Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn các huyện miền tây tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.12 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÃNH VĂN MÙI

BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN CÁC HUYỆN MIỀN TÂY TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT

NGHỆ AN – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÃNH VĂN MÙI

BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN CÁC HUYỆN MIỀN TÂY TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử về Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 8.38.01.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ HUYỀN SANG

NGHỆ AN – 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài: “Bảo đảm quyền bình đẳng giới trong
đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An” là cơng
trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ một cơng
trình khoa học nào khác cho tới thời điểm này.
Tác giả luận văn

Lãnh Văn Mùi


LỜI CẢM ƠN
Với lịng biết ơn sâu sắc và tình cảm chân thành cho phép em gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới:
Trường Đại học Vinh, khoa Sau đại học, khoa Luật cùng các giảng viên đã tận
tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn Thạc sĩ.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô TS. Phạm Thị Huyền Sang,
người hướng dẫn và cũng là người đã ln tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, động viên em
trong suốt quá trình nghiên cứu và hồn thành luận văn thạc sĩ của mình.
Cuối cùng xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã ln khích lệ, động
viên và giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn
thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, nhưng luận văn khơng
tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn,
giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, của quý thầy cô, các cán bộ quản lý
và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!


Học viên thực hiện
Lãnh Văn Mùi


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG .....................................................................................................................5
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ .....................................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc
thiểu số ............................................................................................................................. 5
1.2. Vai trò, ý nghĩa của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số..... 8
1.3. Nội dung của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số .....13
1.4. Một số yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào
dân tộc thiểu số ..............................................................................................................18
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................25
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CÁC HUYỆN MIỀN TÂY TỈNH
NGHỆ AN .....................................................................................................................26
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An .....26
2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số tại các
huyện miền Tây tỉnh Nghệ An ...................................................................................... 28
2.3. Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu
số tại các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An ......................................................................35
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................55
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CÁC HUYỆN MIỀN
TÂY TỈNH NGHỆ AN ................................................................................................ 56
3.1. Những quan điểm cơ bản về bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân

tộc thiểu số .....................................................................................................................56
3.2. Một số giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số
tại các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An ...........................................................................63
3.2.3. Giải pháp về mặt tuyên truyền.............................................................................65
3.2.4. Giải pháp về tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ ....................... 66
3.2.5. Các giải pháp khác .............................................................................................. 66
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................68
KẾT LUẬN ..................................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................71
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT
BĐG

Bình đẳng giới

BCH

Ban chấp hành

CEDAW

Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa

DTTS


Dân tộc thiểu số

HĐND

Hội đồng nhân dân

KH

Kế hoạch

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

SKSS

Sức khỏe sinh sản

UBND

Uỷ ban nhân dân

VSTBPN

Vì sự tiến bộ của phụ nữ


1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới (BĐG) là triết lý mà nhân loại đã theo đuổi nhiều thế kỷ qua.
Ngày nay, bình đẳng giới là vấn đề có tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân
loại, là một trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Nhiều văn bản quan trọng đã ra đời và quy định cụ thể về nội dung này như:
Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Hơn nhân gia đình, Luật Bình đẳng giới.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay, vấn đề bình đẳng giới ngày càng
nhận được sự quan tâm của các nước trên thế giới và khu vực, trong đó có Việt Nam.
Hơn thế nữa, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào các dân tộc thiểu số
còn được quan tâm hơn cả. Trong gia đình nam giới vẫn được coi là trụ cột, có quyền
quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngồi cộng đồng, cịn các cơng việc nội
trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là “thiên chức” của phụ nữ,
được coi là việc vặt, khơng tên, khơng có giá trị. Vậy là ngồi giờ đi làm, tham gia
hoạt động sản xuất như nam giới, phụ nữ cịn phải gánh trách nhiệm chính trong hoạt
động tái sản xuất của gia đình, điều này đã hạn chế cơ hội được tiếp cận và khả năng
tìm được chỗ đứng trong thị trường lao động, ảnh hưởng tới việc học tập, nâng cao
trình độ chun mơn, sức khỏe, tâm lý và thời gian nghỉ ngơi, giải trí để đảm bảo tái
sản xuất, tham gia hoạt động xã hội của phụ nữ. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng
DTTS, bất BĐG còn diễn ra mạnh mẽ, vị thế của người phụ nữ trong gia đình cịn thấp
kém. Miền tây Nghệ An là nơi cư trú của nhiều đồng bào DTTS, với sự đa dạng về bản
sắc văn hóa tộc người. Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa cịn thấp kém,
bất BĐG cịn khá phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng khác trong cả nước. Tính
chất bảo thủ của phân cơng lao động truyền thống theo giới, vẫn đang thể hiện rõ nét.
Vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ, thậm chí họ phải chịu những tư tưởng lạc hậu,
chịu nhiều thiệt thịi khơng được học hành, giao lưu, tiếp xúc với xã hội.
Phụ nữ DTTS ở miền Tây Nghệ An thường phải lao động với cường độ lớn, thời
gian làm việc kéo dài, điều kiện nghỉ ngơi dường như khơng có, ít có cơ hội tiếp cận
các nguồn lực để phát triển, nâng cao năng lực của bản thân, khả năng ra quyết định và



2
hưởng thụ lợi ích của họ nhìn chung thấp hơn nhiều so với nam giới. Một bộ phận
không nhỏ phụ nữ DTTS miền Tây tỉnh Nghệ An vẫn còn đứng bên lề của sự phát
triển. Nghèo đói, rào cản của luật tục, hạn chế về kiến thức, không chỉ làm gia tăng
thêm gánh nặng cho phụ nữ trong lao động sản xuất, tái sản xuất để duy trì cuộc sống
gia đình, mà cịn làm cho những cơ hội để họ tham gia hịa nhập với dịng chảy của xã
hội ít hơn so với nam giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS chính là nhóm xã hội cực khổ nhất,
chịu nhiều sự bất bình đẳng nhất ở miền Tây tỉnh Nghệ An. Bảo đảm quyền bình đẳng
giới cho đồng bào dân tộc thiểu số miền tây tỉnh Nghệ An chính là góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững hiện nay, góp phần thu hẹp dần khoảng cách về sự phân
biệt.
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thực trạng bình đẳng giới để đề xuất giải
pháp thúc đẩy thực hiện BĐG cho đồng bào dân tộc thiểu số miền Tây tỉnh Nghệ An
hiện nay được đặt ra cấp thiết. Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bảo đảm quyền bình
đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn các huyện miền Tây tỉnh
Nghệ An” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo đảm quyền Bình đẳng giới là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân
tộc thiểu số. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm
Trong lĩnh vực này có một số cơng trình nghiên cứu liên quan. Cụ thể như: Đề án
“Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018 - 2025" của
Chính phủ, 2017; “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi
phía bắc Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Lệ Thu, 2017.
Trong phạm vi tỉnh Nghệ An có đề tài: “Bảo đảm bình đẳng giới trong lao động
việc làm ở Nghệ An” Luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Nguyệt, 2015 tại Trường đại học
kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các cơng trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực
tiễn trong bảo đảm quyền bình đẳng giới trên nhiều góc độ, tuy nhiên chưa có nhiều

cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về bảo đảm quyền bình đẳng
giới ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy tơi đã chọn


3
đề tài này để nghiên cứu với mong muốn đưa ra được một số giải pháp giúp cho công
tác bảo đảm quyền bình đẳng giới ở miền Tây tỉnh Nghệ An ngày càng hiệu quả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, những vấn đề đặt ra của
việc thực hiện BĐG cho đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện miền Tây tỉnh Nghệ
An, luận văn đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy, bảo đảm
quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số các huyện miền Tây tỉnh Nghệ
An.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền
BĐG trong đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An.
- Phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền
BĐG trong đồng bào DTTS miền Tây tỉnh Nghệ An hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm quyền BĐG cho
đồng bào DTTS miền Tây tỉnh Nghệ An hiện nay.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu Quyền bình đẳng giới cho đồng bào
dân tộc thiểu số tại miền Tây tỉnh Nghệ An.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Đồng bào dân tộc thiểu số các huyện miền Tây tỉnh Nghệ
An
4.3. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn này tập trung nghiên cứu Quyền bình đẳng giới
cho đồng bào dân tộc thiểu số tại miền Tây tỉnh Nghệ An. Cụ thể là các huyện: Kỳ
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Thanh Chương, Quế Phong, Quỳ Châu,
Qùy Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hịa. Từ đó đưa ra các giải pháp để bảo

đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại miền Tây tỉnh Nghệ
An
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để luận giải, phân tích vấn đề. Ngồi ra đề tài cịn sử dụng


4
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê, kết hợp logíc với
lịch sử…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn là công trình bước đầu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống việc
bảo đảm quyền BĐG cho đồng bào DTTS ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An, do vậy
luận văn có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
- Làm rõ hơn lý luận về bình đẳng giới; nội dung, thực trạng của BĐG trong
đồng bào dân tộc thiểu số miền Tây tỉnh Nghệ An
- Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của các yếu tố tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, chính sách đến việc thực hiện BĐG của đồng bào dân tộc thiểu số
miền Tây tỉnh Nghệ An
- Đánh giá một cách cụ thể thực trạng BĐG trong đồng bào dân tộc thiểu số ở
miền Tây tỉnh Nghệ An trên các lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, tham gia hoạt động
cộng đồng, văn hóa, xã hội.
- Phát hiện những vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền bình đẳng giới cho
đồng bào dân tộc thiểu số miền Tây tỉnh Nghệ An
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để thúc đẩy BĐG cho đồng bào dân tộc
thiểu số miền Tây tỉnh Nghệ An
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng

bào dân tộc thiểu số
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc
thiểu số từ thực tiễn các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An
Chương 3. Quan điểm và một số giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng giới trong
đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An


5
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân
tộc thiểu số
1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bình đẳng giới
Bình đẳng giới là mối quan hệ khơng có sự phân biệt đối xử với phụ nữ, nam và
nữ được đối xử, được hưởng thụ ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình. Nam và nữ có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Bình đẳng giới
là mục tiêu và thước đo tiến độ phát triển của một xã hội và là một tiêu chí văn hóa. Sự
bình đẳng giới được thể hiện ở nhiều phương diện cụ thể như: Bình đẳng trong đối xử,
bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về hưởng thụ lợi ích,…
“ Bảo đảm quyền bình đẳng giới ” là bảo đảm cho nam giới và nữ giới được công
nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội. Nam, nữ có điều kiện bình đẳng để
phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi
bình đẳng khi họ tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Trong q trình hồn thiện pháp luật về quyền bình đẳng giới cần quán triệt một số
quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, bảo đảm quyền bình đẳng giới là một trong các nguyên tắc
cơ bản trong bảo đảm quyền con người. Trong xã hội dân chủ, quyền này luôn đựơc

coi trọng. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới là hành trang xuyên suốt của chính
sách bình đẳng qua các thời kỳ phát triển của Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã
được quy định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta (1946). Vị trí, vai trị của
nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển
tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội.
Quan điểm thứ hai, bảo đảm quyền bình đẳng giới trong quá trình xây dựng,
thực hiện chính sách pháp luật. Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của con người,


6
trong đó có quyền bình đẳng của phụ nữ. Do đó, việc hồn thiện bộ phận pháp luật này
khơng thể tách ra khỏi việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chung. Điều này có nghĩa là
hồn thiện bộ phận pháp luật về bình đẳng giới cũng phải đặt trong mối quan hệ với
hoàn thiện pháp luật chung và căn cứ vào những đặc điểm riêng của phụ nữ. Điều này
đòi hỏi việc hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới trước hết phải bắt đầu từ việc rà
sốt lại tồn bộ các văn bản liên quan đến bình đẳng giới, tập trung trong các văn bản
luật. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới địi hỏi phải chú trọng mối
quan hệ giữa nội dung các quy định của pháp luật với cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm
nội dung đó được thực hiện trong thực tế. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới
phải được thể chế hóa đầy đủ chủ trương và chính sách của Đảng đối với việc phát huy
vai trò của phụ nữ trong xã hội, thể hiện đầy đủ các quyền chính trị của phụ nữ. Cùng
với nội dung của pháp luật, cơ chế pháp lý cũng phải bảo đảm chuyển tải những nội
dung trên bởi các quy định, thủ tục đơn giản, thuận tiện và thể hiện được nguyên tắc
bình đẳng và dân chủ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật bình đẳng giới.
Quan điểm thứ ba, củng cố cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng giới. Quốc hội cần rà
soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật phù hợp với đặc điểm
đặc thù giới của phụ nữ, đặc điểm riêng của từng ngành, nghề theo hướng: Bảo đảm
tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng phải chờ quá nhiều văn
bản hướng dẫn mới thi hành được. Đồng thời, để các văn bản pháp luật dễ đi vào cuộc
sống, Chính phủ và các cơ quan hành chính ở địa phương tăng cường những nghiên

cứu liên quan tới bình đẳng giới nhằm cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho việc
hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới. Các tổ chức
chính trị - xã hội cần mạnh dạn hơn nữa trong quá trình tham gia quản lý nhà nước
trong vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng giới.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ là, tiếp tục “
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước” [ 8, tr. 135]. Trong phương hướng xây dựng cơ chế quản lý
xã hội bằng pháp luật thì giáo dục pháp luật cho nhân dân giữ một vai trò đặc biệt
quan trọng, vì đây là khâu tiền đề tạo ra ý thức cho phương hướng có khả năng thành
hiện thực trong đời sống xã hội.


7
Thực tế cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác thực hiện pháp
luật là nguyên nhân dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật của cán bộ, cơng chức cịn
thấp. Điều đó địi hỏi chúng ta cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược
của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân do dân và vì dân.
1.1.2. Đặc điểm bảo đảm quyền bình đẳng giới
Bình đẳng giới thể hiện vị trí, vai trị của nam và nữ ngang nhau trong các quan
hệ xã hội, do đó bình đẳng giới có các đặc điểm sau:
Tính ngang quyền: để đạt được bình đẳng giới, phụ nữ cần được tạo điều kiện và
cơ hội ngang bằng nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể Nhà nước
cần có quy định chung về bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về hưởng thụ các quyền
và gánh vác các nghĩa vụ. Đó là các quy định bình đẳng mang tính tối thiểu, khơng thể
thiếu để đảm bảo về mặt pháp lý quyền bình đẳng nam, nữ như: cơng dân nam và nữ
đều có quyền bầu cử, ứng cử; có quyền tự do kết hơn và tự do ly hơn; có quyền tự do
kinh doanh theo quy định của pháp luật
Tính ưu đãi: do đặc điểm truyền thống và đặc điểm sinh học của phụ nữ khác biệt
so với nam giới nên để đạt được bình đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích

đặc biệt và hợp lý đối với phụ nữ. Ví dụ, phụ nữ phải đảm nhận chức năng sinh đẻ và
ni con nhỏ, vì vậy pháp luật lao động cần thiết phải quy định khi nữ lao động nghỉ
thai sản họ vẫn được hưởng nguyên lương đồng thời được trợ cấp thai sản.
Tính linh hoạt: việc đối xử ưu đãi với phụ nữ cần được điều chỉnh linh hoạt trong
từng hồn cảnh lịch sử cụ thể, khơng mang tính bất biến. Cụ thể, phụ nữ thường có thể
chất yếu hơn và sức chịu đựng kém hơn so với nam giới, vì vậy luật nhiều nước quy
định cấm tuyển dụng nữ lao động trong các ngành nghề nguy hiểm, nặng nhọc, độc
hại. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, điều kiện lao động được cải thiện thì cần có sự
điều chỉnh sao cho phù hợp nhằm loại bỏ quy định cấm này đối với các ngành nghề,
lĩnh vực đã được cải thiện về điều kiện lao động để tạo thêm cơ hội việc làm cho phụ
nữ.
Tính phân loại: bình đẳng giới không chỉ được xem xét vị thế của phụ nữ và
nam giới trong xã hội mà còn được xem xét giữa các tầng lớp phụ nữ thuộc các thành


8
phần xã hội khác nhau trong phạm vi quốc gia và trên thế giới. Cụ thể, quy định tăng
độ tuổi nghỉ hưu đối với phụ nữ, thì có thể có lợi cho nữ giới lao động trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học, giảng dạy... nhưng lại bất lợi đối với nữ giới ở một số lĩnh vực
như: phụ nữ nông thơn, lao động nặng nhọc,…Vì vậy, quy định trên chỉ đem lại mặt
bằng ưu tiên hạn hẹp, dẫn đến làm giãn khoảng cách đối xử và tạo ra phân biệt đối xử
trong nữ giới nói chung.
Như vậy, bình đẳng giới cần được hiểu dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, bình đẳng giới khơng chỉ có ý nghĩa cơ học là số lượng của phụ nữ và
nam giới tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau. Bình đẳng giới có nghĩa là
nam giới và nữ giới được cơng nhận, được hưởng các vị thế trong xã hội ngang nhau.
Thứ hai, bình đẳng giới khơng có nghĩa là nhìn nhận nam giới và nữ giới giống y
hệt nhau mà sự tương đồng và khác biệt tự nhiên tự nhiên giữa nam và nữ được cơng
nhận và có giá trị như nhau. Bình đẳng giới có nghĩa là nam và nữ được hưởng các
thành quả một cách bình đẳng. Bình đẳng giới là vấn đề cơ bản về quyền con người, là

yêu cầu về sự phát triển bền vững của xã hội.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc
thiểu số
1.2.1. Vai trị của bảo đảm quyền bình đẳng giới
Bảo đảm quyền bình đẳng giới là một trong những mục tiêu cơ bản của việc bảo
đảm công bằng xã hội nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đảng và Nhà nước ta
nhận thức được tầm quan trọng của bình đẳng giới và luôn ghi nhận vấn đề này trở
thành cơ sở pháp lý quan trọng. Dựa vào Hiến pháp, vấn đề bình đẳng giới đã được cụ
thể hố trong các văn bản pháp luật, làm cơ sở để thực hiện và bảo đảm vấn đề bình
đẳng giới trong thực tế. Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội khố XI kì họp thứ 10
thơng qua ngày 29/11/2006, quy định về bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực, là cơ sở
pháp lý quan trọng để thực hiện vấn đề bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới được ban
hành thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta tới việc bảo đảm bình đẳng giới,
ngồi ra cịn tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần đưa các quy định của pháp luật về
bình đẳng giới vào cuộc sống. Nhưng để thực hiện các quy định về bình đẳng giới
trong đời sống xã hội là vấn đề không đơn giản. Một trong những vấn đề đáng quan


9
tâm hiện nay đó là bảo đảm quyền bình đẳng giới vẫn cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, u
cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là bảo đảm quyền bình đẳng giới, đặc biệt bảo đảm quyền
bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số có ý nghĩa và tầm quan trọng thiết thực
nhất.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với quyền con
người.
Quyền con người là những quyền cơ bản và tuyệt đối mà mọi người được
hưởng. Ở từng quốc gia mỗi con người đều được hưởng quyền con người cho dù mức
độ được hưởng của họ là khác nhau. Theo tiêu chuẩn Quốc tế, hầu hết nhưng không
phải tất cả các quyền được mô tả trong Tuyên ngôn về nhân quyền (1948). Ở cấp quốc
gia quyền của con người được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật, Luật khác của quốc

gia đó. Trong Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều chỉnh có rất
nhiều quyền của con người được ghi nhận, trong đó có quyền như quyền được bầu cử
và ứng cử, quyền quản lý nhà nước và xã hội, quyền được tự do kinh doanh, quyền
học tập, nghiên cứu khoa học, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được
hưởng bảo vệ chế độ bảo vệ sức khỏe, quyền bình đẳng ngang nhau về mọi mặt chính
trị, kinh tế, xã hội và gia đình … có hiệu lực đối với mọi cơng dân Việt Nam bất kể
giới tính, dân tộc, tơn giáo của họ. Tuy nhiên, các quyền của con người thường bị vi
phạm bởi các nguyên tắc, lề thói hay định kiến xã hội.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số gắn với sự phát
triển của xã hội.
Bình đẳng giới về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về quyền của phụ nữ với nam
giới. là sự bình đẳng về cơ hội và vị thế của phụ nữ với nam giới nhằm đem lại sự
tương xứng về quyền nam và nữ. Vì vậy ở góc độ chung nhất, đấu tranh cho bình đẳng
giới cũng là đấu tranh cho các quyền của con người, thiết lập sự bình đẳng nam nữ là
sự phấn đấu để tiến tới công bằng xã hội. Công bằng xã hội ngày nay nhiều khi chưa
được thỏa đáng trong phân công lao động, phân phối và thu nhập. Cơng bằng xã hội,
bình đẳng nam nữ chính là hạt nhân của chính sách xã hội. Là một đất nước đi lên từ
nền kinh tế nông nghiệp Đảng và Nhà nước ta luôn coi phụ nữ là lực lượng quan trọng
của sự phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã


10
hội và các chính sách đang thực hiện, đã có một cách nhìn nhận tương đối tồn diện về
các vai trò khác nhau mà người phụ nữ gánh vác trong xã hội. Trong Chiến lược quốc
gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã đưa ra mục tiêu tổng quát: “Đến năm
2020, về cơ bản bảo đảm bình đẳng giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ
hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần vào sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước” [19]. Vai trò và địa vị của phụ nữ dân tộc thiểu số
được quan tâm qua từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bất bình đẳng giới là một
trong những nguyên nhân gây cản trở lớn đối với phát triển kinh tế xã hội. Thực tiễn

chứng minh điều đó, do sự phân biệt và đối xử trong phân công lao động nên làm giảm
năng suất trong các cơ quan, xí nghiệp. Những cái giá phải trả cho sự bất bình đẳng
giới rất nặng nề, nhất là những tổn hại về cuộc sống và chất lượng cuộc sống. Thực tế
cho thấy từ các nước trên thế giới đã chứng tỏ xã hội nào có sự bất bình đẳng giới gay
gắt và dai dẳng thì xã hội đó sẽ phải trả giá đắt hơn bằng sự nghèo đói, ốm đau và
những sự bần cùng khác trong xã hội.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới gắn với pháp lý quốc tế
Trên bình diện pháp lý quốc tế vấn đề bảo vệ phụ nữ đã trở thành trọng tâm của
nhiều Công ước quốc tế thế kỷ XX. Khi Liên hợp quốc ra đời thì quyền bình đẳng giới
của phụ nữ mới được chính thức đề cập trong pháp luật quốc tế. Hiến chương Liên hợp
quốc năm 1945 lần đầu tiên khẳng định quyền bình đẳng về các quyền giữa phụ nữ và
nam giới trong “Lời nói đầu”: “nhân dân các quốc gia liên hiệp quyết tâm khẳng định
lại sự tin tưởng vào những quyền cơ bản của con người…vào quyền bình đẳng giữa
nam và nữ”. Tun ngơn quốc tế về Quyền con người năm 1948 cũng xác lập nguyên
tắc nền tảng là tất cả mọi người đều được hưởng các quyền tự do một cách bình đẳng,
khơng có bất kì sự phân biệt nào về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tơn giáo, ngơn ngữ,
quan điểm chính trị và các yếu tố khác. Nguyên tắc bình đẳng nam nữ cũng được
khẳng định trong cả hai Công ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người năm
1966 là Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Cơng ước quốc tế
về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR). Các văn kiện kể trên bước đầu đã
xác lập vị thế chủ thể bình đẳng của quyền con người, của quyền phụ nữ so với nam
giới nhưng chưa đưa ra được những giải pháp bảo đảm cho phụ nữ được thụ hưởng


11
đầy đủ các quyền bình đẳng đó trên thực tế. Vì vậy, năm 1967 Liên hợp quốc đã thơng
qua tun bố về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Đây chính là
nền tảng cho sự ra đời của Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 18 tháng 12 năm 1979. Một trong những thành tựu của
bản “Hiến chương về bình đẳng giới” đó là Cơng ước đã xóa bỏ mọi hình thức phân

biệt đối xử với phụ nữ một văn bản pháp lý quan trọng, trực tiếp nhất về bảo đảm bình
đẳng giới. Việt Nam là nước sớm tham gia Công ước vào ngày 29 tháng 7 năm 1980
và đã được phê chuẩn vào ngày 17 tháng 2 năm 1982. Từ khi tham gia đến nay, Việt
Nam đã rất nỗ lực và đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thực hiện Công ước.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao ý
thức pháp luật cho người dân.
Pháp luật của Nhà nước đưa ra không phải lúc nào cũng được mọi người trong xã
hội tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Bản chất pháp luật của Nhà
nước ta là phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đơng đảo quần chúng nhân
dân trong xã hội.
Pháp luật của Nhà nước được một số người quan tâm tìm hiểu và nắm bắt xuất
phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu nào đó của họ. Họ ln theo sát
những quy định pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho cơng việc của
mình, nhưng số lượng đối tượng này ít. trong điều kiện trình độ dân trí còn chưa cao,
đời sống kinh tế của đa số nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc
thiểu số vùng sâu vùng xa chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật .
Bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao ý
thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng.
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp
luật và tình cảm pháp luật
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học
tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và
cơng tác.


12
Tình cảm pháp luật là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng
pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật và
lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới cho đồng bào DTTS trong việc nâng cao ý thức

pháp luật cho người dân không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật đang
có hiệu lực mà cịn lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.2. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bình đẳng giới
Bảo đảm quyền bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại, đặc
biệt là trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Bình đẳng giới là mơi
trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng, được giáo
dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng; là tiền đề quan trọng cho sự thành
cơng trong việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ em; góp phần tăng chất lượng cuộc
sống của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; góp phần giải
phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hồn thiện khung
luật pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng giới như: Luật hơn
nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phịng chống bạo lực gia đình…mà trọng
tâm là Luật bình đẳng giới và thông qua các công ước quốc tế như công ước về xố bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ
em… nhờ đó mà phụ nữ và trẻ em đều được bảo vệ.
Bình đẳng giới là nam và nữ đều được tiếp cận với giáo dục, dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, đào tạo nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập, tham gia vào các hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội, chính trị,... Bình đẳng giới có nghĩa rằng khơng cịn sự phân biệt
đối xử trên cơ sở giới tính, phụ nữ và nam giới cùng có địa vị bình đẳng trong xã hội.
Bình đẳng khơng có nghĩa là nam giới và phụ nữ hoàn toàn như nhau mà là các điểm
tương đồng và khác biệt giữa họ được thừa nhận và tơn trọng. Vì vậy thực hiện bảo
đảm bình đẳng giới là đảm bảo quyền con người. Mọi người sinh ra đều có quyền bình
đẳng. Thực hiện bình đẳng giới đem lại lợi ích cho phụ nữ và xã hội.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới là yếu tố quan trọng trong nâng cao chất lượng
cuộc sống của con người, của gia đình và tồn xã hội. Chiến lược quốc gia về bình


13
đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24-122010 với 2 quan điểm:

Thứ nhất, là xem Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành
quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng
của chiến lược phát triển con người. Cơng tác bảo đảm quyền bình đẳng giới là một
trong những yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi con người, của
gia đình và toàn xã hội.
Thứ hai, là tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương, cùng sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, sự tham gia của mỗi cá nhân, từng gia
đình và cả cộng đồng đối với cơng tác bình đẳng giới; huy động tối đa mọi nguồn lực
để thực hiện có hiệu quả cơng tác bình đẳng giới.
Thúc đẩy bảo đảm quyền bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào
việc thực hiện thắng lợi Chiến lược quốc gia, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
gia đình và xã hội.
1.3. Nội dung của bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số
1.3.1. Bảo đảm quyền Bình đẳng giới trong lĩnh vực Chính trị
Quyền bình đẳng giới trong đời sống chính trị là quyền quan trọng để xây dựng
một xã hội công dân, thể hiện quyền làm chủ của cơng dân với Nhà nước. Bình đẳng
giới và tiến bộ của phụ nữ khơng cịn là vấn đề riêng của nữ giới, của một quốc gia,
mà là mục tiêu phấn đấu thúc đẩy thực hiện của nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên thế
giới.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được xem là một trong những nội dung quan
trọng, cốt lõi, tạo cơ hội cho phụ nữ được thể hiện tiếng nói đại diện cho giới của
mình, được phát huy trình độ năng lực, kinh nghiệm, thể hiện quan điểm trong quyết
định các chính sách về các lĩnh vực khác nhau của quốc gia. Thông qua đó, góp phần
tạo nên nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng, Bác Hồ
đã khẳng định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “đánh đổ đế quốc Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn được độc lập, nam nữ bình quyền”. Chính vì



14
vậy, ngay sau khi giành độc lập Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc đảm
bảo quyền con người của phụ nữ nói chung và quyền chính trị của phụ nữ nói riêng,
coi đó là một trong những mục tiêu lớn, một chương trình hành động thiết thực nhằm
đảm bảo quyền con người. Để bảo đảm quyền bình đẳng giới trên lĩnh vực chính trị
của phụ nữ, trước hết phải kể đến quyền bầu cử và ứng cử. Đây là quyền lợi chính trị
cực kỳ quan trọng của phụ nữ Việt Nam. Điều 6, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”; Điều 27 quy định: "Cơng dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ
hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc
thực hiện các quyền này do luật định" [14]. Điều 8, Điều 9, Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Số lượng phụ nữ được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do UBTV Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của
Đoàn Chủ tịch BCH Trung ương Hội LHPN Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba mươi
lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
HĐND là phụ nữ”. Tại khoản 5, Điều 11 Luật Bình đẳng giới năm 2007 quy định các
biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, bao gồm: a) Bảo đảm tỷ lệ
thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới; b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức
danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.”[15].
Có thể nói, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo ra một
bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của
phụ nữ nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền bình đẳng nam nữ trên thực
tế. Để tăng cường nữ giới trong lĩnh vực chính trị, địi hỏi chúng ta cần tăng cường
giáo dục, tuyên truyền hơn nữa nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người dân trong
việc nhìn nhận vai trị, vị trí của phụ nữ; sự cam kết và đầu tư mạnh mẽ của Chính
phủ, sự tham gia của các cấp, ngành, đoàn thể và mỗi cá nhân trong việc nâng cao vị
thế, vai trò người phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị



15
1.3.2. Bảo đảm quyền Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm
Theo Luật Bình đẳng giới (2007), bình đẳng giới trong lao động, việc làm được
xác định:
“Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình
đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện
lao động và các điều kiện làm việc khác. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi
được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong ngành ghề có tiêu chuẩn chức danh”
[15,tr.5].
Bình đẳng giới trong lao động, việc làm là đảm bảo cơ hội ngang bằng nhau
cho cả nữ giới và nam giới trong lĩnh vực lao động và việc làm. Điều này bao gồm cơ
hội tiếp cận các nguồn lực đầu tư cho “vốn con người”, các nguồn lực sản xuất, cơ hội
được tham gia thị trường lao động và có được việc làm phù hợp với khả năng, sở thích
và có thể phát huy hết tiềm năng của bản thân.
Tuy nhiên, cùng với việc bảo đảm cơ hội ngang nhau giữa nam, nữ là việc cần
thấy rõ vai trò giới, nhu cầu giới của nam, nữ có thể giống và khác nhau, chỉ có một
phần nhỏ sự khác biệt này là do những khác nhau về đặc điểm sinh học giữa nam và
nữ, còn phần lớn là do những định kiến và quan niệm xã hội tạo nên. Mức độ ảnh
hưởng của những điểm bất lợi này đối với những tầng lớp phụ nữ khác nhau là khác
nhau. Chẳng hạn như, mức độ ảnh hưởng sẽ trầm trọng nhất và sâu sắc nhất là đối với
những em bé gái phải bỏ học hay đi làm sớm do gia đình q nghèo, do đơng an hem,
hay do quan niệm là con gái không cần học nhiều…Trong tương lai, các em sẽ phải
chịu những rủi ro thất nghiệp cao hoặc làm những công việc đem lại thu nhập thấp.
Những phụ nữ đã có gia đình, những phụ nữ ở nơng thơn, trong những hộ gia đình
nghèo là những người chịu nhiều thiệt thòi nhiều hơn trước những bất lợi này.
Khơng có cơng việc hay nghề nghiệp nào chỉ dành riêng cho nam hay cho nữ mà
chỉ có cơng việc phù hợp với khả năng và sở thích của mỗi người. Nếu có bất kỳ sự
phân biệt đối xử nào cũng có thể dẫn tới những hậu quả xấu, chẳng hạn như với quan
niệm nam giới không nên làm công việc bán hàng trong điều kiện nam giới đang thất

nghiệp nhiều sẽ khiến cho tỷ lệ thất nghiệp càng tăng, mức thu nhập của nhiều hộ gia
đình do vậy sẽ bị ảnh hưởng.


16
Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt là lao động nữ DTTS đã
được tỉnh quan tâm triển khai. Chủ trương phát triển và mở rộng các khu cơng nghiệp
và đưa người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài đã tạo điều kiện cho nhiều lao
động, trong đó có lao động nữ, có việc làm mới và thu nhập ổn định.
1.3.3. Bảo đảm quyền Bình đẳng giới trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo
Bình đẳng giới là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ nữ
là vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam và nữ
lại là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Chính vì vậy mà Bác Hồ
đã khẳng định: “Cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng
với đàn ơng về các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và gia đình”. Trong lĩnh vực
giáo dục, vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc. cụ thể:
Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình
của xã hội.
Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau
và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên
vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại được
học hành nhiều hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn
mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân
lực của tương lai.
Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo,
tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia đình
được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải
thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc
quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với con cái.

Ngồi ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trị quyết định trong việc
chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất
lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của tồn xã hội
sẽ được nâng lên.


17
1.3.4. Bảo đảm quyền Bình đẳng giới trong lĩnh vực Y tế
Đảm bảo quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe là một vấn đề
quan trọng và cấp thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do địa vị thấp kém
của bé gái và phụ nữ nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của nữ thấp hơn so với nam giới và điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
của các bé gái và phụ nữ. Nhận thức được vấn đề này hiện nay, mục tiêu bảo đảm bình
đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã và đang được
thực hiện. Cơng tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em đã
được chú trọng. Cùng với những tiến bộ của y học nước nhà, sức khỏe phụ nữ tiếp tục
được cải thiện. Chính sách mới về y tế đã tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận tốt
hơn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt khi mang thai. Bước đầu triển khai nhiều
can thiệp hiệu quả như quản lý thai, phát hiện thai có nguy cơ, chuyển tuyến kịp thời,
nâng cao chất lượng chăm sóc tại các cơ sở y tế đồng thời truyền thông giáo dục cho
người dân tại cộng đồng về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Chú trọng tới việc phát
triển mạng lưới cung cấp dịch vụ ở các vùng đặc biệt khó khăn như hỗ trợ nữ hộ sinh/y
sỹ sản nhi của trạm y tế xã tại địa bàn trọng điểm, đào tạo và sử dụng cô đỡ thôn bản
người dân tộc, hỗ trợ triển khai nhiều dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản ở các trạm y
tế xã để từng bước phổ cập các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại y tế tuyến cơ
sở. Ngoài các hoạt động trên, các cấp Hội phối hợp với Trung tâm Y tế, Ủy ban Dân
số giúp đỡ trẻ em, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tổ chức các hoạt động truyền
thông kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe, thực hiện cơng tác dân số - KHHGĐ,
phòng chống các bệnh lây nhiễm, phòng chống HIV/AIDS cho chị em; tổ chức tư vấn,
khám phụ khoa và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em và các cặp vợ chồng trong

độ tuổi sinh đẻ, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, sử dụng các biện pháp tránh thai
1.3.5. Bảo đảm quyền Bình đẳng giới trong lĩnh vực Văn hóa, thơng tin – truyền
thơng
Với chủ trương xã hội hoá văn hoá đã tạo thêm nhiều cơ hội cải thiện, nâng cao đ
ời sống tinh thần cho phụ nữ và hướng tới mục tiêu bình đẳng giới. Các loại hình hoạt
động văn hố phát triển ngày một phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc dân tộc.
100% Đài PT-TH các tỉnh, huyện có chuyên mục nâng cao nhận thức về BĐG; bộ chỉ


18
số thống kê phát triển giới cấp tỉnh, huyện, xã được triển khai thực hiện. Quản lý nhà
nước về BĐG và hoạt động VSTBPN ở các cấp, các ngành, các địa phương ngày càng
đi vào chiều sâu, từng bước được quan tâm hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất. Thông qua
các chuyên mục tiếp chuyện bạn nghe đài, Tư vấn chế độ chính sách, các vấn đề xã
hội... Đài phát thanh và truyền hình Việt Nam đã trả lời hàng trăm vấn đề, giải đáp
thắc mắc về thực hiện bình đẳng giới, Luật phịng chống bạo lực gia đình, các quyền
bình đẳng giữa nam và nữ; quyền được làm việc, quyền sở hữu, quyền thừa kế và
quyền được lựa chọn bạn đời khi kết hôn,.. Cùng với hệ thống các kênh của đài phát
thanh - truyền hình Việt Nam thì hầu hết các địa phương đều có nội dung tun truyền
về bình đẳng giới trên kênh phát sóng của mình. Đặc biệt, tỉnh Nghệ An rất chú trọng
đến đời sống văn hoá của đồng bào ở các vùng dân tộc thiểu số qua việc tổ chức thực
hiện các chương trình hỗ trợ, đầu tư kinh phí để xây dựng nhà văn hố. Các chương
trình phát thanh và truyền hình về bình đẳng giới đã được thực hiện bằng cả tiếng Việt
và tiếng dân tộc đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ hơn các chính sách ưu việt
của Đảng và Nhà nước ta về bình đẳng giới.
Trong các năm qua, các cơ quan thơng tấn báo chí đã quan tâm thúc đẩy thực
hiện bình đẳng giới thơng qua việc tổ chức các lớp tập huấn kiến thức giới cho đội ngũ
phóng viên, biên tập viên. Mạng lưới cán bộ truyền thơng về bình đẳng giới được duy
trì, tiếp tục là kênh thông tin quan trọng giữa cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng
giới với các cơ quan thơng tấn báo chí. Nhờ có các hoạt động này, các sản phẩm văn

hố, thơng tin mang định kiến giới đã từng bước giảm dần so với trước đây, ý thức
pháp luật bình đẳng giới đã có nhiều chuyển biến tích cực.
1.4. Một số yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền bình đẳng giới trong đồng
bào dân tộc thiểu số
1.4.1. Định kiến giới và sự phân biệt giới tính
Định kiến giới: là một tập hợp các đặc điểm được số đông gán cho là thuộc về
nam hay nữ, các quan niệm này đôi khi sai lầm và hạn chế những điều mà một cá nhân
có thể làm. Những định kiến như trên không chỉ tồn tại nhiều từ thời xã hội phong kiến
mà ở xã hội ngày nay thì những quan niệm đó vẫn cịn hiện hữu. Định kiến giới vừa
phản ánh sự bất bình đẳng giới, vừa củng cố duy trì thực trạng bất bình đẳng giới trong


19
xã hội. Thể hiện rõ nhất của định kiến giới phải kể đến tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
đã ăn sâu bám rễ lâu đời. Mặc dầu, những năm gần đây cái nhìn về “con gái” trong xã
hội đã cởi mở hơn. Nhưng tư tưởng thích con trai hơn nên nhiều phụ nữ sẵn sàng phá
thai nếu biết thai nhi là con gái bất chấp điều đó có hại như thế nào đối với sức khỏe.
Cịn ở các vùng nơng thơn khơng có khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đốn giới tính thai
nhi sớm đã xảy ra tình trạng có nhiều gia đình vẫn tiếp tục sinh tiếp con thứ 4, thứ 5
cho đến khi sinh đươc con trai mới thơi.
Giới tính: là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và khơng
thể thay đổi được. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt giới tính, mà trọng tâm là
phong trào nữ quyền diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú.
Nhiều chỉ trích đã phê phán quan niệm cho rằng các đặc tính giới khác nhau giữa
nam và nữ đã dẫn đến sự phân chia các vai trò khác nhau trong xã hội, gia đình, kinh
doanh hay chính trị. Trong lịch sử đã có nhiều tư tưởng cho rằng nam và nữ có vai trị
đặc trù trong xã hội, trong đó nam giới thường đảm nhiệm các công việc về nghệ
thuật, kỹ nghệ, quân đội trong khi phụ nữ đảm nhận việc nội trợ gia đình và chăm sóc
trẻ em. Sự chun mơn hóa về vai trị này đã dẫn đến sự hình thành quan niệm rằng
phụ nữ khơng có khả năng thực hiện các cơng việc địi hỏi trí tuệ.

Hiện nay tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, phụ nữ đều có thu nhập thấp hơn
nam giới bất chấp một số nỗ lực về pháp luật đã được đưa ra để thu hẹp khoảng cách
về thu nhập. Theo kết quả của những nghiên cứu gần đây cho thấy, sự khác nhau về
thu nhập vẫn còn tồn tại, phụ nữ có thu nhập thấp hơn nam giới tồn tại trong mọi
ngành nghề. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2015 cho thấy: thu nhập bình quân
hàng tháng của phụ nữ chiếm 85% thu nhập của nam (tỷ lệ này ở khu vực nông nghiệp
chỉ là 66% và ở khu vực công nghiệp là 78%). Trong khi sự bất bình đẳng về thu nhập
trong lao động có thể phản ánh sự kết hợp của các yếu tố có sự khác nhau về trình độ
văn hóa, chun mơn, kinh nghiệm công tác. Lao động nữ chỉ được nhận 86% so với
mức tiền lương cơ bản của nam giới. Tiền lương cơ bản của lao động nữ trong tổng thu
nhập là (71%) thấp hơn so với nam giới (73%). Phân biệt giới hiện nay phản ánh trên
một số mặt sau: sự bình đẳng về chính trị, quyền bỏ phiếu cho phụ nữ, xóa bỏ các chế
độ phân biệt giới, bạo lực gia đình mà đối tượng thường là nữ, những chỉ trích về các


×