Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước ở các huyện miền tây tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ THU ANH
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở CÁC HUYỆN MIỀN TÂY TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60310201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THẾ ĐỊNH
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân,
tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đinh Thế Định
Trường Đại học Vinh người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn giúp đỡ tôi
thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Ban giám hiệu,
Phòng Sau đại học, khoa Giáo dục chính trị trường Đại học Vinh đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập
và hoàn thành đề tài này.
Xin cảm ơn gia đình, ban bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Trần Thị Thu Anh
2
MỤC LỤC
BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT


KÍ HIỆU TỪ VIẾT TẮT
CCHC Cải cách hành chính
CSXH Chính sách xã hội
CB, CC Cán bộ, công chức
3
DCND Dân chủ nhân dân
DTTS Dân tộc thiểu số
HTCT Hệ thống chính trị
XHCN Xã hội chủ nghĩa
UBND Uỷ ban nhân dân
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách hành chính được xem là khâu đột phá để xây dựng nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, thống nhất, thông suốt, nhằm tạo điều kiện tốt
cho người dân, doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia vào các hoạt động kinh
tế, là nhiệm vụ mang tầm chiến lược chống nạn tham nhũng, những cản trở
trong quá trình thực thi công vụ. Miền Tây Nghệ An, cùng với việc thực hiện
4
Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/1/2007 của Chính phủ và triển khai Nghị
quyết số 15-NQ/TU ngày 31/12/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ V, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận: Thủ tục hành chính từng bước được cải thiện, cắt giảm
được trên 20% thủ tục không cần thiết, các thủ tục trở nên gọn nhẹ, công khai,
minh bạch rõ ràng hơn; Cơ chế "một cửa" triển khai và đi vào hoạt động có
hiệu quả; Tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước cấp huyện xã được sắp xếp lại
gọn nhẹ hơn; Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên, đặc biệt là
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, kỹ năng
hành chính, khả năng xử lý giải quyết công việc tốt hơn; Cải thiện được mối

quan hệ giữa cơ quan hành chính với người dân, doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách hành
chính vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong đó năng lực xử lý công việc của một
số cán bộ yếu, chưa khai thác hết các tính năng cơ bản của các thiết bị, máy
móc được trang bị, trong thi hành công vụ có thái độ hách dịch, sách nhiễu
gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp khi tiếp xúc và giải quyết công
việc. Thực hiện cơ chế "một cửa", “một cửa liên thông” ở một số cơ quan cấp
xã, huyện trên địa bàn còn mang tính hình thức, chưa hợp lý, làm hạn chế
không nhỏ đến cải cách hành chính trên địa bàn.
Đội ngũ cán bộ công chức trên địa bàn đông về số lượng nhưng thiếu
tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo chính quy, bài bản, chuyên sâu việc
đánh giá cán bộ chưa đúng, chưa trúng dẫn đến đề bạt cân nhắc thiếu kịp thời,
ít có bước đột phá về công tác cán bộ…nhìn chung trên địa bàn miền Tây
cũng chưa có một đội ngũ đủ tầm để nâng cao chất lượng trong cải cách hành
chính.
5
Thực hiện các chủ trương chính sách của tỉnh Nghệ An về công tác cải
cách hành chính trên địa bàn tỉnh nói chung, miền Tây nói riêng là việc xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; trong đó chú trọng là công tác
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, huyện.
Điều đó một lần nữa khẳng định đội ngũ cán bộ, công chức xã, huyện có vai
trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở cơ sở của vùng miền Tây Nghệ An.
Việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở trong cải cách hành chính là nhiệm vụ mang tính chiến lược lâu dài của
các cấp ủy Đảng, chính quyền. Đây là một biện pháp quan trọng, cơ bản để
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở bảo đảm số lượng, chất
lượng, cơ cấu hợp lý phù hợp với điều kiện đặc điểm của vùng.
Từ những lí do trên cần có một sự nghiên cứu toàn diện về chất lượng
đội ngũ cán bộ các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An để có giải pháp nâng cao
trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền. Từ những lý do nêu trên

tác giả lựa chọn đề tài “Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính nhà nước ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An trong giai đoạn
hiện nay” làm đề làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học thạc sỹ, chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực, cải cách hành chính từ trước tới
nay đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu
có các công trình, đề tài:“Cải cách hành chính”, tác giả Nguyễn Ngọc Hiển
đã làm rõ những lý luận chung về hành chính công. Chức năng hành chính
nhà nước. Thể chế, tổ chức hành chính nhà nước. Kỹ thuật và nghiệp vụ hành
chính….
Các tác giả Ngô Trương Hoàng Thy, John McKenzie, Trần Phương
Trình với cuốn “Tìm hiểu về đào tạo nguồn nhân lực, lợi ích và những hình
thức thay thế cho đào tạo” đã đi sâu làm rõ nhu cầu đào tạo, những phương
6
pháp sử dụng trong đánh giá nhu cầu. Lên kế hoạch chuẩn bị, xác định mục
tiêu và hình thức đào tạo.
Trong cuốn “ Giáo trình quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức công”,
tác giả Trần Thị Thu đã giới thiệu tổng quan về quản lí nguồn nhân lực trong
tổ chức công. Phân tích công việc, kế hoạch hoá nguồn nhân lực, tuyển dụng
nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực, đánh giá nguồn nhân lực, thù lao lao động
và chính sách quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức công.
Cuốn“Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội”, tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn, đã tổng kết những thành tựu chủ yếu trong công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học ở nước ta 55 năm qua. Vai trò phương pháp luận của
triết học, ảnh hưởng cuả triết học đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người và công cuộc đổi
mới đất.
“Cán bộ, công chức với cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay”, tác
giả Nguyễn Thị Tâm. Đã tập trung trình bày những yêu cầu và thực trạng việc

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức gắn với cải cách hành chính; quan điểm,
mục tiêu, phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Đề cập đến vai trò, hạn chế trong thủ tục hành chính“Một số vấn đề về
cải cách thủ tục hành chính” tác giả Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn đi sâu
làm rõ sự tác động của thủ tục hành chính đối với hoạt động của bộ máy quản
lý nhà nước. Những hạn chế trong quản lý nhà nước do thiếu những thủ tục
hành chính hữu hiệu. Quan điểm, nguyên tắc và giải pháp cải cách thủ tục
hành chính.
“Xã hội học hành chính: Nghiên cứu giao tiếp và dư luận xã hội trong
cải cách hành chính nhà nước”, tác giả Nguyễn Đình Tấn, Lê Ngọc Hùng đi
sâu trình bày sự ra đời và phát triển xã hội học hành chính. Xã hội học về
hành vi và tổ chức hành chính. Giao tiếp trong quản lí hành chính nhà nước -
7
tiếp cận từ góc độ lí luận và từ góc độ kết quả điều tra xã hội học, sự biến đổi
giao tiếp trong quản lý hành chính nhà nước và dư luận xã hội với công cuộc
cải cách hành chính hiện nay.
“Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta”, tác giả Bùi Tiến Quý, Dương Danh Mủ,
đã khái quát về hệ thống chính quyền địa phương. Giải pháp thực tế về cải
cách hành chính ở địa phương.
Bàn về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong cải cách hành chính hiện một
số bài báo nghiên cứu đã đề cập đến“Đổi mới cơ chế, chính sách ưu tiên trong
đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá” của tác giả Nguyễn Đăng Thành, đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước,
2009. - Tháng 11. - Số 166. - tr. 4-9; “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả Trịnh Quang Từ
đăng trên Tạp chí Khoa học Giáo dục 2009. - Số 51. - tr. 40-44; Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho yêu cầu phát triển đất nước của tác giả Hồng Hà,
đăng trên tạp chí Tư tưởng văn hóa, 2005, Số 3. - tr.63-64; Đào tạo nguồn

nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả
Lương Đình Hải, đăng trên báo Triết học, 2009. - Số 6 (217). - tr. 3-9; “Một
số vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam” tác giả Vũ Thành Hưng
đăng trên Tạp chí Kinh tế và phát triển, 2004. Số 90, tr 20-2, 28; “Đào tạo
nguồn nhân lực qua kinh nghiệm phát triển giáo dục ở một số nước” của
Trương Giang Long đăng trên Tạp chí Cộng sản, 2004, số 13, tr. 70-74. Các
bài viết đã đề cập đến thực trạng, yêu cầu, định hướng, phương pháp, cách
thức nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực trong công cuộc phát triển đất nước
nói chung và trong lĩnh vực cải hành chính hiện nay.
Trong những năm gần đây đã có nhiều luận án tiến sĩ quan tâm đi sâu
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến cải cách hành chính và đào tạo nguồn
nhân lực, điển hình: Luận án tiến sĩ Luật học “Cải cách bộ máy hành chính
8
nhà nước cấp huyện ở nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào" của nghiên cứu
sinh Phoxay Xaynhasone. Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản
nhằm cải cách bộ máy hành chính nhà nước cấp huyện ở nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển của đất nước Lào;
Luận án: “Nhận thức của công chức hành chính về việc sắp xếp lại bộ máy
các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND cấp tỉnh thành phố” của nghiên
cứu sinh Nguyễn Thị Vân Hương. Thực trạng nhận thức của công chức hành
chính về việc sắp xếp lại bộ máy cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND cấp
tỉnh, thành phố. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của công
chức, góp phần nâng cao hiệu quả của việc cải cách hành chính nhà nước ở
các địa phương.
Tài liệu “Bồi dưỡng kỹ năng tiếp nhận hồ sơ hành chính thuộc thẩm
quyền uỷ ban nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn: Dùng cho cán bộ
tiếp nhận hồ sơ hành chính của UBND các quận, huyện, xã, phường, thị trấn.
Của tác giả Bùi Đức Thắng (chủ biên), Lê Gia Ánh. Tài liệu đề cập đến thủ
tục hành chính, cải cách thủ tục hành chính (CCTTHC) theo quy chế "một
cửa" và kỹ năng tiếp nhận hồ sơ hành chính. Các kỹ năng tiếp nhận, giải

quyết, hướng dẫn thủ tục hành chính của cán bộ UBND quận, huyện
Trên địa bàn Nghệ An trong những năm qua đã có nhiều chương trình,
nghiên cứu trực tiếp đề cập đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, cải cách hành
chính trên địa bàn tỉnh nói chung miền Tây Nghệ An nói riêng. Công trình
“Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”, Nguyễn Đình Lộc, đã cho chúng ta cái
nhìn khá tổng thể về các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, công trình đi sâu vào
đặc điểm địa lý tự nhiên và dân cư của từng dân tộc, khảo tả một số đặc điểm
chung và một số đặc trưng văn hóa trong sản xuất, phong tục tập quán Đề
tài “Một số vấn đề xã hội và nhân văn của đồng bào các dân tộc thiểu số và
đồng bào các tôn giáo ở Nghệ An”; PGS. Hoàng Văn Lân và KS. Hồ Phi
9
Phục. Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp và xây dựng mô hình vượt đói nghèo
cho đồng bào Khơ Mú – Nghệ An”, TS. Hoàng Xuân Lương.
Đề tài cấp bộ “Phát huy nguồn lực lao động ở tỉnh Hà Tĩnh trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Hà Tĩnh hiện nay” của TS
Đinh Thế Định, Đại học Vinh, đi sâu đánh giá thực trạng nguồn lao động ở
Hà Tĩnh hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp
cơ bản nhằm phát huy nguồn lực lao động phục vụ cho quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Liên quan đến vấn
đề cải cách hành chính trên địa bàn miền Tây Nghệ An đề tài nghiên cứu khoa
học cấp trường “Cải cách hành chính nhà nước ở huyện Quế Phong tỉnh
Nghệ An” TS. Đinh Thế Định, đã đi sâu đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp đánh giá thực trạng nền hành chính Nhà nước ở huyện Quế Phong. Đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính nhà nước phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của huyện Quế Phong.
Báo cáo “Điều tra dư luận xã hội về công tác cải cách hành chính trên
địa bàn tỉnh Nghệ An” năm 2011, do Trung Tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Nghệ An thực hiện. Qua khảo sát điều tra xã hội học, trên cơ sở trưng cầu
ý kiến của nhân dân tại các đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh, báo cáo đã
cung cấp những thông số quan trọng về thực trạng công tác cải cách hành

chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất, kiến nghị với Ủy ban nhân
dân tỉnh Nghệ An về giải pháp và những yêu cầu cần làm để nâng cao chất
lượng cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
Các nghiên cứu đi trước đã tập trung khai thác vào những khía cạnh
liên quan đến phát triển nguồn nhân lực và cải cách hành chính trong quá
trình hội nhập và phát triển, trên các phương diện chuyên ngành Chính trị
học, Nhân học, Văn hóa học khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu vấn đề đào
tạo nguồn nhân lực trong cải cách hành chính dưới góc độ chuyên ngành
Chính trị học, đặc biệt ở một địa bàn như miền Tây Nghệ An đang là một vấn
10
đề còn nhiều khoảng trống cần được quan tâm đi sâu nghiên cứu. Nghiên cứu
vấn đề “Đào tạo nguồn nhân lực trong cải cách hành chính trên địa bàn miền
Tây Nghệ An” góp phần bổ sung khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách hành chính nhà nước, từ đó góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội, góp phâng đưa các huyện miền Tây Nghệ An sớm thoát khỏi tình
trạng đói nghèo.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công tác cải cách hành chính Nhà nước.
- Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực trong
cải cách hành chính ở miền Tây Nghệ An hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực hành chính các huyện miền tây Tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nguồn nhân lực là một phạm trù có nội dung rất rộng, nó bao gồm
nhiều khía cạnh, góc độ và lĩnh vực, nội dung khác nhau. Vì vậy trong phạm

vi đề tài này tác giả xin tập trung nghiên cứu khoa học về vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước ở các
huyện miền Tây tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không qian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại cơ quan Đảng,
chính quyền cấp xã, thị trấn, huyện, thị xã thuộc miền Tây Nghệ An.
Phạm vi nội dung: Nguồn nhân lực là một phạm trù có nội dung rất
rộng, nó bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy trong phạm vi đề tài này
11
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu khoa học về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
cụ thể là đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính nhà nước ở các huyện miền Tây tỉnh Nghệ An.
Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực
miền Tây Nghệ An từ 2005 - 2014
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về công tác cán bộ, về cải cách nền hành chính nhà nước và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đề tài sử dụng phương pháp định tính, định lượng trong nghiên cứu,
cụ thể:
Với phương pháp định tính: Chúng tôi tiến hành thâm nhập địa bàn
phỏng vấn sâu cán bộ công chức tại xã, thị trấn, huyện, thị xã đóng trên địa
bàn miền Tây Nghệ An; tiến hành quan sát, tham dự vào các buổi làm việc tại
phòng giao dịch một cửa của đội ngũ cán bộ hành chính xã, các buổi tập huấn,
các cuộc họp của xã, huyện với người dân; tiến hành trao đổi thảo luận với
một số cán bộ thuộc ủy ban xã, huyện, một số người dân để có cơ sở đánh giá
sâu về vấn đề đào tạo nhân lực trong cải cách hành chính hiện nay tại địa bàn
nghiên cứu.
Với phương pháp định lượng: Chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học

thông qua bảng hỏi để thu thập các thông tin số liệu từ 2 đối tượng là người
dân cán bộ quản lí cấp xã, huyện.
- Đề tài sử dụng các phương pháp liên ngành Nhân học, Văn hóa học,
Chính trị học, trong nghiên cứu để làm rõ lý luận, thực trạng đào tạo nguồn
nhân lực trong cải cách hành chính hiện nay, từ đó làm cơ sở đề xuất một số
giải pháp khoa học nhằm định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong cải cách hành chính tại các địa bàn các huyện miền Tây Nghệ An.
12
6. Đóng góp đề tài
Về mặt khoa học: Đề tài cung cấp những luận cứ khoa học về đào tạo
nguồn nhân lực, trực tiếp là đội ngũ cán bộ, công chức trong cải cách hành
chính hiện nay.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là một trong những cơ sở
góp phần giúp các nhà quản lí đánh giá thực trạng về đào tạo nguồn nhân lực
trong cải cách hành chính trên địa bàn miền Tây Nghệ An hiện nay. Từ đó có
những định hướng, chính sách phù hợp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cải cách hành chính ở miền Tây nói riêng và toàn
tỉnh nói chung.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài gồm 3 chương.
13
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1 Mục đích, nội dung cải cách hành chính Nhà nước
1.1.1 Mục đích, cải cách hành chính Nhà nước
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các

nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như
một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và
các mặt khác của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã trải qua 25 năm. Trong
khoảng thời gian đó, song song với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành
chính được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước
thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành
chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự
phát triển đất nước. Nền hành chính từng bước được hiện đại hóa, đem lại
hiệu quả thiết thực cho công việc quản lý Nhà nước. Các dịch vụ công phục
vụ đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, dòng chảy cải cách
hành chính vẫn chưa phát huy hết những lợi thế tích cực trước những yêu cầu
thực tiễn hiện nay. Vì vậy, tác động chưa nhiều đến sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy
sinh cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh
toàn cầu hoá đang đặt ra cho chúng ta những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi
phải có những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là, quá trình cải cách
hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải
quyết.
14
Trong những năm gần đây cải cách hành chính được Đảng ta xác định
là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và hoàn thiện hiệu lực của bộ
máy Nhà nước, với mục tiêu “xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ
năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có
hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành
mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và
làm việc theo pháp luật trong xã hội” [12; 126]. Các chủ trương, giải pháp có
ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính như: điều chỉnh chức năng và
cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc Bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách quản lý Nhà nước với hoạt

động sản xuất kinh doanh, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự
nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước, tiếp tục cải
cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
đủ năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng. Ngày
17.9.2001 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê
duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà Nước giai đoạn 2001 -
2010. Nghị quyết Đại hội Đảng X, XI cũng xác định phải tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính, coi đây là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện
thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ thường xuyên của tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Đẩy mạnh cải cách hành chính hướng tới mục tiêu xây dựng cho được
một nền hành chính phục vụ nhân dân, phục vụ phát triển bảo đảm dân chủ,
thống nhất, thông suốt, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất và trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, vì lợi ích
của nhân dân theo đúng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Phấn đấu, đến năm 2020 hệ thống hành chính được
cải cách cơ bản phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế phát triển theo
hướng hiện đại, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
15
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng
yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Mục đích của cải cách hành chính:
+ Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp
với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về
kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
+ Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản;
đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế; phát

huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản
quy phạm pháp luật.
+ Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm
rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành
chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
+ Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng.
+ Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô
toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
+ Bộ máy của các Bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ
chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính
sách, cung cấp dịch vụ công.
+ Đến năm 2020, thực hiện các quy định mới về phân cấp quản lý hành
chính Nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền
địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy
chính quyền ở nông thôn.
16
+ Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện được tổ chức
lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước theo nhiệm vụ và
thẩm quyền được xác định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân (sửa đổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của
chính quyền cấp xã.
+ Xây dựng nền hành chính Nhà nước trên địa bàn được hiện đại hóa
một bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại
phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước kịp thời và thông suốt. Hệ thống thông tin
điện tử của Chính phủ được đưa vào hoạt động.
- Cuộc cải cách hành chính đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị và cải
cách bộ máy nhà nước.

Cải cách và hoàn thiện nền hành chính Nhà nước gắn liền với xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và
phát huy bản chất của giai cấp công nhân, xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất ổn
định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chế độ trách
nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ,
công chức Nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân.
+ Áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi
mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà
cho dân.
+ Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ
với bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành và
hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
17
giữ vững trật tự, kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Cải cách hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp đòi hỏi có tầm
nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách hành
chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp.
+ Cải cách hành chính phải được tiến hành từng bước vững chắc, có
trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể.
Với nhận thức về tính cấp thiết đó, CCHC cần được chỉ đạo, điều hành
sát sao và dứt điểm đúng với mục đích của một nhiệm vụ đột phá, không thể
coi là một công việc bình thường làm sớm hay muộn cũng không ảnh hưởng gì
đến sự nghiệp đổi mới và phát triển, có như vậy thực hiện cải cách hành chính
mới thực sự trở thành khâu đột phá để phá bỏ các rào cản manh mún, lạc hậu,
bảo thủ, trì trệ và nguyên tắc máy móc. Đó cũng chính là mục đích hướng tới

xây dựng một bộ máy hành chính vừa phù hợp với lòng dân, phù hợp với thực
tiễn của đất nước, phù hợp với những thay đổi, nhu cầu hiện nay.
Như vậy, mục đích của cải cách hành chính là nâng cao hiệu suất hoạt
động hành chính, thích ứng với những thay đổi, đẩy mạnh cải cách hành chính
nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ
quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt
yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước của vùng miền.
1.1.2 Nội dung cải cách hành chính Nhà nước
Theo nguyên lý chung một nền hành chính được cấu thành từ 4 bộ
phận: Thể chế hành chính, tổ chức bộ máy hành chính, đội ngũ công chức và
tài chính. Do vậy, để thực hiện một cuộc cải cách hành chính khoa học và
chuyên sâu cần giải quyết tốt 4 bộ phận cấu thành. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào đặc
18
điểm của từng nền hành chính cũng như những mục tiêu cải cách được xác
định trong một giai đoạn lịch sử mà cải cách hành chính có thể được xác định
không hoàn toàn giống nhau.
Với nền hành chính ở Việt Nam, nội dung cải cách hành chính được
xác định tiến hành đồng bộ trên tất cả các phương diện của nền hành chính có
bước đi thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm trong từng lĩnh vực:
+ Cải cách thể chế.
Xây dựng và hoàn thiện các thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính nhà nước. Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành
các văn bản pháp quy phạm luật; Bảo đảm việc thực thi pháp luật nghiêm
minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ công chức; Tiếp tục cải cách các thủ
tục hành chính.
+ Cải cách tổ chức bộ máy hành chính.
Điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của chính quyền địa phương cấp xã,

huyện, thị trấn, để khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng
nhiệm vụ.
Áp dụng các quy định mới về phân cấp quản lí của nhà nước tại địa
phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền và địa phương,
tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền địa phương trước
nhân dân địa phương. Định rõ những nhiệm vụ địa phương toàn quyền quyết
định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của cấp trên
và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương. Cải cách bộ
máy chính quyền địa phương. Cải tiến phương thức quản lí lề lối làm việc
trong các cơ quan hành chính tại các huyện, xã, thị trấn trên địa bàn. Thực
hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính địa phương.
+ Kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong cải cách hành
chính hiện nay trên địa bàn cần: Đổi mới công tác quản lí cán bộ, công chức.
19
Đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức.
Đổi mới nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức.
+Cải cách tài chính công.
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh phát huy tính chủ động, năng
động sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều
hành tài chính và ngân sách.
Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân
dân các cấp, tham mưu cấp trên tạo điều kiện cho địa phương chủ động xử lí
các công việc tại địa phương; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân
sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
Đổi mới công tác kiểm toán đổi với các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước. Thực hiện dân chủ, công khai minh bạch về hành chính công, tất cả
các chi tiêu tài chính đều được công bố công khai.
1.2. Nguồn nhân lực trong cải cách hành chính nhà nước

1.2.1 Nguồn nhân lực cán bộ công chức Nhà nước
Nguồn nhân lực cán bộ, công chức nhà nước, theo yêu cầu về tính
chuyên nghiệp phải là đội ngũ riêng, được đào tạo theo một hệ thống riêng
mang tính ổn định. Đội ngũ đó phải có những tiêu chuẩn sau:
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong bộ máy
nhà nước, bao gồm cả những người chỉ huy, điều hành, làm công việc chuyên
môn về hành chính và những nhân viên phục vụ trong cơ quan hành chính nhà
nước.
Những người được xếp vào ngạch bậc nhất định, phù hợp với khả năng
trình độ của từng người. Hệ thống ngạch bậc được phân ra theo các chức danh
công chức do nhà nước quy định. Các công chức hành chính phải là những
người được ghi trong danh sách biên chế của cơ quan hành chính nhất định và
được quản lí theo pháp luật của nhà nước.
20
Những người được trả lương, phụ cấp bảo đảm về quyền lợi vật chất,
tinh thần làm tròn bổn phận phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. Nguồn kinh
phí trả lương cho cán bộ, công chức hành chính phải từ ngân sách nhà nước.
Quá trình thuyên chuyển, chuyển ngạch, đề bạt, nghỉ việc, thôi việc, hưu trí
đối với cán bộ, công chức đều do nhà nước quy định.
Cán bộ, công chức là những người làm công việc có tính chất nghề
nghiệp, vì thế cán bộ, công chức hành chính phải được bồi dưỡng, đào tạo về
chuyên môn và theo trình độ về chuyên môn đó mà sắp xếp, thi tuyển vào các
ngạch bậc tương ứng.
Trong pháp lệnh cán bộ, công chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
ban hành vào năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003 chưa đưa
ra được định nghĩa riêng cho từng khái niệm "cán bộ", “công chức”, và “viên
chức” và cả những người làm việc trong bộ máy chính quyền cấp xã.
Từ sự bất cập đó “Luật cán bộ, công chức” được Quốc hội Nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 13/11/2008 có hiệu lực thi
hành ngày 1/10/2010 các khái niệm trên được xác định rõ hơn tại điều 4. Theo

điều 4 cán bộ, công chức bao gồm:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kì trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước tổ chức chính trị, xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là hạ sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, trong cơ quan đơn vị thuộc công an
21
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức Chính trị xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu
tổ chức, chính trị xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương ngân sách nhà nước.
Như vậy, luật cán bộ, công chức ở Việt Nam phản ánh đặc thù của thế
chế nhất nguyên chính trị ở nước ta hiện nay. Phạm trù công chức hành chính
ở Việt Nam không giới hạn trong phạm vi nền hành chính nhà nước mà bao
hàm cả hệ thống chính trị.

1.2.2 Phân loại cán bộ công chức
Công chức có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc
vào mục đích phân loại. Ở Việt Nam có một số cách phân loại cơ bản sau:
*Phân loại theo ngạch công chức
Ngạch công chức là khái niệm chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên
môn và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một cấp độ về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và có tiêu chuẩn riêng. Bất cứ một người công chức
nào, sau khi được chính quyền tuyển dụng, đều được xếp vào một ngạch nhất
định công chức theo các ngạch hoặc nâng lên ngạch cao hơn thì phải được
đánh giá về chuyên môn theo tiêu chuẩn của ngạch đó và phải trải qua kĩ năng
nâng ngạch.
22
Căn cứ để xếp ngạch công chức chủ yếu dựa vào năng lực chuyên môn,
được thể hiện qua các văn bằng phản ảnh qua trình độ đào tạo. Ví dụ những
người không được đào tạo chính quy, được tuyển vào để làm các công việc
giản đơn thì xếp nhân viên hành chính; Những người được đào tạo ở bậc
trung học thì xếp vào ngạch cán sự; Ngạch chuyên môn đòi hỏi công chức
phải qua đào tạo ở trình độ đào tạo…
Mỗi ngạch được chia làm nhiều cấp bậc. Bậc là các thứ hạng trong
ngạch chỉ thang giá trị trong mỗi ngạch công chức, ứng với mỗi bậc có một hệ
số lương. Nếu việc chuyển ngạch đòi hỏi phải được đào tạo bồi dưỡng và phải
qua thi nâng ngạch, thì việc nâng bậc trong phạm vi ngạch chỉ phụ thuộc vào
thâm niên công tác, chất lượng công tác và kỉ luật công chức.
Nếu công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không vi phạm quy
chế công chức thì cứ đến thời gian ấn định họ sẽ được nâng lên bậc kế tiếp.
Tuy nhiên, nếu có cống hiến xuất sắc thì cũng có thể được xét nâng bậc trước
thời hạn hoặc vượt bậc. Công chức có thể không được chuyển ngạch, nhưng
theo thâm niên họ được nâng bậc theo quy định. Bởi vậy, số bậc của một
ngạch phải tính đến yếu tố đảm bảo cho một ngạch công chức đến khi về hưu.
Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành loại A,

loại B, loại C và loại D, cụ thể như sau:
+ Loại A gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao
cấp hoặc tương đương;
+ Loại B gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
chính hoặc tương đương;
+ Loại C gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
hoặc tương đương;
+Loại D gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc
tương đương và ngạch nhân viên.
23
* Công chức phân loại theo vị trí công tác, tính chất lao động và thẩm
quyền được giao
+ Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
Là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong điều hành công việc.
Tuỳ theo tính chất công việc theo vị trí khác nhau mà phân ra công chức lãnh
đạo ở các cấp độ cao, thấp khác nhau.
Công chức lãnh đạo được giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất
định gần với chức vụ: được quyền ra các quyết định quản lý; tổ chức và điều
hành những người dưới quyền thực hiện công việc.
+ Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý được phân thành 3
loại cơ bản: Công chức chuyên gia; Công chức thi hành công vụ; Công nhân
viên hành chính.
Công chức chuyên gia là những người có trình độ chuyên môn kĩ thuật
cao có khả năng nghiên cứu đề xuất những phương hướng, quan điểm và thực
thi công việc chuyên môn phức tạp. Họ là những người tư vấn cho lãnh đạo,
đồng thời cũng là những nhà chuyên môn tác nghiệp những công việc đòi hỏi
phải có trình độ chuyên môn nhất định.
Công chức thi hành công vụ nhân danh quyền lực nhà nước: Là những
người thừa hành công việc, thực thi công vụ chứ không có thẩm quyền ra
quyết định như các công chức lãnh đạo. Họ được trao những thẩm quyền nhất

định trong phạm vi công tác của mình khi làm phận sự: các công chức làm
nhiệm vụ hải quan, công an, thanh tra, cảnh sát thuế vụ…, khi thực hiện công
vụ họ có quyền bắt buộc người khác phải thực hiện pháp luật.
Các nhân viên hành chính là những người thừa hành nhiệm vụ do công
chức lãnh đạo giao phó. Họ là những người làm công tác phục vụ trong bộ
máy nhà nước. Bản thân họ có những trình độ chuyên môn kĩ thuật ở mức
thấp nên phải tuân thủ sự hướng dẫn của cấp trên.
24
*Phân loại theo ngành chuyên môn, lĩnh vực
Ngành hành chính; Ngành lưu trữ; ngành thanh tra; Ngành kế toán;
ngành kiểm toán; Ngành thuế; ngành tư pháp; Ngành ngân hàng; Ngành hải
quan; Ngành nông nghiệp; Ngành kiểm lâm; ngành thuỷ lợi; Ngành xây dựng;
ngành khoa học kỹ thuật; Ngành khí tượng thuỷ văn; Ngành môi trường;
ngành giáo dục đào tạo; Ngành y tế; ngành văn hoá; Ngành thông tin; Ngành
du lịch; Ngành thể dục thể thao; Ngành dự trữ quốc gia; Ngành quản lý thị
trường.
*Cán bộ, công chức phân loại theo trình độ đào tạo (sau đại học, đại học,
trung học, ) hoặc theo hệ thống cơ cấu tổ chức
+ Theo trình độ đào tạo
Việc phân loại công chức theo trình độ đào tạo phụ thuộc vào trình độ
phát triển khoa học – kĩ thuật và trình độ dân trí nói chung. Chẳng hạn, vài ba
thập kỉ trước đây, người có văn bằng tốt nghiệp đại học được xếp vào công
chức hạng cao. Nhưng ngày nay, nền giáo dục chung đã phát triển cao hơn,
thêm vào đó những thành tựu khoa học, kĩ thuật đã vượt xa trước đây, thì đòi
hỏi người công chức hạng cao lại là những người có văn bằng trên đại học,
đồng thời đòi hỏi có kinh nghiệm trong hoạt động quản lý nhà nước.
Theo điều 4 của nghị định số 177/2003/NĐ – CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ, công chức loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu
cầu trình độ chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học; công chức loại B là
những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn

giáo dục nghề nghiệp; công chức loại C là những người được bổ nhiệm vào
ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Việc phân hạng công chức không chỉ căn cứ vào bằng cấp, mà phải
xem xét khả năng thực tế, vị trí công tác hiện tại của công chức để sắp xếp
quy hoạch đội ngũ.
- Công chức trình độ trung cấp
25

×