chương trình văn học dân gian, tôi đã
tiến hành khảo sát đánh giá mức độ hứng thú các lớp (mẫu phiếu 3 – phần phụ lục
II).
Kết quả đạt được như sau:


9
Khảo sát mức độ hứng thú sau chuyên đề
Số HS Tl
%

Nội dung khảo sát

TT

Em có quan tâm đến hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn
1 học dân gian khơng?

174

100

Mức độ cao

124


72

Mức độ TB

38

22

Mức độ thấp

12

16

Rất hứng thú

17

9

Hứng thú

40

23

Bình thường

106


60

Khơng hứng thú

11

8

Rất hứng thú

128

74

Hứng thú

36

20

Bình thường

10

6

Khơng hứng thú

0


0

Mức độ hứng thú của em đối với những bài học chưa có
2 hoạt động sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian?

Khi có hoạt động sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian,
mức độ hứng thú của em với giờ học Ngữ văn như thế
nào?
3

Như vậy, số lượng học sinh có hứng thú với hoạt động này là rất cao, hơn
90%. Đó chính động lực để tơi tiếp tục thực hiện giải pháp này ở những năm học
tiếp theo.
- Kết quả định lượng:
+ Không chỉ khảo sát, đánh giá sự hứng thú của học sinh trong giờ học, tơi
cịn tiến hành kiểm tra, đánh giá chất lượng sau tiết học. Kết quả đạt được như sau:
Khảo sát kết quả sau giờ học
Lớp

Giỏi

%

Khá

%

TB

%


Yếu

%

10a3 45 (TN)

10

22

32

71

3

7

0

0

10a5 43 (ĐC)

4

9

28


65

11

26

0

0

SL


10
Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy kết quả kiểm tra, đánh giá của lớp thực
nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng. Trong đó tỷ lệ đạt kết quả loại khá, giỏi ở
lớp thực nghiệm là cao hơn rất nhiều.
Mức độ nắm vững tri thức, kỹ năng của lớp thực nghiệm cũng cao hơn lớp
đối chứng. Ở lớp thực nghiệm, học sinh hiểu bài một cách chắc chắn, nắm được
bản chất của nội dung học tập.
+ Kết quả cuối học kì:
Bảng so sánh kết quả TBM của học sinh.
Lớp 10a3

Số lượng

Giỏi

%


Khá

%

TB

%

Yếu

%

Khảo sát đầu
năm

45

0

0

13

29

32

71


0

0

Cuối học kì 1

45

0

0

33

86,7

12

13,3

0

0

Lớp 10a5

Số lượng

Giỏi


%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

Khảo sát
đầu năm

43

0

0

22

51

21

49


0

0

Cuối học kì 1

43

0

0

34

79

9

21

0

0

Lớp 10a6

Số
lượng


Giỏi

%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

Khảo sát
đầu năm

41

0

0

7

17

33


80

1

3

Cuối học kì 1

41

1

2,4

29

70

11

27,6

0

0

Lớp 10a9

Số

lượng

Giỏi

%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

Khảo sát đầu
năm

36

0

0

7

19


27

75

2

6

Cuối học kì 1

35

0

0

20

57

15

43

0

0



11
7.1.2 Các bước đã được thực hiện khí áp dụng sáng kiến:
- Bước 1: Giới thiệu sáng kiến đến các thầy cô đang giảng dạy bộ môn Ngữ
văn lớp 10 tại trường THPT Yên Dũng số 3
- Bước 2: Tổ chức trao đổi, thảo luận trong nhóm dạy; xây dựng kế hoạch áp
dụng sáng kiến; đã trao đổi đồng thời nhờ 3 thầy cô trong tổ bộ môn áp dụng sáng
kiến trong giảng dạy, cụ thể:
Ngày
Số
Họ và tên tháng năm
TT
sinh

1

Đỗ Thị
Oanh

2

Nguyễn
Thị Thủy

3

Lưu Thị
Hồi

Nơi cơng
tác


Chức
danh

Trình
Nội dung cơng
độ
việc hỗ trợ
CM

GV
THPT
hạng III

Cử
Nhận xét, phản
nhân hồi về sáng kiến.

22/6/1984

THPT Yên
Dũng số 3

GV
THPT
hạng III

Cử
Nhận xét, phản
nhân hồi về sáng kiến.


27/12/1983

THPT Yên
Dũng số 3

GV
THPT
hạng III

Cử
Nhận xét, phản
nhân hồi về sáng kiến.

16/12/1982

THPT Yên
Dũng số 3

- Bước 3: Tổ chức thực hiện sáng kiến bắt đầu từ học kì 1, năm học 20202021.
- Bước 4: Tổ chức rút kinh nghiệm sau khi áp dụng sáng kiến để giảng dạy.
7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến đã được áp dụng cho trong giảng dạy cho học sinh các lớp 10a3,
10a5, 10a6, 10a9 trong năm học 2020-2021 trong chương trình văn học dân gian.
- Sáng kiến được áp dụng ở các lớp 10 khác trong trường và tiếp tục hoàn
thiện, phát triển để áp dụng cho việc giảng dạy và học tập của giáo viên và học
sinh trong những năm học tiếp theo, cũng như trong các chương trình khác của
mơn Ngữ văn.
7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến
Sau khi áp dụng các giải pháp nêu trên ở tại trường THPT Yên Dũng số 3,

hiệu quả của sáng kiến đạt được như sau:
Về lợi ích kinh tế


12
- Giáo viên có thể sử dụng phần lý luận của sáng kiến kinh nghiệm này để
tiếp tục xây dựng giải pháp sân khấu hóa tác phẩm văn học viết và văn học nước
ngoài nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học và nâng cao chất lượng môn
Ngữ văn tại trường trung học phổ thông Yên Dũng số 3
- Giáo viên, học sinh có thể sử dụng các giải pháp được xây dựng trong sáng
kiến để áp dụng cho giờ dạy và trở thành tư liệu tham khảo của những năm học
sau.
Về lợi ích xã hội
- Là mơn học thuộc nhóm cơng cụ, mơn Ngữ văn cịn thể hiện rõ mối quan
hệ với các môn học khác. Học tốt mơn Ngữ văn sẽ tác động, hỗ trợ tích cực đến
các mơn học cịn lại. Vì vậy, người giáo viên cần phải đánh thức ở học sinh niềm
đam mê văn chương, khơi dậy ở các em tính sáng tạo và khả năng làm chủ kiến
thức, bằng nhiều cách, trong đó có hình thức sân khấu hóa.
CAM KẾT
Tơi xin cam kết sáng kiến này không sao chép và vi phạm bản quyền.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ của riêng tơi. Tơi rất mong nhận
được sự đóng góp của lãnh đạo chuyên môn và các thầy cô đồng nghiệp, đặc biệt
là ban giám khảo để giải pháp của tơi có hiệu quả hơn trong những năm dạy học
tiếp theo!

Xác nhận của cơ quan, đơn vị

Tác giả sáng kiến

Đặng Thị Thủy



13
PHỤ LỤC I
NHỮNG VÍ DỤ MINH CHỨNG CHO CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
SÂN KHẤU HÓA TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN

I. Giải pháp 1 - Hình thức diễn kịch
1. Kịch bản Chiến thắng Mtao-Mxây
Nhân vật: Già làng; Đăm Săn; Dân làng 1; Dân làng 2; Mtao Mxây; Hơ
Nhị.
CẢNH I
(Nhạc bài Vũ khúc Tây Nguyên vang lên. Già làng và dân làng cùng nhau
múa điệu múa của người Tây Nguyên).
Già làng: Ơ…các con. Năm nay Giàng cho ta thóc, ngô đầy kho, rượu đầy
ché. Ta rất mừng khi thấy bn làng đồn kết, con cháu thảo hiền.Ta muốn nhân
dịp các con tề tựu đông đủ hôm nay, ta sẽ kể cho các con nghe 1 câu chuyện có từ
lâu đời của tộc người Ê-đê chúng ta. Đó chính là câu chuyện về chàng Đăm Săn
Dân làng 1: Già làng ơi, hãy kể cho chúng con nghe đi ạ.
Già làng: Đăm săn chính là 1 vị tù trưởng mạnh mẽ nhất trong các vị tù
trưởng. Chính chàng là người có công thống nhất tất cả các tộc người Ê- đê như
ngày hôm nay. Ta kể chuyện này cũng là ôn lại chuyện cũ và cảm ơn tổ tiên, trời
đất đã xây dựng nên buôn làng.
Dân làng 2: Già làng ơi, già làng kể chuyện Đăm Săn thì ưng cái bụng của
chúng con lắm ạ.
Già làng: hãy nổi trống, nổi chiêng lên nào.
CẢNH II
(Tiếng trống chiêng vang lên, Già làng và dân làng vào trong. Tiếng già
làng bắt đầu kể chuyện).
Già làng: (nói vọng ra, giọng trầm hùng) Xưa kia, dân tộc Ê- đê sống thành

các vùng riêng biệt. Mỗi vùng lại có một tù trưởng đứng đầu. Trong các vị tù
trưởng đó khơng thể khơng nhắc tới Đăm Săn- chàng trai tài ba, đầu đội trời, chân
đạp đất. Có một tù trưởng cũng nổi tiếng khơng kém Đăm săn, đó là Mtao Mxây,
hay còn gọi là tù trưởng Sắt. Lừa lúc Đăm Săn cùng nô lệ lên rẫy, tù trưởng Sắt đã
tới cướp phá buôn làng và bắt Hơ Nhị về làm vợ.
Mtao Mxây: (đi ra ) Ơ…Ta là tù trưởng Sắt. Ai ai cũng phải sợ ta. Duy chỉ
có tên Đăm Săn là không biết sợ ta. Hôm nay ta đến tận nhà hắn, bắt cóc vợ hắn


14
xem hắn làm gì được ta nào. Ha ha. (gọi Hơ Nhị). Hơ Nhị, nàng ở đâu, nàng đâu
rồi?
Hơ Nhị: (chạy ra sân khấu) Ai vừa gọi ta đó, có ta đây.
Mtao Mxây: Hơ Nhị, nàng hãy đi với ta, hãy về làm vợ ta.
Hơ Nhị: ta không đi với ngươi đâu, cái bụng ta chỉ thương chàng Đăm San
thôi. Người hãy cút đi mau.
Mtao Mxây: không được, nàng phải đi với ta, phải thuộc về ta. (vác Hơ-Nhị
trên vai đi vào trong)
CẢNH III
Già làng: Đăn Săn đi nương về, khơng thấy Hơ Nhị đâu. Hỏi tơi tớ thì mới
biết là bị Mtao Mtao Mxây Bắt cóc. Chàng giận dữ vô cùng.
Đăm Săn: Tên Mtao Mxây quả là to gan thật. Hắn không biết ta là Đăm Săn,
vị tù trưởng hùng mạnh, tiếng tăm lẫy lừng sao. Được, lần này ta sẽ không tha thứ
cho hắn. Ta sẽ đến tận nhà Mtao Mxây để chiến đấu tới cùng, không thắng không
về!
CẢNH IV
(Đi đến nhà Mtao Mxây. Mtao Mxây đang đứng cạnh Hơ Nhị)
Đăm Săn: Ơ diêng, ơ diêng, xuống đây. Ta thách ngươi đọ dao với ta đấy.
Mtao Mxây: ta khơng xuống đâu diêng ơi. Tay ta cịn đang bận ôm vợ hai
chúng ta ở trên nhà này cơ mà.

Đăm Săn: Xuống, diêng! xuống, diêng! Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái
sàn hiên của nhà ngươi ta bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà ngươi ta chẻ ra
kéo lửa, ta hun cái nhà của nhà ngươi cho mà xem.
Mtao Mxây: Khoan, diêng, khoan. Để ta xuống. Ngươi khơng được đâm ta
khi ta đang đi xuống đó nghe.
Đăm Săn: Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống nhỉ. Ngươi xem
đến con lợn nái của nhà ngươi ta cũng không thèm đâm nữa là.
Mtao Mxây: ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang đi lắm.
Đăm Săn: Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi xuống nhỉ. Ngươi xem
đến con trâu của nhà ngươi ta cũng không thèm đâm nữa là.
(Hai tù trưởng giao chiến quyết liệt. Mtao Mxây có vẻ yếu thế, vừa đánh vừa
chạy trốn.)
Hơ Nhị: (tay cầm miếng trầu) Đây là miếng trầu, là tất cả tấm lòng và sức
mạnh của ta. Ai ăn được sẽ trở thành vị tướng tài ba. (quăng miến trầu, Đăm Săn
đớp được, càng mạnh mẽ hơn)


15
Già làng: sau một hồi chiến đấu, cả hai đều thấm mệt. Đăm Săn mộng thấy
ông trời bày cách cho chàng đánh thắng Mtao Mxây. Đó là lấy chày mịn ném vào
vành tai kẻ thù. Đăm Săn làm theo lời ông trời và Mtao Mxây bị hạ gục.
Mtao Mxây: (ôm chân Đăm Săn và cầu xin bằng giọng run sợ) ơ diêng, hãy
tha cho ta, ta sẽ làm lễ cầu phúc cho diêng 1 trâu, ta cho thêm một voi nữa.
Đăm Săn: sao ngươi còn cúng trâu cầu phúc cho ta. Chẳng phải vợ ta ngươi
cịn cướp ư. Thơi ngươi hãy cút đi.
(Đăm săn đi về phía Hơ Nhị. Mtao Mxây định đâm lén nhưng chàng phát
hiện ra và đâm phập một cái, Mtao Mxây chết)
Hơ Nhị: Đăm săn, chàng thật tài giỏi. Chàng quả là người anh hùng của
buôn làng.
Đăm Săn: (cầm tay Hơ Nhị) Nàng biết khơng, tình yêu dành cho nàng và

danh dự của một vị tù trưởng, danh dự của cộng đồng đã buộc ta cần phải chiến
đấu và chiến thắng. Bây giờ chúng ta hãy trở về nhà ăn mừng chiến thắng này.
Nhưng trước khi về, ta muốn người dân của buôn làng này hãy đi theo ta, ta muốn
ai ai cũng có cuộc sống sung túc, giàu có. (nói với khán giả) Ơ… tất cả tơi tớ trong
làng, các ngươi có đi với ta khơng?
Dân làng: có, chúng tơi sẽ đi theo người anh hùng của buôn làng, người biết
bảo vệ danh dự, gia đình và bn làng. Chúng tơi có đi.
Đăm Săn: Hãy nổi trống nổi, chiêng lên nào.
( Nhạc bài Suối đàn tơ-rưng. Mọi người nắm tay nhau múa theo điệu nhạc)
Hết


16
2. Kịch bản Tấm Cám (Kịch bản 10a5)
Nhân vật: Tấm, Cám, Dì ghẻ, Nhà Vua, Lính, 3 dân làng- dẫn truyện
CẢNH I
(cái nồi để trên 1 cái bếp. Dì ghẻ đi ra trên nền nhạc bống Bống bống bang
bang…)
Dì ghẻ: (chào dun dáng) Ai da! Ngày gì mà nóng dữ vậy (quạt quạt). Coi
bữa nay nó cho mình ăn cơm cháo gì đây (Đến bên nồi dì ghẻ mở nắp).
Dì ghẻ: Taaaaam!......
Tấm: (chạy ra hấp tấp) Dạ mẹ…
Dì ghẻ: tao đã nói mày bao nhiêu lần rồi. Tao cấm mày xào nấm với dấm.
Mày có ấm đầu khơng? Cẩn thận tao cho mày vài đấm.
Tấm: dạ con khơng có làm vậy mà.
Dì ghẻ: lại cịn cãi. Chả lẽ tao nói điêu. Hứ (đi vào trong)
Dẫn truyện: Hàng ngày, những lời đay nghiến, chửi bới Tấm xảy ra như
cơm bữa, cho dù gì ghẻ đã đơi lần bị phê bình trước làng xã vì vi phạm nếp sống
văn minh gia đình văn hố. Tấm làm gì cũng bị bà mắng, trong khi Cám cũng đâm
thủng mâm lúc chơi đùa với Tấm thì lại được mẹ khen là văn võ song tồn.Rồi 1

ngày nọ…..
(Tấm đang quét nhà. Dì ghẻ đi ra, ánh mắt ma quái. Dì ghẻ nghĩ ngợi rồi đi
lại chỗ Tấm)
Dì ghẻ: Cám ơi, ra mẹ nói nè con.
Cám: (từ sân khấu vọng ra) Con đang ngủ mẹ cần gì sai chị Tấm ý. Haizz…
Dì ghẻ: mày có ra đây khơng thì bảo (giậm chân).
Cám: (ngái ngủ bước ra) mẹ,… sao đông người thế này kêu con ra chưa kịp
trang điểm gì cả (làm dun dáng). Chào các bạn, tơi là Cám xinh đep!(nhún qua 1
bên)
Dì ghẻ: tự nhiên hơm nay mẹ thèm ăn tép xào khế. Thơi thì 2 con chịu khó
ra đồng mị tép cho mẹ vậy.
Cám : con khơng rảnh (định quay vào trong để ngủ tiếp)
Dì ghẻ: đứa nào bắt được nhiều tép hơn thì mẹ thưởng cho cái yếm đào.
Cám: (mở tròn mắt, quay lại ngay) thiệt hả mẹ? Vậy đi nhanh nào chị Tấm.
(nhanh như chớp Cám giật cái giỏ rồi chạy đi)
Tấm: dạ mẹ con đi (từ từ lấy giỏ ra đồng)


17
CẢNH II
Dẫn truyện: Hai cô vâng lời mẹ và chạy đi. Tấm chăm làm. Cơ nhảy ào
xuống đồng. Cơ mị từng con tép, bắt từng con tôm bỏ vào giỏ. Cám thì mải lo bắt
bướm hái hoa.
Cám: (đi qua 1 bên) thơi chết rồi. Mình mãi lo bắt bướm hái hoa cịn giỏ
thì…(nhìn vào giỏ) trống. (Cám liếc qua liếc lại. nhìn Tấm bằng ánh mắt ma quỷ )
chị Tấm ơi, chị Tấm.
Tấm: có chuyện gì vậy em?
Cám: đến giờ về rồi chúng ta về thôi. (cố ý đưa cái giỏ trống không cho Tấm
xem)
Tấm: thôi chết. Sao giỏ em lại khơng có con tép nào. Về chắc mẹ sẽ đánh

địn. Để chị chia cho em 1 nữa nhé!
Cám: thơi không cần đâu chị. Tép là của chị bắt mà em nỡ lịng nào mà làm
vậy. Qn tử có gan làm có gan chịu (chống nạnh). Ấy chết, chị Tấm ơi, đầu chị
lấm kìa.
Tấm: (sờ đầu): đâu em? Phủi cho chị cái.
Cám: nhiều lắm chị ơi. Thôi chị ra kia hụp xuống gội đầu đi. Nhanh lên.
Tấm: ừ cũng được. Vậy em chờ chị nhé. (Tấm quay đi rồi bất chợt quay lại)
Cám em cầm hộ cái giỏ tép cho chị đi ra kia gội đầu.
Cám: thôi chị đem theo đi. Để em cầm lỡ có chuyện gì chị lại đổ thừa em.
Tấm: ừ vậy đi. Quay đi.
Cấm: ê ê. Chờ chút. (Níu lại) thơi để kia đi. (nũng nịu) có gì em trơng giúp
cho.
(Tấm để giỏ đó rồi đi vào …..)
Cám: (hí ha hí hửng chạy lại giỏ tép trút qua) chị Tấm ơi hụp cho sâu nha
(cười… gọi vọng vào)
Dẫn truyện: Cám lấy được giỏ tép của Tấm chạy về ngay. Tấm gội đầu ra
thấy trong giỏ không cịn con tép nào. Tấm ngồi khóc…Bụt hiện ra.
Bụt: làm sao con khóc?
Tấm: Ơng là ai?
Bụt: ta là Bụt. (đến chổ Tấm, chìa ra mảnh giấy). Đây là giấy thơng hành
nghề Bụt của ta. Rồi có chuyện gì kể cho ta để ta giúp.
Tấm: hức hức… Con bắt được 1 giỏ đầy tép. Nhưng gội đầu ra đã khơng cịn
con nào.( Vừa nói vừa nấc)
Bụt: con hãy thử nhìn xem trong giỏ cịn con nào khơng?


18
Tấm: Dạ bị người ta lấy hết rồi (nhìn liếc nhanh qua giỏ)
Bụt: con nhìn kĩ lại xem
Tấm: dạ hết rồi mà

Bụt : thì ta bảo nhìn cứ nhìn đi (Trợn trịn mắt)
Tấm: (miễn cưỡng nhìn lại vào giỏ thật kĩ) Á à. Cịn sót 1 em cá bống
Bụt: con đem về thả bống xuống giếng. Mỗi ngày ăn cơm 3 bát thì nhường 1
bát cho bống. Lúc gọi bống lên ăn con phải đọc thần chú như này. (dằng hắng)
Báng báng bông bông. A nhầm. Bống bống bang bang! Lên ăn cơm vàng cơm bạc
nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
Tấm: dạ con hiểu rồi ạ. Cảm ơn Bụt.
Bụt: thôi ta đi đây.
Tấm: Bụt bay đi ngay à.
Bụt : ừ ta bay đây. (phất cây phất trần) chíu… thơi đi bộ cho chắc. (đi vào
trong)
CẢNH III
(Tấm về đến nhà, đi vào trong).
Dì ghẻ: (đứng chống nạnh trước cửa chặn đường) Tấm! đưa giỏ tép tao coi.
Tấm: (rụt rè đưa giỏ tép cho dì ghẻ)
Dì ghẻ: (cầm giỏ tép) Đồ con gái làm biếng. Đi cả 1 ngày mà không được
con nào. Tao phải đánh mày mới được.
Cám: (chạy ra) mẹ, đau chị. (Dì ghẻ ngơ ngác. Cám đưa cho dì ghẻ cái chổi
lơng gà giấu sau lưng.Thế là dì ghẻ và Cám thi nhau đánh đập Tấm).
CẢNH IV
Tấm: (từ trong đi ra giếng tay bưng 1 chén cơm) Bống bống bang bang, lên
ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
(Mẹ con Cám rình rập sau lưng. Chờ tấm vào trong nhà. Mẹ con Cám lại
bên giếng thì thầm to nhỏ.)
Dì ghẻ: khơng biết cái con Tấm nó làm gì mà thập thà thập thụt. Có cái gì
dưới giếng khơng nhỉ? (Dì ghẻ nhìn xuống giếng)
Dì ghẻ: Á aaaaa……..!
Cám: dì vậy mẹ? có cái gì vậy?
Dì ghẻ: (quay lên) đẹp quá
Cám: cái gì đẹp?

Dì ghẻ: mặt mẹ đẹp.
Cám: để con coi nào.Á aaaaa…….!


19
Dì ghẻ: cái gì nữa?
Cám: ai mà đẹp thế kia? Con…à…. 2 mẹ con đều đẹp như nhau.( cười)
Cám: thôi để con vào trong nhà lấy bát cơm ra.(Cám chạy vào gặp đúng lúc
Tấm đi ra). Mất hồn.(lạng lại về phía dì ghẻ)
Dì ghẻ: Tấm hơm nay con đi chăn Trâu cho mẹ. Cịn nữa. Chăn trâu thì chăn
đồng xa. Chớ chăn đồng gần làng bắt mất trâu.
Tấm : Dạ.
Dẫn truyện: Tấm đi rồi 2 mẹ con Cám mới thực hiện kế hoạch bắt bống. Thế
là mẹ con Cám cũng bắt được Bống rồi đi chiên giòn chấm mắm ruốc. Tấm về
không thấy Bống đâu gọi mãi chẳng lên. Bỗng có con gà mái lạng quạng đâu gần
đấy cất tiếng.
Gà: cục ta cục tác cho ta nắm thóc ta bới xương cho.
Dẫn truyện: Tấm lấy thóc cho gà. Gà bới xương lên cho Tấm. Tấm thấy
xương cá bống bèn ngồi khóc. Bụt lại hiện lên
Bụt: làm sao con khóc?
Tấm: thưa Bụt, cá bống con nuôi lâu nay ai đã cho vào nồi rồi. hu hu hu.
Bụt: con cứ bình tĩnh. Con nghe theo lời ta. Đem xương cá bống bỏ vào 4
cái hũ chôn ở 4 chân giường sau này đến khi thời cơ chín muồi ta sẽ cho con biết.
CẢNH V
( Tên lính đi rao.)
Lính: nhà vua mở hội mời bà con nội ngoại 2 bên cô chú anh chị em đến dự
hội. loa loa loa loa….( đi vào trong)
Cám: mẹ mẹ mẹ mẹ…..(thở hổn hên). Nhà …nhà vua mở hội, mẹ con mình
đi dự hội đi.
Dì ghẻ: ui giời ời. (thờ ơ) 3 cái hội ấy tao còn lạ gì. (đổi thái độ) Vào, vào

thay đồ đi thơi con
Tâm: Dì ơi! Cho con đi xem hội nhé.
Dì ghẻ: việc tao giao mày làm xong chưa mà đòi đi?
Tấm: dạ xong cả rồi.
Tấm- Dì ghẻ: Quét nhà? dạ rồi. nấu cơm? dạ xong. Giặt đồ chưa? dạ rồi. rửa
chén? dạ xong. Cho heo ăn? dạ rồi. cho gà ăn? dạ xong. Cắt cỏ cho trâu? dạ rồi.
tắm chó chưa? À nhầm nhà ko có chó. Bổ củi chưa? dạ xong hết rồi thưa dì. Ừ vậy
thì đi đi.
Tấm: (mừng rỡ) Con cảm ơm dì ạ.
Cám: Tấm khơng được đi á nha mẹ….. con không biết à nha…….


20
Dì ghẻ nói thầm: nó làm xong hết rồi thì nó đi chớ mẹ biết làm sao?
Cám: con khơng biết đâu mẹ nghỉ cách đi. Hhuhuhu
Dì ghẻ: Được rồi, để mẹ nghĩ. (Dì ghẻ đi vào trong nhà.)
(Tấm đi thay bộ đồ khác).
Cám: (nói 1 mình) lần này con Tấm mà đi thì biết đâu nó cưa được hồng tử
thì làm thế nào? Khơng được! Khơng được
Dì ghẻ (đi ra nói với Cám): Đây đây mẹ nghĩ ra rồi. Con cứ đợi đấy mẹ cho
con xem. Tấm… Tấm đâu rồi ra đây mẹ bảo.
(Tấm thay đồ xong chạy ra.)
Cám: (cười khúc khích) Đi hội với cái bộ đồ rách rưới ấy hả. xấc. (huých
Tấm 1 cái rồi quay đi)
Dì ghẻ: trước khi đi con làm cho mẹ cái này.
Tấm: gì vậy ạ?
Dì ghẻ: (bưng 2 thúng ra trút vào nhau) Con lựa cho mẹ kim cương đen với
hột xoàn trắng ra 2 rổ rồi thì muốn đi đâu đi.
Cám: (lẩm nhẩm) có thóc với gạo mà cũng bày đặt kim cương đen với hột
xồn trắng (đi vào trong cùng dì ghẻ)

CẢNH VI
(Tấm ngồi khóc bụt lại hiện lên….)
Bụt: làm sao con khóc?
Tấm: hức hức hức (nấc)
Bụt: con khơng nói thơi ta đi đây.
Tấm: (nấc) từ từ…..(nấc)… con muốn đi xem hội nhưng mà dì con bắt nhặt
ra 2 rổ thóc với gạo. Con lựa thì đến khi nào mới xong hả Bụt
Bụt: thơi được rồi, con nín đi, ta sẽ giúp con.
Tấm: đừng nói là Bụt ngồi đây nhặt ra nhé…
Bụt: con khỏi lo. Ta sẽ sai đàn chim sẻ xuống để nhặt giùm con.
Tấm: Hu hu hu… con không có đồ đẹp để đi xem hội
Bụt: con cứ yên tâm để ta tính. ( vuốt râu) Con cịn nhớ xương Bống ta bảo
con chơn ở 4 góc giường khơng? Con vào nhà đào lên. Con sẽ thấy điều kì diệu. hà
hà hà…..(Bụt đi bộ xuống sân khấu…)
Tấm: (chạy vào trong rồi chạy ra sân khấu) Ta đã có đồ đẹp rồi. Con cảm
ơn ông bụt nhiều ạ!
(Tấm đi ngang qua ,đến giữa sân khấu đánh rơi chiếc giày) .


21
CẢNH VII
(Nhà vua cùng 2 tên lính đi ngang qua. Vua vấp chiếc hài té cái rầm).
Vua: Ôi chiếc hài của ai mà đẹp thế này, nhân gian ta chưa thấy bao giờ.
Người đi nó chắc cũng phải là mỹ nhân tuyệt thế. Ta nhặt được hài tức là có duyên
đây. Các ngươi mau thông báo cho mọi người nhặt lại của rơi cho ta và ta cũng
muốn xem người đó là ai, biết đâu đây là ơng trời se duyên cho ta.
Lính: dạ em đi ngay ạ.(gọi loa) Nhà vua có chiếc giày xinh ai là mỹ nhân thì
xin lên thử. Loa loa loa loa. Nếu ai thử vừa giày sẽ được làm vợ vua. Loa loa loa
loa….
(Mọi người nơ nức kéo đến thử giày trong đó có mẹ con Cám. Nhà vua ngồi

trên)
Lính: yêu cầu mọi người xếp hàng để lần lượt vào thử giày.
Lính: Xin mời cơ Mụn…Thị…Cám…
Cám: (nũng nịu bước ra sân khấu) xin chào quí vị. Rất vui khi đến với cuộc
thi hôm nay. Em xin phép được thử giày.
Lính: khoan khoan. Cho tui phỏng vấn đôi lời. Nếu như bạn thử vừa giày và
được làm hồng hậu bạn sẽ làm gì?
Cám: Em… nếu em được làm hồng hậu thì em sẽ dành 50% số trang sức
của mình đổi ra tiền mặt để cho mua váy áo. Em sẽ xin thêm nhà vua dành 1 số
tiền cho vào quĩ mẹ em, dì em, nhà ngoại em..v..v….
Lính: nói nhiều q thử giày đi bà.
(Cám thử giày nhưng không vừa. Cô ráng hết sức cho chân vào giày cuối
cùng bị dì ghẻ xơ ra…)
Dì ghẻ: đến lượt mẹ.
(Cám nhăn nhó đi ra.)
Lính: bà kia, ai cho bà vào đây?
Dì ghẻ: tui đi thử giày. Tránh ra cho tui thử.
Lính 1: bà tên gì?
Dì ghẻ: Gạo Thị Nếp.
Lính 2: (nhìn danh sách) Gạo Thị Nếp 25 tuổi mà bà thím ở đâu ra đấy
Dì ghẻ: tao 52 khơng được à (dì ghẻ cho chân vào giày).
Nhà vua: đúng là hồng nhan bạc mệnh mà. Ta đẹp trai ngời ngợi thế này mà
xem cái lũ kia kìa. Haizz. Thơi dẹp dẹp hết đi. Về.
Tấm: (từ trong chạy ra) Ơ giày của tui, của tui (xỏ giày vừa im)


22
Nhà vua: (mở to mắt) Ơi! Người đẹp, nàng chính là định mệnh của cuộc đời
ta. I LOVE U! (giơ 2 tay ra ôm Tấm), (nhạc Khi hai ta chung một nhà vang lên)
Hết



23
3. Kịch bản An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy
Nhân vật: An Dương Vương, Trọng Thủy
CẢNH I:
(Nhạc và tiếng sóng biển dạt dào, xác Mị Châu trên bờ biển )
Trọng Thủy (chạy ra, gọi với): Mị Châu…Mị Châu…nàng ơi, (ơm xác vợ,
khóc buồn) Lỗi là tại ta, tại ta.
CẢNH II
Trọng Thủy: (thẫn thờ đi như người mất hồn, mắt bỗng tìm kiếm) Mị Châu,
nàng đâu rồi? Ta rất nhớ nàng, ta có lỗi với nàng! (Quỳ bên giếng nước) Phải nàng
khơng, nàng đừng đi, hãy đợi ta (gieo mình xuống giếng)
CẢNH III
(An Dương Vương đang ngồi trên ngai vàng, đầu cúi xuống buồn bã)
Trọng Thủy: Nhạc phụ, người có thấy hiền thê Mị Châu của con đâu không
ạ?
An Dương Vương (đứng dậy, giận dữ): Ngươi còn dám gọi ta là nhạc phụ ư,
ngươi cịn dám tìm gặp con gái ta ư?
Trọng Thủy: Nhạc phụ, xin người đừng nói như vậy! (quỳ xuống dưới chân
An Dương Vương)
An Dương Vương: (đẩy ra) ngay từ đầu, khi ngươi đến với Mị Châu, ngươi
đã vì cái mục đích xấu xa của mình rồi.
Trọng Thủy: (đau buồn) Thưa nhạc phụ, đúng là khi mới sang Âu lạc, con
chỉ vì muốn đánh cắp bí mật của Âu Lạc mà phải đóng vai con rể. Nhưng khi ở bên
Mị Châu, chính sự ngây thơ, tấm lịng trong sáng, tình cảm chân thành của nàng đã
làm tan bức tường giá băng trong con. Con thực sự rất yêu thương nàng!
An Dương Vương: (tức giận) yêu thương ư, ngươi nói từ ấy khơng biết
ngượng mồm à. Tình cảm chân thành đã làm tan chảy trái tim giá băng ư? Vậy tại
sao ngươi không cùng Mị Châu chung sống hạnh phúc, vun đắp tình giao hảo 2

nước mà lại rắp tâm đánh tráo nỏ thần, rồi 2 cha con ngươi còn mang quân sang
chiếm Âu Lạc!
Ngươi là kẻ bội bạc, là một tên gián điệp xảo trá! Cút ngay!
Trọng Thủy: (quỳ xuống) Xin người hãy hiểu cho con! (đứng dậy) Con
buộc phải lựa chọn bên hiếu, bên tình. Khi tạm biệt nàng, con cũng dặn dị nàng
rắc lơng ngỗng để mong được gặp, đoàn tụ với nàng.
An Dương Vương: Ngươi dặn Mị Châu như vậy để cha con ngươi đuổi theo
rồi đẩy ta và con gái vảo cảnh cùng đường tuyệt lộ thì đúng hơn, hư.


24
Trọng Thủy: dạ không. Trước khi con trở về nước, con đã dặn dị nàng:
“tình vợ chồng khơng thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ, ta nay trở về
thăm cha, lỡ như 2 nước thất hòa, bắc nam cách biệt, ta tìm nàng lấy gì làm dấu?”
Con khơng thể nói thẳng ra, phải mượn lời bóng gió để nhắc nàng liệu đường
chuẩn bị. Nào con có ngờ đâu chính lịng tin tuyệt đối của nàng dành cho con đã
khiến nàng không thể nhận ra ngụ ý. Thực lịng con khơng muốn chuyện xảy ra với
nàng như thế này!
An Dương Vương: (chỉ tay giận dữ) Thôi, ngươi đừng nhiều lời xảo trá.
Đừng nhắc tên con gái ta, ngươi khơng có tư cách. (đau buồn) Con gái ta trái tim
lầm chỗ để trên đầu, nỏ thần vô ý trao tay giặc, nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu. Chính
ngươi đã hại chết con gái thân yêu của ta!
Trọng Thủy: Con khơng hại chết Mị Châu. Chính Người đã chém chết nàng
bằng thanh kiếm này.(chỉ tay vào thanh kiếm)
An Dương Vương: ngươi…ngươi (đau đớn, đặt tay lên ngực, ho). Ngươi
chưa từng làm cha, làm sao ngươi hiểu được nỗi đau của một người cha phải ra tay
chém con gái yêu dấu của mình. Trái tim ta đau đớn như ngàn mũi kiếm đâm vào.
Ngươi ngẫm xem, lần theo dấu lông ngỗng, Đà vương cha ngươi có thể để Mị
Châu sống không! Mị Châu là đứa con gái duy nhất của ta nhưng cũng là một
người dân. Bất cứ ai làm hại đến vận mệnh đất nước thì mang tội bất trung, mang

tội với nước, dù có là dân hay cơng chúa. Ta là một người cha, nhưng cũng là đấng
quân vương, phải đặt quyền lợi dân tộc lên hàng đầu, khơng thể vì tình riêng mà
bao che cho con gái.
Trọng Thủy: Nhưng nàng khơng có lỗi, khơng cố ý hại vua cha, chỉ vì nàng
q tin tưởng con thơi.
An Dương Vương: Sự chủ quan, mất cảnh giác khi nước nhà lâm nguy cũng
là mang tội. Ta cũng vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã đẩy vận mệnh đất nước
đắm bể sâu. Ta có tội với nhân dân Âu Lạc. Vận nước thịnh suy, xã tắc an nguy
đều do mệnh trời, nhưng con người tu tâm, tĩnh đức mà kéo dài thời vận. Mị Châu,
con gái ta nếu một lòng trung hiếu, đời sau sẽ tỏ, cũng như ta và ngươi, hãy để đời
sau suy xét. Còn bây giờ, ngươi hãy đi đi! (đi vào trong, còn Trọng Thủy quỳ sụp
xuông, cúi đầu. nhạc nổi lên)
Hết


25
4. Kịch bản Tam đại con gà (Kịch bản lớp 10a1)
Nhân vật: Thầy đồ; Bố học trò; Mẹ học trò; Học trò 1,2,3.
CẢNH I
(Thầy đồ đeo tay nải vừa đi, vừa đọc sách. Bố mẹ học trò đi tới)
Bố học trị: Ê.. cu Tèo… cu Tèo… Đi đâu mà trơng đỏm dáng thể nhỉ?
Thầy đồ: (khó chịu, giọng bực bội) Cái nhà anh này, tôi đây là đang học trên
tỉnh về. Bây giờ chữ nghĩa của tơi là có thể dạy cho cả làng này. Anh chị đừng có
mà ăn nói suồng sã thế.
Bố học trị: (ngượng ngùng, bối rối) thì tơi đây cứ quen miệng vậy. Này, thế
cho tơi hỏi việc học cái chữ trên tỉnh có khó như vợ tơi rặn đẻ khơng vậy? (vừa nói
vừa xoa bụng bầu của vợ)
Thầy đồ: (càng bực bội) Cái nhà anh này, đương nhiên là khó gấp vạn lần
chứ lị. Rặn đẻ thì con nó ở trong bụng, rặn mãi thì nó cũng ra. Chứ học văn mà
khơng có chữ nào trong bụng thì lấy gì mà rặn hả.

Mẹ học trị: Cậu nói kể cũng phải. Thế trong bụng cậu chắc phải nhiều chữ
lắm nhỉ (lấy tay chỉ vào bụng thầy đồ)
Thầy đồ: (gạt tay mẹ học trò, vẻ mặt tự đắc) Lại chả. Tôi đây trên thông
thiên văn, dưới tường địa lí, sách Tam thiên tự tơi thuộc làu làu. Thử hỏi có cái gì
mà tơi khơng tường.
Bố học trị: vậy thì xin phép mời thầy về dạy cho bọn trẻ nhà tơi có được
khơng?
Thầy đồ: (giả vờ lưỡng lự) Tôi là tôi đang bận nghiên cứu sách thánh hiền
cơ. Thế nhưng mà… thôi được rồi, tôi sẽ sắp xếp cho anh chị. Mà từ bây giò anh
chị phải gọi tôi là thầy đồ nghe chưa? (tay vỗ ngực tự đắc).
Bố mẹ học trị: (vui mừng) Vâng, q hóa q!
CẢNH II
(Thầy đồ ngồi trên dạ học. Ba trò ngồi dưới)
Thầy đồ: (tay cầm bút viết lên giấy) Các trò, đây là chữ nhất. Còn đây là chữ
nhị. Đây là chữ tam. (Học trò đọc theo lời thầy).
Học trò 1: Thầy ơi, thế chữ vạn viết như thế nào ạ?
Thầy đồ: (vẻ mặt bối rối, thì thầm) Sao nó khơng hỏi mình chữ tứ, chữ ngũ,
mà lại hỏi chữ vạn nhỉ? Chữ vạn viết thế nào nhỉ? (Nói vói học trị) Ta sẽ dạy từ từ
cho các trò. Bây giờ mà học chữ vạn thì tối cũng chưa đến.
Học trị: vâng ạ!


×