Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Áp dụng luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả từ thực tiễn cho cục quản lý thị trường tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.72 KB, 83 trang )

VÕ HOÀNG TRANG
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI HÀNH VI KINH DOANH HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN CHI
CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHOÁ 24

HÀNH VI KINH DOANH HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN CHI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH TIỀN GIANG

VÕ HOÀNG TRANG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

Nghệ An, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ HOÀNG TRANG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI HÀNH VI KINH DOANH HÀNG GIẢ TỪ THỰC TIỄN CHI
CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 8380106

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thúy Liễu

Nghệ An, 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tơi đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình và giúp đỡ từ nhà trường và quý thầy cô. Từ đó, tơi đã tiếp thu được
rất nhiều kiến thức từ thầy cô, cũng như trao đổi kinh nghiệm học tập cùng bạn
bè, chính nhờ vậy đã làm đầy thêm hành trang hiểu biết, qua đó ứng dụng vào
trong cơng tác tại đơn vị làm việc. Tôi xin chân thành cảm ơn q nhà trường,
cùng tồn thể thầy cơ, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn đề tài: Giảng viên TS.
Phạm Thúy Liễu đã tận tình hướng dẫn, cũng như đóng góp ý kiến để tơi có
được những kiến thức để hồn thành Luận văn này.
Tơi xin cảm ơn Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tiền Giang đã tạo điều
kiện thuận lợi để tôi theo đuổi sự nghiệp học tập trong thời gian làm việc tại đơn
vị, bên cạnh đó Chi cục Quản lý thị trường đã cung cấp nguồn số liệu quan trọng
và trang bị cho tôi những kiến thức thiết yếu trong lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc ngành Quản lý thị trường để tơi hồn thành bài Luận văn này.
Mặc dù, đã có nhiều cố gắng tìm hiểu, học hỏi những kiến thức từ thầy cô
và các anh chị, bạn bè, đồng nghiệp nhưng do thời gian có hạn, kiến thức
chun mơn cịn nhiều hạn chế nên trong q trình thực hiện và hồn thành
Luận văn, tơi khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong được sự thơng
cảm và đóng góp ý kiến từ q thầy cơ để bài Luận văn được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Võ Hoàng Trang



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng Luận văn với đề tài về “Áp dụng pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả từ thực tiễn Chi cục quản
lý thị trường tỉnh Tiền Giang” là cơng trình nghiên cứu của chính tơi.
Tơi cam đoan rằng Luận văn này chưa từng được công bố hoặc được sử
dụng để nhận bằng cấp ở những nơi khác.
Những nghiên cứu hoặc nguồn tham khảo được ứng dụng và tiếp thu trong
luận văn được trích dẫn đúng theo quy định.

Ngƣời cam đoan

Võ Hoàng Trang


MỤC LỤC
Lời cảm ơn/cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Trang
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI KINH DOANH
HÀNG GIẢ …………………………………………………………………..8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả ........................................................... 8
1.2. Nội dung áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
kinh doanh hàng giả của cơ quan quản lý thị trường .......................................... 20
1.3. Các điều kiện đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả của cơ quan quản lý thị trường ....... 31

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI KINH DOANH HÀNG GIẢ
CỦA CHI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH TIỀN GIANG .............. 38
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả ở tỉnh Tiền Giang................... 38
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tiền Giang 423
2.3. Đánh giá chung về thực trạng áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường
tỉnh Tiền Giang.................................................................................................. 550
CHƢƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI KINH
DOANH HÀNG GIẢ CỦA CHI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH
TIỀN GIANG ................................................................................................ 5860
3.1. Những yêu cầu đặt ra trong hoạt động áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả ................................................ 60
3.2. Một số giải pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Tiền Giang ........................................................................................ 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nội dung viết tắt


1

ADPL

Áp dụng phát luật

2

BCĐ

Ban chỉ đạo

3

LXLVPHC

Luật xử lý vi phạm hành chính

4

QLTT

Quản lý thị trường

5

SHTT

Sở hữu trí tuệ


6

TG

Tiền Giang


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, thực trạng hàng giả có những diễn biến phức
tạp bởi thủ đoạn ngày càng tinh vi làm cho cơng tác đấu tranh chống hàng giả
gặp nhiều khó khăn, thực tế hiện nay cho thấy hàng giả xuất hiện ở hầu hết các
lĩnh vực từ những mặt hàng thông thường đến những mặt hàng cao cấp, hậu quả
của kinh doanh hàng giả đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu dùng, nhà sản
xuất và nhà nước.
Thời gian gần đây, nhiều vụ kinh doanh hàng giả đã bị phát hiện cho thấy
quy mô, mức độ, vi phạm ngày càng tinh vi và nó trở thành vấn đề bức xúc với
các cơ quan Nhà nước, nỗi lo của nhà sản xuất kinh doanh chân chính và sự bất
bình của người tiêu dùng. Do đó, đấu tranh ngăn chặn hoạt động sản xuất, buôn
bán hàng giả đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm đảm bảo
cho sự phát triển lành mạnh của thị trường, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng tồn xã hội.
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước liên quan đến việc
sản xuất và kinh doanh hàng giả, thời gian qua Nhà nước đã ban thành hệ thống
văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống sản xuất, buôn
bán hàng giả. Tại các địa phương các cấp chính quyền cũng đã tích cực tổ chức
kiểm tra, xử lý, đấu tranh, ngăn ngừa và làm giảm dần các vụ sản xuất bn bán,
hàng giả, góp phần lành mạnh hố hoạt động lưu thơng hàng hố trên thị trường.
Tại Tiền Giang, theo số liệu báo cáo của Chi cục Quản lý thị trường qua

các năm thì tình trạng sản xuất, kinh doanh hàng giả đang diễn ra phức tạp và
tăng đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng giả với số vụ vi
phạm có giảm giữa các năm nhưng thủ đoạn, tính chất, mức độ vi phạm ngày
càng tinh vi; các đối tượng vi phạm phần lớn là cơ sở có trụ sở ngồi tỉnh.


So với các tỉnh biên giới thì tình hình bn bán hàng giả trên địa bàn tỉnh
không phổ biến công khai. Với đặc điểm địa lý của Tiền Giang là tỉnh nằm ở tả
ngạn Sông Tiền, giáp với biển Đông. Chiều dài Sông Tiền chảy qua địa phận
Tỉnh Tiền Giang là 103 km, có chiều dài bờ biển Đơng là 32 km. Nằm trên trục
giao thông quan trọng của cả nước, là cửa ngỏ vào Miền Tây Nam Bộ một địa
bàn giao lưu khối lượng lớn nơng sản, hàng hóa của miền Tây với Thành Phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Đơng Nam Bộ [43]. Do đó là địa bàn trung
chuyển hàng hóa giữa các tỉnh (gồm các tỉnh giáp biên giới Tây Nam) đi Thành
phố Hồ Chí Minh và ngược lại nên tồn tại tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả
thông qua việc lợi dụng địa bàn Tiền Giang để vận chuyển, tập kết hàng hóa bất
hợp pháp.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Áp dụng pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả từ thực tiễn Chi cục
quản lý thị trường tỉnh Tiền Giang” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ của
mình.
Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực hàng giả trong thời gian
vừa qua là những tài liệu hữu ích mà tác giả có thể tham khảo trong q trình
thực hiện luận văn như:
Luận văn thạc sĩ: Giải pháp đấu tranh phịng chống sản xuất, bn bán
hàng giả tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Thái Nguyên của tác giả Nguyễn
Thanh Hiền, Đại học Thái Nguyên, 2012. Luận văn tập trung nghiên cứu nhằm
làm rõ những vấn đề lý luận về hàng giả, các quy định, chính sách pháp luật của
Nhà nước liên quan đến hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả và thực trạng của
công tác đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả của lực lượng Quản lý thị

trường tỉnh thái Nguyên từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống sản xuất, bn bán hàng
giả góp phần vào việc ổn định thị trường, ngăn chặn và đẩy lùi các hành vi kinh


doanh không lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển thương mại và kinh tế - xã hội
của tỉnh Thái Nguyên.
Tiểu luận: Xử lý vi phạm hành chính về hành vi sản xuất và buôn bán hàng
giả đối với cơ sở sản xuất nước uống C2 giả ở phường Quan Hoa, quận Cầu
Giấy, Thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Trang – Chi cục Quản lý thị
trường Hà Nội, Trường đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội,
2015, đã tập trung khảo sát mức độ vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính tại
một phường Quan Hoa (giới hạn tại một phường), để đánh giá thực trạng vi
phạm đối với nước uống đóng chai C2, công tác điều tra, phát hiện vi phạm của
cơ quan chức năng và những tồn tại, khó khăn trong áp dụng pháp luật xử lý vi
phạm hành chính. Từ đó có cái nhìn tổng quan trong cơng tác chống hàng giả
của mặt hàng nước uống C2, rút ra kinh nghiệm trong công tác quản lý và đề
xuất các biện pháp ngăn chặn, đấu tranh chống hàng giả ở quy mô rộng lớn hơn.
Hay luận văn: Hồn thiện cơng tác quản lý phòng chống hàng giả tại Chi
cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh của tác giả Trần Đình Trọng, Đại học Thái
Nguyên, 2014. Thông qua thực trạng sản xuất và buôn bán hàng giả tại tỉnh Bắc
Ninh, đánh giá công tác quản lý của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh
để đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơng tác chống hàng giả tại tỉnh Bắc Ninh.
Ngồi ra còn nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các chuyên gia về hoạt
động kinh doanh hàng giả, các kết quả nghiên cứu đã công bố là nguồn tài liệu
tham khảo quý báu cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Để nghiên cứu các vấn đề đã đặt ra liên quan đến đề tài, luận văn sẽ tiếp tục
kế thừa và mở rộng theo hướng tập trung nghiên cứu ở các nội dung sau:
- Làm rõ và sâu hơn các khái niệm liên quan như: áp dụng pháp luật, hàng
hóa, hàng giả, đặc điểm của áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong

hoạt động kinh doanh hàng giả.
- Chỉ ra đặc điểm của hoạt động kinh doanh hàng giả và các biện pháp áp
dụng pháp luật trong phòng, chống kinh doanh hàng giả.


- Nghiên cứu thực trạng áp dụng dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh
Tiền Giang. Qua đó, có cái nhìn khái qt hơn về thực tiễn áp dụng pháp luật,
chỉ ra được những ưu điểm, những hạn chế của việc áp dụng pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh hàng giả từ thực tiễn tại Tiền
Giang để hướng tới có những đề xuất, kiến nghị mang tính xây dựng và đóng
góp trong cơng tác chống hàng giả hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích chính là nghiên cứu việc áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh
Tiền Giang. Trên cơ sở của nghiên cứu, tìm ra những khó khăn và hạn chế trong
việc thực tiễn áp dụng luật xử phạt hành chính đối với kinh doanh hàng giả, đề
xuất ra các giải pháp ngăn chặn nạn hàng giả tại địa phận tỉnh nhà, đồng thời là
tài liệu phục vụ cho cơng tác phịng chống các hành vi sản xuất, kinh doanh
hàng giả của lực lượng Quản lý thị trường Tiền Giang nói riêng và các cơ quan
chức năng nói chung.
3. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật để áp dụng xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh
Tiền Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang với
đối tượng nghiên cứu là các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng giả.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động áp dụng pháp luật

trong phòng, chống việc kinh doanh hàng giả. Các số liệu nghiên cứu về kết quả
cơng tác kiểm tra, kiểm sốt và xử lý về hành vi kinh doanh hàng giả trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang tập trung từ năm 2014 -2017.


4. Những đóng góp mới của đề tài
Một là, qua q trình nghiên cứu luận văn giúp người đọc có cái nhìn tổng
qt về hàng giả từ đó thấy rõ bản chất và những tác động của hàng giả tới nền
kinh tế, tới các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Hai là, Luận văn làm rõ tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước, cụ
thể là áp dụng pháp luật vi phạm hành chính đối với hoạt động kinh doanh hàng
giả của các cơ sở kinh doanh; nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của lực lượng
Quản lý thị trường đối với công tác chống hàng giả.
Ba là, Luận văn đưa ra một số giải pháp tích cực giúp phục vụ cho cơng tác
đấu tranh, phịng chống hàng giả.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn có các nhiệm vụ chính sau:
Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động kinh doanh hàng giả;
Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tiền Giang;
Đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh
Tiền Giang.
Dựa vào những cơ sở nghiên cứu trên giúp đánh giá thực tiễn áp dụng pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh hàng giả ở Tiền
Giang trong thời gian qua. Nhằm đưa ra những giải pháp, đề xuất và kiến nghị
nhằm góp phần xây dựng và hồn thiện trong cơng tác đấu tranh phịng, chống
hàng giả.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu
khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê…


Các phương pháp được sử dụng cụ thể như sau :
- Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phân tích và tổng kết
kinh nghiệm được sử dụng trong các nội dung của chương 2, 3 để làm rõ các vấn
đề mà luận văn đặt ra.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để để tổng hợp, đánh giá thực trạng
các số liệu tìm hiểu trong luận văn.
Dựa trên cơ sở đó để giải thích những ảnh hưởng của việc áp dụng văn bản
quy phạm pháp luật vào thực tiễn chống hàng giả, từ đó tìm ra những kết luận
thực sự khách quan về thực trạng trong công tác đấu tranh chống hàng giả; đồng
thời phổ biến, tuyên truyền rộng rãi những bài học thực tiễn được rút ra qua
phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được viết với kết cấu gồm 3 chương, như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tiền Giang.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả của Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Tiền Giang.


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI KINH DOANH HÀNG GIẢ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi kinh doanh hàng giả
1.1.1.1. Khái niệm hàng giả, kinh doanh hàng giả
* Khái niệm hàng hóa:
Theo quan điểm trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa được định
nghĩa là sản phẩm của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là
hữu hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức lao động. Karl
Marx định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa
mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng
hóa cần phải có: Tính ích dụng đối với người dùng; Giá trị (kinh tế), nghĩa là
được chi phí bởi lao động; Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm
[44].
Theo Luật giá năm 2013 quy định “hàng hoá là tài sản có thể trao đổi,
mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao
gồm các loại động sản và bất động sản”;
Theo Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thì hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản
hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai.


Vậy, có thể nói, hàng hóa là sản phẩm được đưa vào thị trường lưu thông
dựa trên các hoạt động trao đổi, mua bán, tiếp thị để phục vụ nhu cầu cung - cầu
của nền kinh tế.
* Khái niệm hàng giả:
Hiện nay hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng có mặt ở rất nhiều phân
khúc của thị trường, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm,

thương hiệu mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng.
Vậy thế nào là hàng giả? chúng ta sẽ nghiên cứu thông qua định nghĩa
hàng giả dựa trên văn bản quy phạm pháp luật dưới đây, nhưng trước hết ta cần
xác định rõ là theo quy định pháp luật thì chưa có văn bản nào quy định về khái
niệm "hàng nhái" mà thuật ngữ này chỉ để sử dụng để được hiểu là sản phẩm
đang lưu thông trên thị trường khơng phải là sản phẩm chính thống do nhà sản
xuất hoặc nhà phân phối chính đưa ra thị trường. Do đó để sử dụng thuật ngữ
chính theo các văn bản pháp luật thì chỉ sử dụng thuật ngữ "hàng giả". Và các
cụm từ “ hàng giả, hàng nhái” thường đi chung với nhau với mặc định hiểu là
gọi chung cho hàng giả.
Theo quy định tại Khoản 8, Điều 3, Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thì hàng giả bao gồm một trong những loại hình sau:
- Hàng hóa khơng có giá trị sử dụng, cơng dụng; có giá trị sử dụng, công
dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá
trị sử dụng, cơng dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã cơng bố
hoặc đăng ký;
- Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh
dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với
tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng
hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;


- Thuốc phịng bệnh, chữa bệnh cho người, vật ni khơng có dược chất; có
dược chất nhưng khơng đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược
chất đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng
hóa;
- Thuốc bảo vệ thực vật khơng có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ
70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký,

công bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt
chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân,
địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm
hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng
hóa của thương nhân khác;
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
- Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005;
- Tem, nhãn, bao bì giả.
Ngồi ra, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung
năm 2009 thì hàng hố giả mạo về sở hữu trí tuệ là hàng hóa có các dấu hiệu:
Hàng hố giả mạo về sở hữu trí tuệ bao gồm hàng hố giả mạo nhãn hiệu
và giả mạo chỉ dẫn địa lý và hàng hoá sao chép lậu; Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu
là hàng hố, bao bì của hàng hố có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó
phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt
hàng đó mà khơng được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản
lý chỉ dẫn địa lý; Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không
được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
Do đó, để hiểu và phân định những sản phẩm/mặt hàng nào là hàng giả thì
phải chứa một hoặc nhiều dấu hiệu giả như các quy định trên.


* Khái niệm hành vi kinh doanh hàng giả:
Căn cứ vào quy luật của nền kinh tế, có thể định nghĩa về sản xuất, kinh
doanh hàng giả như sau:
- Hành vi sản xuất hàng giả là quá trình làm ra các loại hàng giả. Người
phạm tội có thể làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp các bộ phận của hàng hóa.
Người phạm tội có thể tham gia vào cả quá trình làm hàng giả từ đầu đến cuối

hoặc chỉ có thể tham gia vào một công đoạn làm ra hàng giả.
- Hành vi kinh doanh hàng giả là hành vi mua đi, bán lại những hàng hóa
đã thành phẩm hoặc những bộ phận, chi tiết mà biết là giả để thu lợi bất chính
dựa trên những giá trị của hàng hóa thật, sự tin tưởng của người tiêu dùng đối
với một món hàng hố nào đó để lưu thơng trên thị trường.
Từ khái niệm “hàng giả” được quy định tại khoản 8 Điều 3 Nghị định
185/2013-NĐ-CP, theo đó ta có thể hiểu hàng giả được chia làm 3 loại phổ biến:
- Hàng giả về nội dung: là hàng giả về chất lượng hoặc cơng dụng.
- Hàng giả về hình thức: là hàng giả về nhãn hàng hóa, kiểu dáng cơng
nghiệp, nguồn gốc xuất xứ… Đây là loại hàng hóa mang nhãn hiệu, kiểu dáng…
của cơ sở sản xuất khác nhưng có giá trị sử dụng.
- Hàng giả về nội dung và hình thức: đây là loại hàng hóa vừa mang nhãn
hiệu, kiểu dáng… của cơ sở sản xuất khác vừa khơng có giá trị sử dụng mà nó
mang tên.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi kinh doanh hàng giả
* Khái niệm áp dụng pháp luật:
Khái niệm áp dụng pháp luật (ADPL) đã được sử dụng trong nhiều cơng
trình nghiên cứu. Ví dụ Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội 2003; Giáo trình Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận về Nhà


nước và pháp luật, Nxb. Giáo dục; Nguyễn Thị Hồi và Lê Vương Long, Nội
dung cơ bản của môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Giao thông vận
tải, Hà Nội 2008; Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Những vấn đề lý
luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995…
Tuy các cơng trình đó định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung lại,
ADPL được hiểu là một hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các

cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào
những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Trong các hình
thức thực hiện pháp luật, ADPL được xem là hình thức cơ bản, chủ yếu và quan
trọng nhất. Phần lớn các quy định của pháp luật chỉ có thể được thực hiện trong
thực tế thông qua hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền [25].
Từ định nghĩa về áp dụng pháp luật như trên ta thấy, áp dụng pháp luật có
những đặc điểm sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức – quyền lực nhà nước,
vì: Áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
(trường hợp đặc biệt do tổ chức chính trị - xã hội được trao quyền) thực hiện; Áp
dụng pháp luật được thực hiện theo ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, người có thẩm quyền, mà khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị
áp dụng; quyết định áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp
dụng và các chủ thể có liên quan; Trong trường hợp cần thiết, quyết định áp
dụng pháp luật được bảo đảm thực hiện bởi các biện pháp cưỡng chế của nhà
nước;
- Áp dụng pháp luật được thực hiện theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy
định chặt chẽ;
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan
hệ xã hội;


- Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật,
các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải phân tích vụ việc, làm sáng tỏ
nội dung của vụ việc, sau đó lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và ra văn
bản áp dụng pháp luật.
* Khái niệm vi phạm hành chính:
- Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội

phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của
tồn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như khơng được ngăn chặn và xử lí kịp thời.
Chính vì lẽ đó, cơng tác đấu tranh phịng và chống vi phạm hành chính ln là
vấn đề được xã hội quan tâm [37]. Từ trước đến nay, Nhà nước đã ban hành khá
nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lí
đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến Nghị định số 143/CP ngày
27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, Pháp lệnh xử phạt vi
phạm hành chính ngày 30/11/1989, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày
6/7/1995; Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 2/7/2002.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
này, đặc biệt là việc là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm,
tạo cơ sở cần thiết để quy định, xử lí cũng như đấu tranh phịng, chống có hiệu
quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đưa ra định nghĩa chính thức
về vi phạm hành chính.
Về phương diện lí luận cũng như thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành chính
phải phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm
cho xã hội của loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác biệt
giữa chúng với tội phạm.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp lệnh


xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 Pháp lệnh này đã chỉ rõ:
“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà khơng phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 khơng trực tiếp đưa ra định
nghĩa về vi phạm hành chính nhưng khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này đã định
nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp, theo đó “Xử phạt vi phạm hành

chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy tắc quản lí nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Tại khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, vi
phạm hành chính cũng được định nghĩa một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (Sau đây gọi chung là
cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật
về quản lí nhà nước mà khơng phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính”.
Theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì: Vi phạm hành chính là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt vi phạm hành chính (Khoản 1 Điều 2).
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính
trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất
của loại vi phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung đã được nêu ra trong
hai văn bản pháp luật nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính
như sau: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố
ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà khơng
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính.
* Khái niệm xử lý vi phạm hành chính:


Bản chất của hoạt động xử lý vi phạm hành chính là áp dụng một số loại
biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định. Cưỡng chế hành chính
được xác định là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan hoặc người có thẩm
quyền quyết định áp dụng theo thủ tục hành chính đối với cá nhân có hành vi vi
phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn
chặn, phịng ngừa hoặc thực hiện cơng vụ vì lí do an ninh, quốc phịng và vì lợi
ích quốc gia.

Nhìn chung, xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đều thuộc phạm trù xử lý vi phạm
hành chính, có thể hiểu chung là việc áp dụng các biện pháp/chế tài mang tính
cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với chủ thể có hành vi vi phạm hành
chính. Theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì xử lý vi phạm hành
chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác. Như vậy, xử lý vi phạm hành chính là khái niệm rộng, bao trùm,
trong đó xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp hành chính
khác.
- Xử phạt vi phạm hành chính là các chế tài hành chính thơng thường, áp
dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, bao
gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất), hình thức phạt bổ
sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất khi khơng áp dụng là hình phạt
chính) và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra nhằm lập
lại trật tự quản lý bị xâm hại.
- Các biện pháp xử lý hành chính khác là những biện pháp hành chính có
tính đặc thù và tính cưỡng chế cao hơn các hình thức xử phạt hành chính thông
thường, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và
quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng. Các biện pháp xử lý hành chính khác


bao gồm giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
* Khái niệm áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi kinh doanh hàng giả:
Từ định nghĩa áp dụng pháp luật ở trên, ta có thể hiểu áp dụng pháp luật
trong xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh hàng giả là một
phạm trù của áp dụng pháp luật. Căn cứ vào đặc điểm, bản chất, quy định của áp
dụng pháp luật mà được ứng dụng trong một điều kiện cụ thể (xử phạt vi phạm

hành chính của mơi trường kinh doanh hàng giả).
Áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi kinh
doanh hàng giả cũng là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được
thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền được Nhà nước trao quyền mà ở
đây cụ thể là cán bộ, cơng chức có thẩm quyền: Ủy ban nhân dân các cấp, Công
an nhân dân, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Thanh tra chuyên
ngành, Quản lý thị trường căn cứ vào quy định của pháp luật để thực thi luật xử
lý vi phạm hành chính [19].
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi kinh doanh hàng giả
Bản chất của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là áp dụng một số
loại biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định dựa trên các văn bản
quy phạm pháp luật đã được cơ quan nhà nước ban hành và áp dụng rộng rãi.
Cưỡng chế hành chính được xác định là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ
quan hoặc người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo thủ tục hành chính đối
với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân nhất
định với mục đích ngăn chặn, phịng ngừa hoặc thực hiện cơng vụ vì lí do an
ninh, quốc phịng và vì lợi ích quốc gia.
Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: các chế tài hành chính thông
thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành


chính, bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất), hình
thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất khi khơng áp dụng là hình
phạt chính) và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra
nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại.
Có thể nói rằng, giữa xử phạt vi phạm hành chính và xử lý các loại vi
phạm pháp luật khác đều là biện pháp xử lý của Nhà nước, do Nhà nước đặt ra
dưới hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng đối với đối

tượng có hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách khác, xử phạt vi phạm hành chính
và xử lý các loại vi phạm pháp luật khác đều là việc áp dụng trách nhiệm pháp
lý do Nhà nước quy định đối với các loại vi phạm pháp luật khác nhau tuỳ theo
tính chất, mức độ của vi phạm và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Tương ứng
với các loại vi phạm pháp luật khác nhau, có bốn loại trách nhiệm pháp lý được
áp dụng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, đó là: trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm dân sự. Việc áp dụng các loại
chế tài trách nhiệm pháp lý nêu trên đối với đối tượng vi phạm thường đem lại
hậu quả bất lợi cho họ về vật chất hoặc tinh thần (bị phạt tiền; tịch thu tang vật,
phương tiện; bị bồi thường thiệt hại; tù giam; hoặc cách chức, buộc thôi việc...).
Xử phạt vi phạm hành chính có những điểm chủ yếu khác với xử lý các
loại vi phạm pháp luật khác [37], cụ thể:
Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính chính là việc áp dụng trách nhiệm
hành chính đối với đối tượng vi phạm hành chính theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng các chế tài xử phạt hành chính
hoặc các biện pháp xử lý hành chính khác là những chức danh thuộc cơ quan
hành chính nhà nước do pháp luật quy định cụ thể. Trong khi đó, chủ thể áp
dụng các chế tài pháp lý khác đối với đối tượng vi phạm pháp luật có thể là Tồ
án (đối với vi phạm pháp luật hình sự, dân sự) hoặc thủ trưởng cơ quan nhà


nước có thẩm quyền trong việc quản lý và sử dụng cán bộ, công chức (đối với vi
phạm pháp luật của cán bộ, công chức).
Thứ hai, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm cá nhân, tổ
chức đã cố ý hoặc vô ý vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước. Như vậy, đối
tượng bị áp dụng xử phạt vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức đã
thực hiện vi phạm hành chính.
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo một trình
tự, thủ tục riêng do pháp luật hành chính quy định. Hiện nay, trình tự thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được

quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh này ban hành năm 2008, Luật xử lý vi
phạm hành chính 2012. Các loại xử lý vi phạm pháp luật khác cũng theo trình
tự, thủ tục riêng tương ứng đối với mỗi loại xử lý vi phạm pháp luật.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính là các hành vi vi
phạm hành chính được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (đối với
việc xử phạt vi phạm hành chính) và các quy định pháp luật về đối tượng áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định trong Luật xử lý vi
phạm hành chính và các nghị định của Chính phủ quy định chế độ áp dụng các
biện pháp này. Đối với việc xử lý các loại vi phạm pháp luật khác thì cơ sở pháp
lý để áp dụng chế tài trách nhiệm pháp lý cũng khác nhau. Ví dụ, đối với việc xử
lý vi phạm pháp luật hình sự thì cơ sở pháp lý là Bộ luật hình sự. Đối với việc
xử lý vi phạm pháp luật dân sự thì cơ sở pháp lý chủ yếu là Bộ luật dân sự và
các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Đối với việc xử lý kỷ luật cán bộ
cơng chức thì cơ sở pháp lý là Luật cơng chức, viên chức và các nghị định của
Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi kinh doanh hàng giả
- Đối với người tiêu dùng


Người tiêu dùng đang là đối tượng trực tiếp và bị thiệt hại về nhiều mặt từ
việc mua và sử dụng hàng giả. Trước hết là thiệt hại về kinh tế. Nhờ có biện
pháp chế tài là hệ thống pháp luật giúp người tiêu dùng an tâm hơn khi chọn
mua các sản phẩm, hạn chế mối nguy mua phải những hàng hóa có khả năng ảnh
hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người sử dụng là những hàng hóa khơng
đảm bảo chất lượng, hàng có nguy cơ cháy nổ cao, đặc biệt là các mặt hàng như
dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm. Tăng động lực kích cầu, kích thích sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
- Đối với doanh nghiệp

Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính khơng cịn là đối tượng phải
chịu thiệt hại nhất về kinh tế do tệ nạn hàng giả, hàng hóa xâm phạm quyền Sở
hữu trí tuệ gây ra. Hàng giả làm giảm uy tín thương hiệu của nghiệp sản xuất,
kinh doanh chân chính, làm lu mờ hình ảnh của nhãn hiệu nổi tiếng, gây mất
lòng tin đối với người tiêu dùng.
Tạo động lực sáng tạo về trí tuệ của các doanh nghiệp nói riêng và của xã
hội nói chung; doanh nghiệp hăng hái trong công việc, tạo ra nhiều sản phẩm
mới đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Đối với quản lý kinh tế - xã hội
Hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính làm giảm thiểu vấn nạn sản
xuất, bn bán hàng giả tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và thu hút đầu tư
để phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài và thực hiện
những cam kết song phương hoặc đa phương về sở hữu trí tuệ. Kỷ cương pháp
luật được thực thi nghiêm minh, Nhà nước tăng nguồn thuế, tạo môi trường an
bình.
Các nguồn thu lợi bất chính có được từ hoạt động kinh doanh hàng giả
được giảm thiểu, xóa bỏ gia tăng chênh lệch giữa người giàu và người nghèo,
hạn chế các tệ nạn xã hội có cơ hội phát triển.


1.2. Nội dung áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi kinh doanh hàng giả của cơ quan quản lý thị trƣờng
1.2.1. Về thẩm quyền áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với kinh doanh
hàng giả
Cơ quan hành chính, gồm cả người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính, chính là chủ thể áp dụng biện pháp hành chính. Về bản chất, đó là việc cơ
quan quản lý Nhà nước nằm trong hệ thống hành pháp dùng sức mạnh của
quyền lực Nhà nước để ra những quyết định mệnh lệnh hành chính đơn phương
buộc người vi phạm hành chính phải thực hiện quyết định hành chính đó. Hành
vi vi phạm hành chính bị xử lý thông qua quyết định của cơ quan hành chính có

thẩm quyền.
Ngồi các quyết định hành chính xử lý vi phạm hành của người có thẩm
quyền thuộc các cơ quan hành chính, biện pháp hành chính trong thực thi bao
gồm cả các quyết định, thủ tục nhằm bảo đảm việc thi hành các quyết định hành
chính đó. Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền có thể ra các quyết
định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính, nhằm bảo vệ
chứng cứ hoặc duy trì các điều kiện vật chất của tổ chức, cá nhân vi phạm.
Trong thời hạn nhất định, nếu đối tượng bị áp dụng quyết định xử phạt
hành chính khơng tự giác thực hiện quyết định đó thì sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Người có thẩm quyền xử phạt có quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết
định xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, và trong trường hợp cần
thiết có thể yêu cầu tổ chức tín dụng, ngân hàng nơi tổ chức, cá nhân mở tài
khoản thực hiện việc thanh toán các khoản tiền phạt theo quyết định xử phạt.
Do vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành những chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh hàng giả [19] gồm:
+ Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã.


×