Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân huyện cẩm thủy, tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.34 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN VI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2018


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN VI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng

Nghệ An, 2018




2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thời gian thực hiện đề tài, với sự tận tâm
hướng dẫn của Thầy, Cô giáo, em đã được trang bị cho mình những kiến thức lý
luận hết sức bổ ích của chuyên ngành chính trị học để vận dụng vào thực tiễn
công tác, đây là những kiến thức vô cùng quý báu. Nhân đây, em xin chân thành
cảm ơn trường Đại học Vinh và trường Đại học văn hóa - du lịch Thanh hóa đã
tạo mơi trường và điều kiện để cá nhân em hồn thành khóa học và đề tài này.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS.TS. Nguyễn
Lương Bằng đã hướng dẫn tận tình và giúp em hồn thành đề tài.
Do vốn kiến thức và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, Luận văn
chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Vì vậy rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm
góp ý, giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo, Hội đồng bảo vệ luận văn để bản thân bổ
khuyết, hoàn chỉnh đề tài được tốt hơn nhằm vận dụng vào thực tiễn cơng tác.
Xin trân trọng cảm ơn !
Thanh hóa, ngày 28 tháng 8 năm 2018
Học viên

Nguyễn Văn Vi


3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa....................................................................................................... 01
Lời cảm ơn........................................................................................................... 02
Mục lục ................................................................................................................ 03
Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................... 05

Danh mục các bảng, biểu……………………………………………………….06
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 07
B. NỘI DUNG ................................................................................................... 15
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ................................................................. 15
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài .............................. 15
1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp
huyện .................................................................................................................. 23
1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện .......................... 28
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 43
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA ......................... 45
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội huyện Cẩm
Thủy, tỉnh Thanh Hóa ....................................................................................... 45
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm
Thủy, tỉnh Thanh Hóa ........................................................................................ 50
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 80


4
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY,
TỈNH THANH HÓA ........................................................................................ 82
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
huyện Cẩm Thủy ................................................................................................ 82
3.2. Một số giải pháp cơ bản về nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa ............................... 87
Kết luận chương 3 ............................................................................................ 104
C. KẾT LUẬN ................................................................................................ 106
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 108



5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân


6

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU


Trang
Bảng 2.1. Số lượng và cơ cấu đại biểu HĐND huyện Cẩm Thủy nhiệm
kỳ 2011-2016
Bảng 2.2. Số lượng và cơ cấu đại biểu HĐND huyện Cẩm Thủy nhiệm
kỳ 2016-20216
Bảng 2.3. Chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND huyện Cẩm Thủy nhiệm kỳ
2016-2021
Bảng 2.4. Thành viên Ban pháp chế HĐND huyện Cẩm Thủy nhiệm kỳ
2016-2021
Bảng 2.5. Thành viên Ban kinh tế - xã hội HĐND huyện Cẩm Thủy
nhiệm kỳ 2016-2021
Bảng 2.6. Thành viên Ban dân tộc HĐND huyện Cẩm Thủy nhiệm kỳ
2016-2021

51

52

53

54

54

55


7
A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay, vấn đề tiếp
tục kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân các cấp là yêu cầu tất yếu, khách quan. Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân các cấp là yêu cầu cần thiết hiện nay. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ “ Tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện các chính sách trong
phạm vị được phân quyền” [11, tr 251.].
Với hai chức năng cơ bản đó là: chức năng quyết định những vấn đề quan
trọng của địa phương và chức năng giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp
luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, trong đó chức năng
giám sát có vị trí, vai trị hết sức quan trọng, một mặt đảm bảo cho Hội đồng
nhân dân thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, mặt khác thông qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
giúp cho cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương thực hiện đúng, đầy đủ các
chính sách, các quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội
đồng nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những nội dung quan trọng
để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Trong những năm qua, Hội đồng nhân dân các cấp đã không ngừng đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả thực hiện các chức


8
năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của từng địa phương.
Trong đó hoạt động giám sát có nhiều đổi mới, đạt được hiệu quả nhất định góp
phần từng bước khắc phục hình thức trong hoạt động của Hội đồng nhân dân nói
chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta, từ năm 1962
đến nay, Hội đồng nhân dân được tổ chức ở tất cả các cấp chính quyền địa
phương với xu hướng đề cao vị trí chính trị, pháp lý của Hội đồng nhân dân.
Tuy nhiên, tổ chức cũng như hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp vẫn cịn
những hạn chế. Do đó đã có những ý kiến cho rằng khơng cần thiết phải có Hội
đồng nhân dân, vì hoạt động của Hội đồng nhân dân chỉ mang tính hình thức,
làm cho bộ máy thêm cồng kềnh, tốn kém và trong nhiệm kỳ 2011- 2016, thực
hiện chủ trương của Trung ương chúng ta đã thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương không có tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận,
phường. Sau một thời gian thực hiện thí điểm tại các địa phương trên, hoạt động
của bộ máy chính quyền đạt được một số kết quả nhất định, song cũng nảy sinh
những hạn chế, bất cập đặc biệt là hoạt động giám sát.
Từ những bất cập trên, Hiến pháp 2013 quy định: Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định [39, tr. 113.].
Trên cơ sở Hiến pháp 2013, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng khẳng định “Hồn thiện tổ chức mơ hình chính quyền địa phương
phù hợp với đặc điểm ở nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính theo luật
định” [9, tr 180.].


9
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quy định của Hiến pháp 2013, luật
tổ chức chính quyền địa phương quy định chi tiết tổ chức bộ máy, chức năng

nhiệm vụ của chính quyền địa phương trong đó có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân; luật hoạt hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy
định hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Trong thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện nói chung,
hoạt động giám sát nói riêng thời gian qua đạt được kết quả bước đầu, nhưng
cịn bộc lộ nhiều hạn chế, cịn mang tính hình thức, cách thức tổ chức giám sát
chưa khoa học, năng lực giám sát còn yếu kém, nội dung, phương thức chưa có
nhiều đổi mới, việc theo dõi, đơn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát
cịn thiếu tính quyết liệt dẫn đến làm giảm hiệu quả, hiệu lực giám sát của Hội
đồng nhân dân.
Vấn đề đặt ra hiện nay cho chúng ta là phải tăng cường, củng cố để hoạt
động của Hội đồng nhân dân ngày càng thực chất và có hiệu lực, hiệu quả hơn,
đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới, nhất là nâng cao hiệu quả, hiệu lực giám
sát của Hội đồng nhân dân là rất cần thiết để Hội đồng nhân dân thực sự là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Việc nghiên cứu hoạt động giám sát và chất lượng hiệu quả giám sát của
cơ quan dân cử ở nước ta được đề cập nhiều trên sách, báo, tạp chí và nhiều
cơng trình khoa học với nhiều góc độ, phạm vi khác nhau như: GS,TS Hồng
Chí Bảo (Chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Ở đây các tác giả đã đề cập đến việc thay đổi
cơ cấu Hội đồng nhân dân xã, tăng cường số lượng đại biểu là dân, là quần
chúng ngoài Đảng, áp dụng những biện pháp tăng thẩm quyền của Hội đồng
nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát Ủy ban nhân dân...PGS,TS Vũ Hồng
Cơng, Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách tác giả bàn về hệ thống chính trị ở


10
cơ sở, trong đó có đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện Hội đồng nhân dân xã cho phù
hợp với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và việc thi hành quyền làm

chủ của nhân dân.
Ths Nguyễn Hoàng Anh, “Tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã trong
giai đoạn hiện nay”, Dân chủ và Pháp luật, số 5/2003. Tác giả đã khái quát thực
trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã thời gian qua, nguyên nhân và đưa ra
một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã.
Nguyễn Hải Long, Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân,Luận án Tiến sĩ (2012);Đỗ Thị Phương,Hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ (2009);Trần Thị Liên,
Hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn,Luận văn
Thạc sĩ (năm 2011);Phạm Quang Hưng, Năng lực thực hiện chức năng giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương đối với quản lý hành chính nhà nước về
đất đai, Luận văn Thạc sĩ (năm 2007); PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng, Giám
sát, phản biện xã hội của mặt trận và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Đại học Sài Gịn, số 13/ 2013; PGS.TS. Phạm Hồng Thái, Một
số vấn đề về vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân, Tạp chí Quản lý nhà nước
số 9/2002; GS.TS. Đào Trí Úc, Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước và các cơ chế thực hiện giám sát, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
6/2003;Ths. Hà Ngọc Anh,Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí khoa học chính trị, số 6/2014;
Ths.Bùi Giang Hưng, Nguyên tắc, nội dung, hình thức và phương pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, Tạp chí khoa học chính trị số
1+2/2015; Ths. Bùi Giang Hưng,Một số ý kiến về tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh ở nước ta, Tạp chí khoa học chính trị số
3/2015; Nguyễn Hải Long, Bàn về quy định Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín
nhiệm, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2010; Bùi Xuân Đức, Tăng cường hoạt


11
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân và
nhân dân đối với bộ máy nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2004;

Phan Tuấn Khải, Tổ chức và hoạt động của HĐND trong điều kiện hiện nay,
Nghiên cứu lập pháp, số 6/2002; Nguyễn Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của
HĐND đáp ứng sự mong đợi của nhân dân, Tạp chí quản lý Nhà nước số 6/2005.
Bùi Xuân Đức “Bàn về tổ chức của Hội đồng nhân dân trong điều kiện
cải cách bộ máy nhà nước hiện nay”,Nhà nước và Pháp luật, số 12/2003. Đinh
Ngọc Giang, “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2004 - 2009”, Quản lý nhà nước, 2/2005. TS Phan Tuấn Khải, “Tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong điều kiện hiện nay”, Nghiên
cứu lập pháp, số 6/2002.
TS Nguyễn Thị Hồi, “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 1/2004. Trương Đắc Linh, “Tổ chức và hoạt
động của các ban của HĐND”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003. Ths
Nguyễn Quốc Tuấn, “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND
và UBND các cấp”, Tổ chức nhà nước, số 4/2004...
Các luận án, luận văn, bài viết đã góp phần làm rõ cơ sở pháp lý về vị trí,
chức năng và hoạt động của Hội đồng nhân dân, phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động của Hội đồng nhân dân ở một số địa phương cụ thể. Đồng thời, các
cơng trình nghiên cứu cũng đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, các
bài viết, cơng trình trên chủ yếu từ góc độ tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân, chưa đi sâu vào hoạt động giám sát cũng như chất lượng, hiệu quả
giám sát của Hội đồng nhân dân và các bài viết viết trước khi Luật hoạt động
giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 ban hành (Luật có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016) đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra cả về lý luận và
thực tiễn.


12
Vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và vấn đề đổi mới tổ chức
hoạt động của Hội đồng nhân dân nói riêng được rất nhiều nhà khoa học quan

tâm nghiên cứu nhưng các cơng trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận Hội đồng
nhân dân từ góc độ Nhà nước và Pháp luật một cách khái quát, cịn ở góc độ
Chính trị học, khi đặt vấn đề tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong
môi trường dân chủ và thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay thì chưa có
một tác giả nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện.
Nhận thức được yêu cầu bức thiết trên, qua thời gian được học tập chương
trình sau đại học chuyên ngành chính trị học của trường Đại học Vinh, được tiếp
thu những kiến thức lý luận cùng với những kinh nghiệm trong q trình cơng tác
tại cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân huyện càng làm cho tôi thấy rõ hơn
về tầm quan trọng hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung, hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân nói riêng trên địa bàn huyện Cẩm Thủy trong giai đoạn
hiện nay. Với những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa
trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về khái niệm, đặc điểm,
vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện. Trong đó trọng tâm là đi sâu
phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Cẩm Thủy - tỉnh Thanh Hóa, từ đó tìm ra các ưu điểm, hạn chế, ngun nhân
của những hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới và
nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu


13
- Luận văn nghiên cứu làm rõ khái niệm; các quy định của pháp luật về
đặc điểm, chức năng, yêu cầu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, từ đó tìm ra ưu điểm và ngun nhân của những

mặt cịn hạn chế.
- Đề ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện trong giai đoạn hiện nay nói
chung, Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2011
đến năm 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về Hội đồng nhân dân, chức năng giám sát của Hội đồng
nhân dân.
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu tác giả còn sử dụng các phương pháp
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung, hoạt động
giám sát nói riêng.....


14
6. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu Luận văn góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận và
quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện
nói chung và huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Qua đó đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp huyện nói chung, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hố nói riêng
trong giai hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia làm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp huyện.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.


15
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm Hội đồng nhân dân
Theo quy định tại điều 113 Hiến pháp 2013 “ Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên” [39, tr114].
Cụ thể hóa Hiến pháp 2013. Luật tổ chức chính quyền địa phương tại điều
6 quy định “ Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri
địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân và cơ quan Nhà nước cấp trên” [43, tr.10].
Như vậy, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, do Nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của địa phương đó. Trong tổ chức bộ máy nhà nước thì Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thay mặt Nhân dân địa phương thực

hiện quyền lực Nhà nước. Tính quyền lực của Hội đồng nhân dân được thể hiện
ở quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát việc tuân
theo Hiến pháp, pháp luật và thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân ở địa
phương.
Hội đồng nhân dân là cầu nối cho mối liên hệ giữa Nhân dân địa phương
với cơ quan Nhà nước, là cơ quan do Nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra để
thay mặt Nhân dân địa phương quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống
của Nhân dân địa phương đó, đồng thời giám sát việc thực hiện các quy định của
cơ quan Nhà nước cấp trên, là trung tâm điều hòa, phối hợp hoạt động của các


16
cơ quan Nhà nước ở địa phương, thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân,
Nhân dân tham gia vào quản lý Nhà nước và quản lý xã hội ở địa phương.
Xét về tính chất của Hội đồng nhân dân, thì Hội đồng nhân dân vừa mang
tính đại diện, vừa mang tính quyền lực Nhà nước ở địa phương. Tính đại diện
thể hiện ở chỗ, Hội đồng nhân dân là cơ quan duy nhất ở địa phương do cử tri
bầu ra theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, tính chất
đại diện của Hội đồng nhân dân về mặt hình thức thể hiện rõ nét nhất đó là, Hội
đồng nhân dân có cơ cấu đại biểu thuộc mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội,
điều đó có nghĩa Hội đồng nhân dân khơng đại diện cho đảng phái, tổ chức nào,
mà đại diện cho toàn thể Nhân dân địa phương, thành phần trong Hội đồng nhân
dân thể hiện khối đại đồn kết tồn dân, tính chất đại diện của Hội đồng nhân
dân khác với tính chất đại diện của Quốc hội, bởi vì Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước,
cịn Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện do Nhân dân địa phương bầu ra,
đồng thời chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước
cấp trên.
Tính đại diện và vị trí cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương của Hội

đồng nhân dân có quan hệ biện chứng với nhau, tính đại diện là tiền đề để Hội
đồng nhân dân trở thành cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, bởi Nhà
nước ta là Nhà nước của dân, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, và chỉ khi Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương mới có đủ quyền
năng để đại diện cho Nhân dân, thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề
quan trọng của địa phương.
Với vị trí, tính chất nêu trên, Hội đồng nhân dân có chức năng quan trọng
đó là: Chức năng quyết định và chức năng giám sát, điều này được quy định cụ
thể tại khoản 2 điều 113 Hiến pháp 2013 “ Hội đồng nhân dân quyết định các
vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp


17
luật ở địa phương và việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cụ thể
[39, tr 114.]. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương và biện pháp quan
trọng để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương nhằm mục đích phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phịng – an ninh, khơng ngừng cải thiện, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân địa phương, giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế
- xã hội, việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát hoạt động
của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Thi
hành án dân sự cùng cấp...
Tóm lại: Hội đồng nhân dân là một trong hai chủ thể cấu thành Chính
quyền địa phương, Hội đồng nhân dân vừa là cơ quan trong bộ máy Nhà nước,
vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho Nhân dân địa phương có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của địa phương đó, nhằm phát huy tiềm năng của
địa phương để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, đồng
thời giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội để các quy định pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, cơ quan Nhà nước cấp trên được thực thi đúng, đầy đủ, cũng như việc tổ
chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

1.1.2. Khái niệm giám sát, giám sát của Hội đồng nhân dân, giám sát
chuyên đề
1.1.2.1. Khái niệm giám sát
Theo từ điển tiếng việt giám sát là “Theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm
vụ”. Theo điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015 “ Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo
thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý” [45, tr.8].


18
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ giám sát có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là
việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm, thực
hiện đúng hay chưa đúng nhiệm vụ được quy định, để từ đó có biện pháp điều
chỉnh hoặc xử lý đối với những việc làm sai, nhằm đạt được mục đích xác định
trước, bảo đảm cho các quy định được thực hiện đúng, đầy đủ, hiệu quả.
Với các nội dung nêu trên cho thấy:
- Giám sát đây là hoạt động có mục đích, thể hiện tính chủ động của chủ
thể thực hiện giám sát, hoạt động giám sát được thực hiện thường xuyên, theo
chương trình, kế hoạch cụ thể, hoạt động giám sát được tiến hành trên những
căn cứ do pháp luật quy định.
- Giám sát luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, thể hiện mối quan hệ
giữa một bên là chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và một bên là đối tượng
chịu sự giám sát, đây là mối quan hệ mang tính quyền lực Nhà nước và là quy
định hết sức quan trọng, bởi vì nếu thiếu tính quyền lực trong hoạt động giám
sát thì chủ thể giám sát khơng có cơ sở để thực hiện quyền giám sát của mình, và
khơng bắt buộc đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện các kết luận giám sát
của mình.

- Giám sát, được chia thành hai giai đoạn chủ yếu: giai đoạn theo dõi, xem
xét và giai đoạn đánh giá hoạt động để đưa ra kết luận. Trong hai giai đoạn thì
giai đoạn theo dõi, xem xét là cơ sở để đánh giá hoạt động. Nếu giai đoạn theo
dõi, xem xét, kiểm tra mà làm tốt thì sẽ giúp cho việc đánh giá hoạt động của
các đối tượng chịu sự giám sát khách quan, đúng thực tế và khi đưa ra kết luận
sẽ chính xác, và cuộc giám sát sẽ đạt được mục đích, hiệu quả và ngược lại.
1.1.2.2. Giám sát của Hội đồng nhân dân
Theo quy định tại khoản 6 điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân năm 2015 thì “ Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm
giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng


19
nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và
đại biểu Hội đồng nhân dân."[45. Tr 9].
Như vậy, giám sát của Hội đồng nhân dân là tổng thể giám sát của Hội
đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân,
Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân để theo dõi,
xem xét, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đề ra trên tất cả các
lĩnh vực đối với các đối tượng chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân.
Để thực hiện chức năng giám sát, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định, Hội đồng nhân dân được thực hiện
năm nội dung giám sát tại điều 57, trong đó hoạt động giám sát chuyên đề là một
trong năm nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân.
Theo khoản 4 điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân quy định “ Giám sát chuyên đề là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem
xét, đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hoạt động giám sát chuyên
đề của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua việc thành lập đoàn giám

sát của Hội đồng nhân dân, của Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của
Hội đồng nhân dân có sự tham gia của đại biểu Hội đồng nhân dân với tư cách là
thành viên của đoàn giám sát. [ 45, tr.8].
Hiệu quả giám sát
Theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, hoạt động Hội đồng nhân dân rất đa dạng, liên quan nhiều lĩnh vực, có
những đánh giá mang tính định tính, đồng thời cũng có những đánh giá, kết luận
mang tính định lượng, do đó việc đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân là cơng việc khó khăn nhất định, phải có cách nhìn từ nhiều khía cạnh khác
nhau thì mới thấy được hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
trong việc thực thi Hiến pháp, pháp luật, các cơ chế, chính sách của Nhà nước và


20
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Việc đánh giá hiệu quả giám sát cần phải
được xem xét trên nhiều phương diện cụ thể đó là:
Thứ nhất, Tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát so với
trước khi có hoạt động giám sát. Để đánh giá hoạt động của cơ quan Nhà nước
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, trước hết cần phải căn cứ tình hình
kinh tế - xã hội, đây là căn cứ đầu tiên phải xem xét, bởi vì tất cả các hoạt động
của cơ quan, đơn vị suy cho cùng khơng ngồi mục đích nhằm phát triển kinh tế
- xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, thông qua hoạt động giám sát, Hội đồng
nhân dân không những chỉ có quyền kiến nghị với Ủy ban nhân dân, các ngành
có liên quan mà có thể kiến nghị với các cơ quan Nhà nước cấp trên về những
bất cập, hạn chế của các cơ chế, chính sách đã ban hành, cũng như đề xuất các
cơ chế, chính sách mới phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.
Do vậy, muốn biết hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân có mang lại hiệu
quả hay khơng, thì cần phải so sánh tình hình kinh tế - xã hội của đại phương
sau khi có hoạt động giám sát với trước khi có hoạt động giám sát, nếu sau khi
triển khai tổ chức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, tình hình thực thi

pháp luật tốt hơn, kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân
dân được nâng lên thì điều đó cho thấy hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân đã mang lại hiệu quả và ngược lại. Tuy nhiên sự đánh giá hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân cũng ở mức độ tương đối, bởi vì ngồi yếu tố tích cực
của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với phát triển kinh tế - xã
hội, thì cịn phụ thuộc vào tác động tổng hợp của nhiều yếu tố quan trong khác.
Thứ hai, Xem xét mức độ đạt được của mục đích giám sát: Cũng giống
như hoạt động khác, khi tiến hành giám sát Hội đồng nhân dân phải xác định
đúng mục đích của hoạt động giám sát được thể hiện nhiều cấp độ khác nhau.
Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào thì mục đích của giám sát là việc đảm bảo cho hoạt
động đúng đắn, minh bạch, liên tục của từng cá nhân trong bộ máy Nhà nước
nói chung trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật, mặt khác tùy thuộc


21
vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đối tượng bị giám sát, Hội đồng
nhân dân đề ra mục đích giám sát cụ thể khác nhau. Căn cứ vào tình hình kinh tế
- xã hội của địa phương, Hội đồng nhân dân xây dựng chương trình giám sát
hàng năm và thực hiện chương trình đó theo mục đích đề ra, do đó để đánh giá
hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thì phải xem xét mức độ đạt được của
mục đích giám sát, bởi vì mục đích của giám sát là điều mà mọi thành viên của
đoàn giám sát khi tiến hành giám sát đều hướng tới và mong muốn đạt được. Vì
vậy, mục đích trở thành tiêu chuẩn, thước đo cho việc đánh giá hiệu quả của
hoạt động giám sát, tuy nhiên trong quá trình hoạt động giám sát thì mục đích đề
ra cho từng cuộc giám sát phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do
pháp luật quy định cho đối tượng bị giám sát và phải phù hợp với Nghị quyết
Hội đồng nhân dân cũng như yêu cầu thực tiễn đề ra.
Thứ ba, Kết quả đạt được do tác động của giám sát: Một trong những vấn
đề quan trong để đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân là phải căn
cứ vào kết quả thực tế đặt ra do tác động của hoạt động giám sát mang lại. Muốn

vậy, kết thúc mỗi cuộc giám sát Hội đồng nhân dân phải xác định được kết quả
cụ thể trong cuộc giám sát đó, nếu làm được điều này thì tránh được tính hình
thức trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, đây là một tiêu chí phức
tạp, vì kết quả thực tế do giám sát của Hội đồng nhân dân mang lại nhiều khi
không thể hiện bằng yếu tố định lượng mà cịn cả yếu tố định tính, hơn nữa Hội
đồng nhân dân có phạm vi giám sát rộng, những biến đổi do sự tác động giám
sát của Hội đồng nhân dân nhiều khi không chỉ phát sinh trực tiếp từ đối tượng
bị giám sát mà còn ảnh hưởng đến đối tượng có liên quan. Do đó, để xác định
được hiệu quả thực tế từ tác động của hoạt động giám sát, địi hỏi phải có quan
điểm tồn diện, cụ thể, đồng thời phải có những phương pháp đúng đắn để thu
thập được nhiều nguồn thông tin và tư liệu khác nhau.
Thứ tư, Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra: Nếu theo cách tiếp cận
“Hiệu quả chính là chỉ số so sánh giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra” thì khi


22
đánh giá hiệu quả phải tính tốn đến những chi phí để đạt được hiệu quả đó, chi
phí ở đây bao gồm cả về vật chất và tinh thần cũng như số lượng người tham
gia, thời gian tiến hành bao lâu... Tất cả những phí tổn cho hoạt động giám sát
đều cần ở mức độ thấp nhưng phải đủ đảm bảo cho các chủ thể giám sát phát
huy tốt vai trị, nhiệm vụ và năng lực của mình để đạt được ở mức độ cao nhất,
điều này có nghĩa là qúa trình giám sát phải hết sức tiết kiệm và biết lựa chọn
những phương pháp ít tốn kém để đạt được mục đích đề ra. Mặc dù vậy, giám
sát là một hoạt động chủ yếu mang tính xã hội nên để tính hiệu quả thu về so với
chi phí bỏ ra là điều khó khăn, phức tạp, bởi yếu tố vừa định tính, vừa định
lượng khơng thể hiện trong kết quả thu về mà ngay cả trong đầu tư, chi phí bỏ
ra, vấn đề quan trọng phải biết tính đặc thù của hoạt động giám sát để vận dụng
cho phù hợp.
Trong hoạt động giám sát tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã hội,
có những cuộc giám sát nếu xét dưới góc độ kinh tế thì khơng mang lại lợi ích

tích cực, nhưng dưới góc độ xã hội thì mang lại hiệu quả rất lớn, một số lĩnh vực
nếu được giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích cực vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà cịn có tác dụng to lớn trong việc
chấn chỉnh các vấn đề xã hội. Do đó khi xem xét hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân, phải xem xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của hoạt
động giám sát.
Để thực hiện dấu hiệu đặc trưng của nhà nước dân chủ? Về vấn đề này,
C.Mác nhấn mạnh rằng, “dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì
luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là
luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con
người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của
chế độ dân chủ là như vậy”[37, tr. 491]. Để hoạt động giám sát có hiệu quả thì
trong q trình giám sát cần quan tâm lựa chọn nội dung giám sát, giám sát có
trọng tâm, trọng điểm và sát thực tiễn, đổi mới phương thức giám sát, phương


23
thức chất vấn và trả lời chất vấn, nhằm nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của
hoạt động chất vấn, đề cao trách nhiệm của cơ quan trả lời chất vấn..; mặt khác
hiệu quả hoạt động giám sát còn tùy thuộc vào kết quả của việc thực hiện các ý
kiến, kiến nghị sau giám sát của đối tượng bị giám sát. Do vậy đòi hỏi Hội đồng
nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân, Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân phải theo dõi, đôn đốc
đối tượng chịu sự giám sát thực hiện các kiến nghị, để các kiến nghị được thực
hiện một cách nghiêm túc thì khi đấy hiệu quả giám sát mới đạt mục đích đề ra.
1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và mục đích hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp huyện
- Nhiệm kỳ 2011 – 2016: Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện

như sau.
+ Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân: Tối đa không quá 40 đại biểu
+ Về Thường trực Hội đồng nhân dân gồm: Chủ tịch, 01 Phó chủ tịch, 01 Ủy
viên thường trực Hội đồng nhân dân huyện; trong đó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
hoạt động kiêm nhiệm, Phó chủ tịch và Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân
huyện là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
+ Về số lượng các Ban của Hội đồng nhân dân: Hội đồng nhân dân cấp
huyện được thành lập hai ban gồm Ban kinh tế - xã hội và Ban pháp chế; Ban của
Hội đồng nhân dân huyện có Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành viên, số
lượng thành viên của mỗi ban do Hội đồng nhân dân huyện quyết định; thành viên
các ban đều hoạt động kiêm nhiệm.
- Nhiệm kỳ 2016 - 2021: Theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015 cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện như sau.
+ Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện: Tối đa không quá 40 đại
biểu


24
+ Về Thường trực Hội đồng nhân dân gồm: Chủ tịch, 02 Phó chủ tịch và các
Ủy viên là trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện; Chủ tịch Hội đồng nhân dân
có thể là đại biểu hoạt động chuyên trách, Phó chủ tịch Hội đơng nhân dân huyện là
đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách
+ Về Ban của Hội đồng nhân dân huyện: Hội đồng nhân dân huyện được
thành lập Ban kinh tế - xã hội, Ban pháp chế; đối với huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh có trên 5.000 người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ
trợ phát triển thì thành lập Ban dân tộc Hội đồng nhân dân huyện
Ban của Hội đồng nhân dân huyện gồm có Trưởng ban, một Phó trưởng ban
và các Ủy viên, số lượng Ủy viên của các Ban Hội đồng nhân dân huyện do Hội
đồng nhân dân quyết định; Trưởng ban của Hội đồng nhân dân có thể là đại biểu
hoạt động chuyên trách; Phó trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện là đại biểu

Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách
+ Về Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân huyện: Hội đồng nhân dân huyện thành
lập các Tổ đại biểu; số lượng tổ, Tổ trưởng, Tổ phó của tổ đại biểu Hội đồng nhân
dân do Thường trực Hội đồng nhân dân huyện quyết định.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Luật tổ chức chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 cho phù hợp với tinh thần Hiến
pháp 2013. Luật tổ chức chính quyền địa phương đã cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và
các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương; đồng thời kế
thừa những nội dung hợp lý và sữa đổi, bổ sung các bất cập, vướng mắc trong 12
năm thực hiện Luật Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; trong đó có
nhiều điểm mới được bổ sung, sửa đổi. Đối với Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức
chính quyền địa phương quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
tạo cơ sở pháp lý để củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân huyện.


×