TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
-----🙞🙞🙞🙞🙞-----
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam
Nhóm thực hiện: Nhóm 9
Lớp học phần:
Giảng viên hướng dẫn:
Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Để đánh giá cao vai trò của nhân lực Bác Hồ từng nói "Nhà nước cần phải kiến
thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài". Như vậy con người chính là nhân vật trung tâm
của xã hội, là chủ thể chân chính sáng tạo ra mọi giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ
lại chính đời sống của mình. Trong mọi hoạt động của xã hội, đặc biệt là hoạt động sản
xuất kinh tế không thể thiếu vắng bàn tay khối óc của con người. Thực tế đã chứng
minh khi Nhật Bản – có thể nói từ một đất nước nghèo tài nguyên và đối mặt thường
xuyên với thiên tai nhưng do họ biết đầu tư vào nguồn nhân lực, biết cách tận dụng
nhân tài, luôn luôn làm theo kỉ luật kỉ cương nên họ đã có được sự phát triển như hiện
nay. Điều quan trọng ở đây chính là nguồn nhân lực – con người.
Ngày nay, trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì có thể khẳng định nguồn nhân lực chính là chìa
khố của sự thành cơng. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy
nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Với một nước đang ở trình độ
thấp, kém phát triển như nước ta hiện nay thì khơng thể khơng xây dựng một chính
sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố
con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Thấy được vai trò của nguồn nhân lực cũng như những chính
sách của Đảng trong việc phát triển nguồn nhân lực thì nhóm 9 đã chọn đề tài: “Vai trò
của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam” để
có thể tìm hiểu, đánh giá kĩ càng hơn nữa về vấn đề này.
3
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía
cạnh, trước biết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho toàn xã hội. Nguồn
nhân lực bao gồm toàn bộ người dân trong độ tuổi có khả năng lao động, là một trong
ba yếu tố của tái sản xuất xã hội (công cụ lao động, sức lao động, đối tượng lao động).
Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực là thuật ngữ dùng để chỉ tất cả người làm việc trong một tổ chức
hay tất cả lao động của xã hội.
Nguồn nhân lực cịn có thể hiểu là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có
khả năng tham gia vào lao động, sản xuất, là tổng hợp những cá nhân những con người
cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ
được huy động vào quá trình lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt thể lực và trí lực. Thể lực
phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm
việc nghỉ ngơi, chế độ y tế, tuổi tác, giới tính. Trí lực bao gồm tài năng, năng khiếu
cũng như quan điểm lòng tin, nhân cách,...
1.1.2. Phân loại nguồn nhân lực
Tuỳ theo từng quan điểm và khía cạnh nghiên cứu khác nhau, nguồn lực cũng
được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành
nguồn nhân lực được chia ra thành ba loại:
- Nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động và đang có khả năng lao động. Việc quy
định giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước khác nhau.
Trong từng thời kỳ lại có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Ở nước ta quy định giới
hạn độ tuổi lao động từ 18 đến 55 (đối với nữ) và từ 18 đến 60 (đổi với nam).
- Nguồn lực tham gia hoạt động kinh tế hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
Đây là những người có công ăn việc làm và đang hoạt động trong nền kinh tế quốc
dân.
4
- Nguồn nhân lực dự trữ: nguồn nhân lực này bao gồm những người trong độ tuổi
lao động, nhưng vì lý do khác nhau nên chưa tham gia hoạt động kinh tế, song khi cầu
có thể huy động được cụ thể là:
+ Những người làm công việc nội trợ trong gia đình, đây là nguồn nhân lực đáng
kể và đại bộ phận là lao động nữ.
+ Những người tốt nghiệp các trường phổ thông trung học và chuyên nghiệp
song chưa có việc làm, là nguồn nhân lực dự trữ rất quan trọng và có chất lượng nếu
tiếp tục được đào tạo.
+ Những người vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Họ đã được rèn luyện về
sức khỏe, ý chí, đạo đức cách mạng. Vì vậy, đây là nguồn nhân lực tốt khi được sắp
xếp công việc phù hợp.
1.1.3. Đặc điểm của nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có những đặc điểm cơ bản thể hiện ở các khía cạnh như sau:
Nguồn nhân lực có đặc điểm cơ bản là khi sử dụng, trình độ lao động của mỗi
người lao động sẽ thay đổi theo các chiều hướng khác nhau. Đó là càng sử dụng lao
động, sức lao động sẽ càng tăng lên theo hướng trình độ. Hoặc càng sử dụng lao động,
sức lao động sẽ càng kém đi theo hướng trình độ. Hoặc cũng có thể việc sử dụng lao
động theo thời gian sẽ không làm thay đổi sức lao động.
Sức lao động nằm trong cơ thể sống của con người. Muốn cho người lao động có
sức lao động tốt và ngày càng tốt thì cần:
- Về tiền lương: Trả lương theo định kì sao cho người lao động có đủ tiền chi tiêu
thỏa mãn các nhu cầu của mình. Tính chất định kì phải đủ độ ngắn để đảm bảo người
lao động kịp thời trang trải cho các nhu cầu hàng ngày của mình. Tiền lương là phạm
trù xã hội và phải theo quy luật tiền lương thực tế ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người.
- Về môi trường: tạo ra môi trường lao động hợp tác sáng tạo; nhu cầu của người
lao động phải được thỏa mãn thông qua hoạt động lao động tập thể.
Thị trường lao động là thị trường cạnh tranh: cạnh tranh sử dụng lao động và
cạnh tranh tìm kiếm cơng ăn việc làm. Cơ cấu phân bổ nguồn nhân lực tại thành thị
với nông thôn, giữa các vùng miền lãnh thổ và các thành phần kinh tế với các ngành
kinh tế còn chưa hợp lý.
5
Thời đại ngày nay là thời đại nguồn nhân lực đã mang tính tồn cầu: người lao
động có quyền dịch chuyển, tham gia lao động ở nước này hay nước khác, người sử
dụng lao động cũng có quyền thuê mướn lao động ở nước này hay nước khác.
Nguồn nhân lực tại Việt Nam có năng suất lao động thấp và thu nhập thấp. Đặc
biệt trình độ văn hóa, kỹ thuật, chun mơn cũng cịn thấp và có sự bố trí không đồng
đều, sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
1.2. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa VI và Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đưa ra định nghĩa về cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”.
1.2.2. Nhận định và mục tiêu của Đảng về công nghiệp hóa – hiện đại hóa
❖ Q trình nhận thức của Đảng ta về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Thời kỳ trước đổi mới từ năm 1960 – 1986:
Vấn đề cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa lần đầu tiên được Đảng ta đề cập vào Đại
hội III của Đảng (9-1960). Các Đại hội IV (12-1976), V (2-1982) tiếp tục bàn về vấn
đề này. Nhìn chung do tác động của yếu tố chủ quan và khách quan: tiến hành cơng
nghiệp hóa trong một nửa nước, trong điều kiện có chiến tranh, trong sự giúp đỡ của
các nước XHCN…Vì vậy, Đảng khơng có điều kiện để tổng kết lại những thành cơng
cũng như hạn chế trong quá trình thực hiện để rút ra những kinh nghiệm trong giai
đoạn sau. Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu
dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống nhất và quá độ lên
CNXH. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng định
lại tại Đại hội IV của Đảng (1976). Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác
định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp
6
làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây
dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức,
nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V
coi đó là nội dung chính của cơng nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là
bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Thời kỳ đổi mới từ năm 1986 - nay: Đảng ta với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
nói rõ sự thật”… đã chỉ ra những hạn chế của công nghiệp hóa trước đây và đưa ra
nhận thức mới phù hợp với thực tiễn và thế giới.
Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của cơng nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện 3 chương trình lương thực, thực
phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ. Như vậy, đường lối chiến lược coi cơng nghiệp hóa là
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khơng đổi,
nhưng thay vì dồn sức, tập trung trực diện vào thực hiện công nghiệp hóa như trước
đây, Đảng quan tâm nhiều hơn và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của cơng
nghiệp hóa. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng về cơng nghiệp hóa.
Là điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy về cơng nghiệp hóa
ở Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng
tồn diện và sâu sắc hơn về cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 khóa VII chính thức đưa ra định nghĩa về Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Định nghĩa đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa; xác định được vai trị của khoa học, cơng
nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái cốt lõi của cơng nghiệp hóa là cải biến lao động
thủ cơng, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất
lao động cao... Định nghĩa trên đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nhận thức
của Đảng về cơng nghiệp hóa trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận
định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hóa đã cơ bản hồn
thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) và XI (năm 2011) của Đảng tiếp
tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đưa
ra quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cụ thể là: Cơng nghiệp hóa gắn với hiện
đại hóa và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ môi
7
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Lấy
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đảng đề ra nội dung và định hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm
tiếp theo thiết thực và phù hợp xu thế thời đại, tất cả nhằm mục tiêu vì con người, vì sự
phát triển bền vững, phấn đấu đến năm 2050 nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại.
❖ Quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
+ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
+ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy nguồn lực của con người làm yếu tố cơ bản cho sự nghiệp
phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội.
+ Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án
phát triển, lựa chọn phương án đầu tư vào cơng nghệ.
❖ Mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một
nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
Đảng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hồn thành mục tiêu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại;
thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về cơng nghiệp, trong đó một số ngành
cơng nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị tồn cầu. Tầm
nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.
8
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA CỦA VIỆT NAM
2.1. Nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
2.1.1. Vai trị của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn nhân lực và do nguồn lực này quyết
định.
Thứ nhất, nguồn nhân lực là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục
vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các nguồn lực khác như vốn, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ
phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn nhân lực
thơng qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, nguồn nhân lực là nguồn lực duy
nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn chúng
kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào q trình cơng
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai
thác của nguồn nhân lực, hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con
người, nếu con người biết cách tác động và chi phối đúng mục đích và hiệu quả. Ví dụ
như vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhưng vốn
chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay
những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Ngày nay trước xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực
quan trọng, nó tạo ra sự đột phá trong kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát
thấp, nhưng sức mạnh của sự đột phá này đến đâu, tác động tích cực của nó như thế
nào cịn tuỳ thuộc vào yếu tố nhân lực khi tiếp nhận nguồn lực đó. Sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa do nguồn nhân lực tổ chức, thực hiện do đó phải có sự hiện
diện của nguồn nhân lực trong cơng tác quản lý, nghĩa là phải dựa vào nguồn nhân lực.
Nếu thiếu sự hiện diện của nguồn nhân lực thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó
nguồn nhân lực lại là vơ tận. Nó khơng chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
cịn tự đổi mới khơng ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm
lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người phát triển tiến bộ trong q trình tiến hóa nhân loại. Nhờ
vậy nguồn nhân lực đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn
9
tài ngun mới, nhiều cơng cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa xã hội chuyển qua các
nền văn minh từ thấp đến cao.
Thứ ba, nguồn nhân lực trong việc phát triển công nghệ, khoa học kĩ thuật. Sự
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại
đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế
của trí tuệ. Phải nói rằng khoa học-kĩ thuật và cơng nghệ trước tiên là sản phẩm của
q trình hoạt động nhận thức của con người, là sản phẩm của sự phát triển trí tuệ con
người. Chính nguồn nhân lực đã sáng tạo ra và quyết định xu hướng tốc độ phát triển
của khoa học-kỹ thuật và công nghệ. Nguồn nhân lực quyết định sử dụng những tri
thức khoa học-kỹ thuật vào sản xuất như thế nào để hiệu quả nhất. Nguồn nhân lực sử
dụng khoa học-kỹ thuật và công nghệ để cải tạo đối tượng lao động, biến đổi giá trị
của các tài nguyên thiên nhiên, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, tư liệu lao động.
Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra
những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc tính trí tuệ của chính con
người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật cơng nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc
con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ
trong lịch sử phát triển của mình.
Thứ tư, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành cơng của q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta
cho thấy sự thành cơng của cơng nghiệp hố, hiện đại hố phụ thuộc chủ yếu vào việc
hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa sẽ khơng đạt được kết quả tốt nếu năng lực nhận thức và hoạt động thực
tiễn của nguồn nhân lực không đáp ứng đầy đủ với điều kiện cụ thể của đất nước và
bối cảnh quốc tế. Đối với những nền kinh tế nơng nghiệp chưa cơng nghiệp hố thì
mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định quy mơ
của thị trường. Nhưng khi tiến hành cơng nghiệp hố thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ
chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho q trình
cơng nghiệp hố phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các
học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành
nghề... khơng có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những
chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; khơng có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì
cũng sẽ khơng có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công
nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên
đây sẽ có hại cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
10
Qua tồn bộ phân tích trên có thể kết luận rằng nguồn nhân lực có vai trị quyết
định sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Do vậy,
muốn cơng nghiệp hố, hiện đại hố thành cơng thì phải đổi mới cơ bản các chính sách
đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển
nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
a) Giai đoạn trước khi dịch Covid-19 bùng nổ (2016-2019)
❖ Tổng quan:
Năm 2016, Việt Nam có số người trong độ tuổi lao động trên tổng dân số chiếm
75,2%, là nước đang ở giai đoạn dân số vàng, nhưng số lao động qua đào tạo có bằng
chun mơn kỹ thuật chỉ chiếm tỷ lệ chỉ 17,9% (nông thôn 11,2%). Cho thấy, chất
lượng nhân lực ở nước ta còn thấp, cơ cấu lao động bất hợp lý, đang mất sức cạnh
tranh trên thị trường lao động.
Năm 2017, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn dân số vàng, tuy nhiên chất lượng
nhân lực vẫn chưa được nâng cao.
Năm 2018, lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ
cấu lao động trẻ.
Năm 2019, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (thang điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia
được khảo sát tại châu Á. Như vậy, nhân lực nước ta còn yều về chất lượng, thiếu năng
động và sáng tạo, tác phong công nghiệp.
❖ Lực lượng lao động trung bình:
Năm 2016, lực lượng lao động trung bình cả nước năm là 54,4 triệu người, tăng
so với năm trước 461 nghìn người (0,8%). Nữ giới (48,4%) chiếm tỷ trọng thấp hơn
nam giới (51,6%). Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về tỷ trọng lực lượng lao động ở khu
vực thành thị trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn 67,9% lực lượng lao động
nước ta tập trung ở khu vực nông thôn.
11
Năm 2017, lực lượng lao động trung bình cả nước là 54,8 triệu người, tăng 378,5
nghìn người (0,7%) so với năm trước. Nữ giới (48,1%) chiếm tỷ trọng thấp hơn nam
giới (51,9%). Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về tỷ trọng lực lượng lao động ở khu vực
thành thị trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn 67,8% lực lượng lao động nước ta
tập trung ở khu vực nông thôn.
Số lượng và phân bố lực lượng lao động năm 2017
Năm 2018, lực lượng lao động trung bình cả nước là 55,35 triệu người, tăng so
với năm trước 530 nghìn người (0,96%). Nữ giới (47,8%) chiếm tỷ trọng thấp hơn
nam giới (52,2%). Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về tỷ trọng lực lượng lao động ở khu
vực thành thị trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn 67,4% lực lượng lao động
nước ta tập trung ở khu vực nông thôn.
12
Số lượng và phân bố lực lượng lao động năm 2018
Năm 2019, lực lượng lao động trung bình cả nước là 55,77 triệu người, tăng 413
nghìn người (0,75%) so với năm trước. Nữ giới (47,3%) chiếm tỷ trọng thấp hơn nam
giới (52,7%). Mặc dù có sự tăng lên về tỷ trọng lực lượng lao động ở khu vực thành thị
trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn 67,6% lực lượng lao động nước ta tập trung
ở khu vực nông thôn.
Số lượng và phân bố lực lượng lao động năm 2019
❖ Lực lượng lao động có việc làm:
Năm 2016, lực lượng lao động bao gồm 53,3 triệu người có việc làm
Năm 2017, lực lượng lao động bao gồm 53,7 triệu người có việc làm (tăng 0,4
triệu người so với năm trước)
Năm 2018, lực lượng lao động bao gồm 54,25 triệu người có việc làm (tăng 0,55
triệu người so với năm trước)
13
Năm 2019, lực lượng lao động bao gồm 54,66 triệu người có việc làm (tăng 0,41
triệu người so với năm trước)
❖ Lực lượng đã qua đào tạo:
Năm 2016, trong tổng số 54,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động của cả nước, chỉ có khoảng 11,3 triệu người đã được đào tạo, chiếm 20,9% tổng
lực lượng lao động. Cả nước có hơn 43 triệu người (chiếm 79,1% lực lượng lao động)
chưa được đào tạo để đạt một trình độ chun mơn kỹ thuật nhất định.
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2016
Năm 2017, trong tổng số 54,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động của cả nước, chỉ có khoảng 11,9 triệu người đã được đào tạo, chiếm 21,7% tổng
lực lượng lao động. Hiện cả nước còn gần 42,9 triệu người (chiếm 78,3% lực lượng
lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chun mơn kỹ thuật nhất định.
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2017
14
Năm 2018, trong tổng số 55,35 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động của cả nước, chỉ có khoảng 12,2 triệu người đã được đào tạo, chiếm 22,0% tổng
lực lượng lao động. Hiện cả nước có hơn 43,1 triệu người (chiếm 78% lực lượng lao
động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chun mơn kỹ thuật nhất định.
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2018
Năm 2019, trong tổng số 55,77 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động của cả nước, chỉ có khoảng 12,7 triệu người đã được đào tạo, chiếm 22,8% tổng
lực lượng lao động. Hiện cả nước có hơn 43,1 triệu người (chiếm 77,2% lực lượng lao
động) chưa được đào tạo để đạt một trình độ chun mơn kỹ thuật nhất định.
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo năm 2019
Như vậy, qua phân tích các năm có thể thấy nguồn nhân lực của nước ta trẻ và
dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chun mơn kỹ thuật cịn thấp.
15
❖ Tỉ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp:
Năm 2016, trong tổng lực lượng lao động cả nước có đến 0,8 triệu lao động thiếu
việc làm và lao động thất nghiệp là 1,15 triệu người. Thanh niên được xem là một
trong những nhóm lao động dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các biến động trên thị trường lao
động. Vì vậy, thất nghiệp thanh niên luôn được xem là vấn đề quan tâm của xã hội.
Trong năm 2016, số thanh niên thất nghiệp từ 15-24 tuổi đã chiếm tới 50,9% tổng số
lao động thất nghiệp cả nước.
Số lao động thiếu việc làm và số lao động thất nghiệp trên độ tuổi 15 năm
2016
Ở thời điểm này, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa
cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ
loại công việc gì, kể cả những cơng việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện
làm việc không đảm bảo nhằm ni sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài
để chờ đợi công việc tốt hơn.
Năm 2017, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 800,4 nghìn lao động
thiếu việc làm và 1,1 triệu lao động thất nghiệp. Đáng lưu ý, thanh niên thất nghiệp (từ
15-24 tuổi) hiện đã chiếm tới hơn một nửa tổng số lao động thất nghiệp cả nước (gần
50,8%). Trong năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp chung của thanh niên đã qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật từ 3 tháng trở lên đứng ở mức 15,1%. Điều này có thể do thanh
niên có trình độ chun mơn kỹ thuật cao (cao đẳng, đại học và trên đại học) tuổi chỉ
từ 20 đến 24, vừa tốt nghiệp, chưa có đủ kinh nghiệm nên khó khăn trong tìm việc làm
trình độ phù hợp.
16
Năm 2018, cả nước có hơn 1,1 triệu lao động thất nghiệp và có 729,5 nghìn lao
động thiếu việc làm từ 15 tuổi trở lên. Đáng lưu ý, thanh niên thất nghiệp (từ 15-24
tuổi) hiện vẫn chiếm tới gần một nửa tổng số lao động thất nghiệp cả nước (44,2%) và
thanh niên thiếu việc làm (từ 15-24 tuổi) hiện đã chiếm 20,1% tổng số lao động thiếu
việc làm cả nước.
Năm 2019, cả nước có hơn 1,1 triệu lao động thất nghiệp và có 648,1 nghìn lao
động từ 15 tuổi trở lên thiếu việc làm. Đáng lưu ý, thanh niên (từ 15-24 tuổi) thất
nghiệp hiện vẫn chiếm tới gần một nửa tổng số lao động thất nghiệp cả nước (42,1%),
thanh niên thiếu việc làm (từ 15-24 tuổi) hiện đã chiếm 21,8% tổng số lao động thiếu
việc làm cả nước.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, tình trạng thất nghiệp
thường cao hơn hẳn ở khu vực thành thị, trong khi vấn đề thiếu việc làm lại là phổ biến
ở khu vực nơng thơn. Chính vì vậy, các chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành
thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn thường thu hút được nhiều sự quan tâm
của các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu và các nhà dùng tin khác.
b) Giai đoạn khi dịch Covid-19 bùng nổ (2020-2021)
❖ Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam năm 2020
Dịch Covid-19 xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 1 năm 2020 đã ảnh hưởng trực
tiếp đến tình hình lao động việc làm trong các ngành và tại tất cả các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương. Tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15
tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị mất việc làm,
phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập,…
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động Quý IV năm 2020 ước tính là 48,8
triệu người, tăng 285,7 nghìn người so với quý trước và giảm 430,6 nghìn người so với
cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 16,5 triệu
người, chiếm 33,9%; lực lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động đạt 22,2 triệu
người, chiếm 45,5% lực lượng lao động trong độ tuổi của cả nước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong Quý IV năm 2020 ước tính là 54,0
triệu người, tăng 623 nghìn người so với quý trước và giảm 945 nghìn người so với
cùng kỳ năm trước. Lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp” trở lên
trong Quý IV năm 2020 ước tính là 13,0 triệu người, chiếm 24,1% số lao động có việc
làm của tồn bộ nền kinh tế, tăng 0,3% so với quý trước .
17
Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2020 là gần 1,2 triệu
người, giảm 60,1 nghìn người so với quý trước và tăng 136,8 nghìn người so với cùng
kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2020 là 2,37%,
giảm 0,13 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,33 điểm phần trăm so với cùng
kỳ năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 3,68%, tăng 0,78 điểm phần trăm so với
cùng kỳ năm trước. Đại dịch Covid-19 đã làm tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi khu vực thành thị quý IV năm 2020 cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 10 năm
qua.
❖ Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam năm 2021
Năm 2021, sự bùng phát trở lại của đại dịch Covid với những diễn biến phức tạp
ngay trong dịp Tết nguyên đán, đã làm giảm đà phục hồi của thị trường lao động đã
đạt được trước đó. Số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 49,9 triệu người, giảm
959,6 nghìn người tức giảm 1,8% so với quý trước và giảm 177,8 nghìn người tức
giảm 0,36% so với cùng kỳ năm trước.
Đơn vị: Triệu người
Số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm các quý, 2019-2021
Số lao động thiếu việc làm tăng đáng kể so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
Số người lao động thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I năm 2021 là 971,4
nghìn người; tăng 143,2 nghìn người so với quý trước và tăng 78,7 nghìn người so với
cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm 2021 là
2,2%; tăng 0,38 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,22 điểm phần trăm so với
cùng kỳ năm trước.
18
Số người và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi các quý, giai đoạn 2019-2021
Số người thất nghiệp giảm so với quý trước nhưng tăng so với cùng kỳ năm
trước. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I năm 2021 là gần 1,1 triệu
người, giảm 137,0 nghìn người so với quý trước và tăng 12,1 nghìn người so với cùng
kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I năm 2021 là 2,42%, giảm
0,21 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,08 điểm phần trăm so với cùng kỳ
năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 3,19%, giảm 0,51 điểm phần trăm so với
quý trước và tăng 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
(Đơn vị: %)
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo thành thị, nông thôn, các quý giai
đoạn 2019-2021
2.2. Đánh giá và đề ra giải pháp phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
2.2.1. Đánh giá điểm mạnh và hạn chế của nguồn nhân lực nước ta
❖ Điểm mạnh:
19
Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào: Dân số hiện tại của Việt Nam là 98.149.272
người vào ngày 22/06/2021 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Việt Nam đang
đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Như
vậy, là nước đang trong thời kỳ “dân số vàng”, nước ta có nguồn nhân lực dồi dào để
đáp ứng yêu cầu cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực qua đào tạo của Việt Nam đang tăng dần qua các năm: lực
lượng lao động của nước ta, bên cạnh số lượng đơng, dồi dào thì chất lượng lao động,
nguồn nhân lực qua đào tạo của nước ta cũng có thể được xem là thế mạnh điều đó có
được là do sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong công tác đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động đã qua
đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chỉ chiếm 22,37% (lao động có trình độ đại học trở lên
chiếm 10,82 %; cao đẳng chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm
3,08% trong tổng lực lượng lao động).
Nguồn nhân lực phân bố rộng khắp các địa phương và các ngành kinh tế: Nguồn
nhân lực nước ta làm việc trong tất cả các ngành kinh tế, từ nông nghiệp đến công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đồng thời, nguồn nhân lực nước ta cũng phân bố rộng
khắp từ thành thị đến nông thôn trên tất cả các vùng kinh tế.
Nguồn nhân lực của nước ta có lợi thế là được tiếp thu truyền thống lịch sử của
đất nước: cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao động Việt Nam được
đánh giá là thơng minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí học vẫn khá cao so với
mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơng nghệ của thế
giới. Đó là những phẩm chất giúp lao động Việt Nam phát huy vai trò trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
❖ Hạn chế:
Về thể lực: Theo kết quả điều tra của các cơ quan chức năng, mặc dù thể lực và
tầm vóc người Việt Nam có bước phát triển khá trong những năm gần đây, nhưng so
với các tiêu chuẩn chung của quốc tế thì vẫn cịn khiêm tốn, thua kém nhiều nước
trong khu vực như Thái Lan, Singapore hay như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Bởi vậy, nếu chậm được khắc phục, tình trạng này sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng
nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Về trí lực:
Bên cạnh lực lượng lao động đã qua đào tạo, nguồn nhân lực Việt Nam chưa qua
đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn (77.63%).Đây thực sự là một rào cản, một hạn chế lớn của
nhân lực Việt Nam khi hội nhập kinh tế khu vực. Đồng thời, hạn chế này đã đưa đến
20
nhiều hệ lụy khác như năng suất lao động thấp, giá trị nguồn nhân lực Việt Nam trên
thị trường lao động không cao.
Mặc dù trên thực tế, tốc độ phát triển tiếng Anh tại Việt Nam cao, nhưng nếu so
sánh với các nước sử dụng tiếng Anh thông dụng như Philippines và Singapore thì đây
khơng phải là lợi thế của nhân lực Việt Nam, chưa kể đến khoảng cách chênh lệch về
trình độ tiếng Anh giữa các địa phương, các vùng và các thành phần kinh tế là khá lớn
và cần phải có thời gian dài mới có thể khắc phục được.
Về phẩm chất đạo đức tinh thần của con người Việt Nam
Trong q trình chuyển sang thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lao
động nước ta bộc lộ những nhược điểm rất cơ bản. Từ nền sản xuất nông nghiệp tự
cung, tự cấp chuyển sang nền sản xuất hàng hóa và cơng nghiệp hiện đại, người lao
động cịn bị ảnh hưởng nặng nề tư tưởng, thói quen của nền sản xuất tiểu nơng manh
mún, thiếu tính tốn hiệu quả kinh tế, lãng phí...tác phong cơng nghiệp chưa trở thành
phổ biến, nên tính tự do, ý thức chấp hành pháp luật kỷ luật trong lao động còn yếu...
khả năng làm việc nhóm, làm việc trong mơi trường đa văn hóa, đa sắc tộc vẫn cịn
hạn chế, đặc biệt là những rào cản về văn hóa, về ngơn ngữ khi có yếu tố lao động ở
nước ngồi hoặc làm việc ở nước ngoài.
❖ Nguyên nhân nguồn nhân lực nước ta còn yếu kém
Tuy Việt Nam là nước phát triển theo hướng Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhưng nơng nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng nhất. Việc quy hoạch phát triển và
sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng, địa phương trong cả nước còn chồng
chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể, điều đó dẫn đến tình trạng “thừa”, “thiếu” nhân lực
giữa các ngành, vùng, địa phương.
Nguồn nhân lực có trình độ học vấn, chun mơn cao thường có xu hướng sống
và làm việc tại nước ngoài hơn trong nước bởi một số nước phát triển thường có chế
độ đãi ngộ cao hơn trong khi Việt Nam chưa có nhiều các chính sách khuyến khích,
động viên để tận dụng được nguồn lực này. Việt Nam chưa tận dụng hết nguồn nhân
lực tiềm năng trong nước vì Việt Nam chưa có nhiều doanh nghiệp lớn và việc xác
định nhu cầu của các doanh nghiệp hiện nay vẫn là một câu hỏi lớn đối với các cơ sở
đào tạo và cả người học. Vì đa phần các doanh nghiệp khơng có chiến lược phát triển
dài hạn và thiếu vắng kỹ năng quản trị nhân lực nên việc đặt hàng cho các cơ sở đào
tạo thường không cụ thể. Vì thế, xử lý và giải quyết vấn đề nhân lực phải xuất phát từ
tầm nhìn, chiến lược và các mục tiêu của tổ chức.
21
Trước hết, hạn chế cơ bản của nhân lực Việt Nam là lực lượng lao động Việt
Nam đông về số lượng nhưng không cao về chất lượng, năng suất lao động thấp, số
sản phẩm khoa học thực tế được ứng dụng ít. Điều này cho thấy có sự hạn chế về
khoảng cách giữa đào tạo với nhu cầu của xã hội trên cả hai phương diện là số lượng
và chất lượng. Hạn chế đó có nguyên nhân từ những khó khăn về cơ sở vật chất, nội
dung chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo… Cơ sở vật chất phục vụ cho q
trình đào tạo cịn thiếu thốn, lạc hậu và có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng miền,
giữa các địa phương, đặc biệt là các thiết bị, cơng cụ phục vụ cho thí nghiệm và thực
hành.
Nội dung chương trình đào tạo của các ngành, các bậc học tuy đã được quan tâm,
đổi mới và từng bước chuẩn hóa nhưng cho đến nay, nhiều giáo trình, nhiều mơn học
chưa được cập nhật thường xuyên, chưa được chuẩn hóa về nội dung. Nội dung
chương trình nặng về lý thuyết. Đây là vấn đề không mới của giáo dục Việt Nam.
Nguyên nhân là do thiếu sự liên kết chặt chẽ của cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, chưa
nắm bắt được nhu cầu của người sử dụng lao động, và hệ lụy của nó là sinh viên thất
nghiệp chiếm tỷ lệ cao, đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục.
2.2.2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Thứ nhất, Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế
Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực và chiến lược phát triển kinh tế
đòi hòi các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách cần nêu rõ các điều kiện
cần có của nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của kinh tế. Lấy các chính sách về
nguồn nhân lực làm thơng tin đầu vào cơ bản có định hướng, xác định đúng đắn trong
việc thực thi các hoạt động kinh tế khác.
Để thực hiện được chiến lược này cần có sự phối kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa
nhà trường (các cơ sở giáo dục- đào tạo) với các doanh nghiệp, các Bộ và ban ngành
địa phương khác. Cần lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho phát triển
kinh tế và nguồn lực khác để hoàn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay. Cụ thể là:
+ Cần xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá của Việt Nam trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Phải làm rõ cho mọi người thấy được vai trò và
trách nhiệm đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong việc thực thi các chính sách kinh
tế. Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại hóa, phù hợp với hồn cảnh Việt
22
Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế,
chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân: gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với việc thực thi các chiến lược kinh tế. Con người là chủ thể thực thi
các chính sách, chiến lược kinh tế, là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất tinh
thần. Con người làm ra các chính sách, các chiến lược, phát triển và ứng dụng khoa
học , công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, cần phát triển giáo dục,
đào tạo nguồn nhân lực để có một chất lượng đầu ra cao, đảm bảo những yêu cầu ngày
càng khắt khe của thị trường trong thời kì mới, phù hợp và đáp ứng có hiệu quả trong
việc thực thi các chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
+ Đào tạo nguồn nhân lực phải dựa trên cơ sơ của quá trình phát triển kinh tế.
Tức là phải thực hiện song song hai quá trình phát triển. Nguồn nhân lực được đào tạo
ra phải phục vụ cho nền kinh tế. Vì vậy, phải đáp ứng đủ các yêu cầu mà nền kinh tế
cần.
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật
tốt giữa đào tạo nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực theo hướng đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Nói cách khác, chất lượng nguồn lao động phải phục vụ cho chiến lược
kinh tế để đạt được mục tiêu nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Thứ hai, Về chính sách xã hội.
Về mặt xã hội cần có các chính sách thực hiện dân chủ, cơng bằng xã hội, giải
quyết đúng đắn vấn đề lợi ích. Mặt khác cần có hệ thống pháp luật rõ ràng, nghiêm
minh, bảo đảm an ninh trật tự, chống tham nhũng để tạo ra lòng tin cho người lao động
an tâm làm việc, nghiêm cấm làm giàu bất chính. Các doanh nghiệp cũng cần kết hợp
với nhà nước có các giải pháp kích thích tích cực của người lao động.
Bên cạnh đó cần có các chính sách tăng cường phúc lợi cho người lao động, nâng
cao thu nhập bằng việc thay đổi điều chỉnh mức lương, nhất là tiền lương tối thiểu đảm
bảo mức sống cho người lao động. Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý nhà nước
để người dân có điều kiện tham gia vào cơng việc nhà nước khắc phục tình trạng trì
trệ, bảo thủ trong một số cơ quan nhà nước.
Song song với đó, Việt Nam cần tận dụng hiệu quả nguồn nhân lực tiềm năng của
đất nước để tránh tình trạng lãng phí nguồn nhân lực này đồng thời nguồn nhân lực
23
này cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
nền văn minh của đất nước. Vì vậy Chính phủ và Nhà nước cũng cần có những chính
sách khuyến khích, động viên, quan tâm hơn đến nguồn nhân lực tiềm năng của đất
nước.
Thực hiện biện pháp làm giảm dần khoảng cách chệnh lệch giữa các tầng lớp dân
cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ nghèo, gia đình khó khăn, gia đình
chính sách, vùng sâu vùng xa... làm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả
y tế, giáo dục, văn hố... Thực hiện chính sách xố đói giảm nghèo, tập trung giải
quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm, trên cơ sở đó người lao động mới
có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có mơi trường rèn luyện
phấn đấu, cống hiến hết sức mình cho đất nước.
Thứ ba, Về giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo đóng vai trị chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân
cách của tuổi trẻ, làm tăng đáng kể yếu tố sáng tạo của họ, giúp thanh niên thực hiện tư
cách chủ thể tích cực của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó tạo nguồn và
nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực trẻ đảm bảo đủ khả năng đưa đất nước phát triển
trên một trình độ chất lượng cao. Đầu tư cho giáo dục thanh niên là đầu tư có lãi nhất
vì đó là đầu tư cho phát triển tài năng trẻ. Việc thực hiện ưu tiên giáo dục-đào tạo cho
thanh niên sẽ tạo ra sự phát triển mới về năng lực nội sinh của đất nước, tạo điều kiện
cho giáo dục phục vụ cho giáo dục, kinh tế, xã hội, đảm bảo thắng lợi phát triển cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để có bước chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ, phải đổi mới
nội dung, phương pháp giáo dục và quản lý hoạt động giáo dục-đào tạo, mà thực chất
là chuẩn bị và thực hiện một chiến lược cải cách giáo dục, hiện đại hóa giáo dục.
Muốn vậy, phải chú trọng giáo dục toàn diện theo cấu trúc nguồn nhân lực trẻ. Giáo
dục - đào tạo phải dựa trên một sự tổng hợp cao, với quan điểm gắn quyền lợi cá nhân
với trách nhiệm xã hội. Giáo dục phải được xã hội hóa, song phải chú ý đến mối quan
hệ giữa 3 yếu tố: quy mô, chất lượng, hiệu quả, trong đó chất lượng, hiệu quả giáo dục
cần được đặt lên hàng đầu. Giáo dục phải theo hướng kết hợp dạy người, nghề, trong
đó, dạy người là mục tiêu cao nhất. Hơn bao giờ hết, mục tiêu của công tác giáo dụcđào tạo là phải nỗ lực tạo ra bước chuyển biến về chất nguồn nhân lực thanh niên,
chuẩn bị cho họ một hành trang tồn diện cả về trí lực, đức, tài đủ sức thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ tư, bảo đảm nguồn lực tài chính.
24
Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà nước dành cho phát triển nhân lực
quốc gia. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung
đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện
cơng bằng xã hội. Đẩy mạnh xã hội hố để tăng cường huy động các nguồn vốn cho
phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức:
+ Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục
thể thao
+ Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy vai
trị, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực
+ Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho
phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ
phát triển nhân lực (ODA)
+ Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư
trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Thứ năm, Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam cần mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế thông qua sứ quán các
nước tại Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ, các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt
động trên địa bàn các tỉnh nhằm tăng cường hoạt động đào tạo, chuyển giao nhân lực,
gửi lao động đi đào tạo ở nước ngoài và xuất khẩu lao động. Tổ chức cung cấp thông
tin, các hoạt động tuyên truyền, các cuộc hội thảo về du học nước ngồi để học sinh có
thêm cơ hội chọn lựa cho tương lai.
25