Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.39 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN LỆ THU





BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN LỆ THU




BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY




Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐỖ THỊ THẠCH






HÀ NỘI - 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS, TS Đỗ Thị Thạch. Các
trích dẫn tham khảo được chú thích đầy đủ, chi tiết. Luận văn
có tham khảo các công trình khoa học khác với tinh thần cầu
thị, học hỏi. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa có
ở các công trình khoa học khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN




Nguyễn Lệ Thu

1

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

4

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH
12
1.1. Quan niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình 12
1.1.1. Quan niệm về giới 12
1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới 15
1.1.3. Bình đẳng giới trong gia đình 20
1.1.4. Tầm quan trọng của bình đẳng giới trong gia đình đối với
sự phát triển kinh tế xã hội 25
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của
Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới 30
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới 30
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới 34
1.2.3. Chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới 39
1.3. Một số yếu tố tác động đến quan hệ giới trong gia đình dân tộc
thiểu số ở vùng Đông Bắc 42
1.3.1. Điều kiện tự nhiên 42
1.3.2. Tình hình kinh tế 45
1.3.3. Điều kiện văn hóa xã hội 47
Kết luận chương 1 52
Chương 2:
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VÙNG ĐÔNG BẮC NƯỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
54
2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình
đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước
ta hiện nay 54

2.1.1. Một vài nét về gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc 54

2

2.1.2. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân
tộc thiểu số vùng Đông Bắc 58
2.1.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới
trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta
hiện nay 80
2.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia
đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc 89
2.2.1. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở vùng dân
tộc thiểu số tạo tiền đề thực hiện tốt bình đẳng giới trong
gia đình 89
2.2.2. Nâng cao nhận thức về mục tiêu bình đẳng giới cho các
thành viên trong gia đình, cộng đồng 92
2.2.3. Tiếp tục nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc nhất là cho phụ nữ 94
2.2.4. Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở bình đẳng giới 96
2.2.5. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị 97
2.2.6. Hoàn thiện cơ chế chính sách về bình đẳng giới đối với
phụ nữ dân tộc thiểu số 99
Kết luận chương 2 101
KẾT LUẬN
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
PHỤ LỤC
110


3

DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang

Bảng 2.1: Người làm chính trong công việc nông nghiệp 60
Bảng 2.2: Tình hình lao động của phụ nữ dân tộc Mông và Tày
với những hoạt động kinh tế hộ gia đình 61
Bảng 2.3: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong công việc nội trợ
gia đình 64
Bảng 2.4: Người quyết định chính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh 72
Bảng 2.5: Ai là người quyết định sử dụng vốn (theo nghề nghiệp) 74
Bảng 2.6: Người quyết định các khoản chi lớn của gia đình 75
Bảng 2.7: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 77



4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các cuộc
đấu tranh nhằm xóa bỏ những sự bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất bình đẳng
giới. Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại đã
theo đuổi hàng nhiều thế kỷ.
Ngày nay khi nói đến phát triển, người ta không chỉ đề cập đến chỉ số phát
triển con người HDI mà còn xem xét đến chỉ số phát triển liên quan đến giới
GDI (Gender Devevelopment Index). Những nghiên cứu thực tế cho thấy đầu tư

cho phụ nữ mang lại hiệu quả, lợi ích cao hơn bất kỳ sự đầu tư nào ở các nước
đang phát triển. Hay nâng cao khả năng và tạo cơ hội lựa chọn cho phụ nữ không
chỉ đem lại lợi ích cho họ mà còn là cách chắc chắn nhất để đóng góp cho tăng
trưởng kinh tế và phát triển chung [68]. Những minh chứng đó chứng tỏ bình
đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề của phát triển mang tính toàn cầu.
Theo báo cáo của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đến
cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về
phát triển con người, nhưng vẫn còn có sự khác biệt trong các chỉ số phát
triển giữa nam và nữ. Trong đó, người ta nhận thấy rằng sự phát triển năng
lực của phụ nữ ở tất cả các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt tại các
quốc gia chậm phát triển.
Quan sát thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội
ở các quốc gia, UNDP cũng thấy rằng bất bình đẳng giới thực sự vừa là một
trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối
với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất
cả các thành viên trong xã hội.
Trước thực tế đó, bình đẳng giới đã trở thành một trong tám mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ (MDG), được Đại hội đồng Liên hợp quốc đề ra vào đầu thiên
niên kỷ mới.

5

Ở nước ta, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng
định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho
đến nay, Đảng và Nhà nước luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển. Việc chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố
quyết định thành công của công cuộc đổi mới, trong đó các tiêu chí phát triển
được hướng vào cả nam và nữ.
Vùng Đông Bắc nước ta bao gồm 11 tỉnh, là địa bàn tụ cư của nhiều

dân tộc thiểu số. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với hội nhập kinh
tế thế giới đã tạo cho vùng Đông Bắc có bước khởi sắc mới, đời sống của
người dân từng bước được cải thiện, nhưng đây vẫn là một trong những vùng
kinh tế - xã hội phát triển chậm so với các vùng khác trong cả nước. Hạn chế
này có nhiều nguyên nhân trong đó định kiến giới nặng nề là nguyên nhân khá
nổi bật. Do vậy chưa khai thác, phát huy được tiềm năng của lực lượng lao
động nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số. Đại bộ phận các gia đình dân tộc
thiểu số đang sống ở mức nghèo đói, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, miền núi.
Trong bộ phận dân cư ấy, phụ nữ lại là nhóm xã hội cực khổ nhất. Họ là một lực
lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của khu vực
dân tộc và miền núi. Họ vừa phải tham gia lao động sản xuất ngoài xã hội, cộng
đồng; vừa trực tiếp chăm lo công việc gia đình nên cường độ lao động và thời
gian lao động đối với họ là quá tải trong khi mức thu nhập lại thấp, thậm chí họ
lao động vất vả nhưng ít được cộng đồng, xã hội đánh giá khách quan đầy đủ.
Xuất phát từ lý do trên, hơn nữa được sinh ra và trưởng thành ở vùng đất
này, tác giả chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng
Đông Bắc nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Triết học chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, mong muốn góp một phần nhỏ vào sự nghiệp
giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới khu vực Đông Bắc hiện nay.

6

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới bao gồm các hoạt động nghiên cứu
khoa học và thực tiễn mang tính toàn cầu. Tuy vậy, nghiên cứu khoa học về giới
và bình đẳng giới được “phổ biến ” vào Việt Nam và chính thức trở thành một
chuyên ngành khoa học độc lập chỉ trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây (nhiều
nhà khoa học coi sự kiện thành lập trung tâm nghiên cứu phụ nữ, nay là viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới, thuộc viện Khoa học xã hội Việt Nam vào năm

1987 như là cột mốc của sự ra đời và phát triển của khoa học này).
Các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc tổ chức đã góp phần luận giải
nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong gia
đình và xã hội, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
- Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng (1996), “Phụ nữ - giới và phát
triển”, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Tác giả cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên
cứu dựa trên mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển. Phân tích vị trí,
vai trò của phụ nữ trong đổi mới kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm,
thu nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn; phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội;
phụ nữ và gia đình; chính sách xã hội đối với phụ nữ và ảnh hưởng của
chính sách xã hội đối với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.
- Lê Thi (1998), “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Công trình khoa học này chính là kết quả bước đầu của
sự vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm tiếp cận
giới vào việc xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết hợp với
các hình thức thu thập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ nữ công
nhân, nông dân, trí thức trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã nêu lên
những vấn đề đáng quan tâm và đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội
cần thiết, nhằm xây dựng sự bình đẳng giới trong tình hình mới.
- Chu Thị Thoa - Luận án tiến sĩ Triết học (2002), “Bình đẳng giới
trong gia đình ở nông dân đồng bằng sông Hồng hiện nay”. Tác giả đã phân

7

tích thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở vùng đồng bằng sông Hồng
trong công cuộc đổi mới và đề xuất những giải pháp nhằm từng bước xóa bỏ
bất bình đẳng giới trong gia đình nông dân đồng bằng sông Hồng.
- Nguyễn Linh Khiếu (2003), “Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình”,
Nxb KHXH, Hà Nội. Tác giả đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ
cũng như quan hệ giới trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực như

kinh tế, tiếp cận nguồn lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả
nhấn mạnh hơn đối với phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia
đình cũng như những rào cản văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của
họ. Những kết luận mà tác giả khái quát cũng chính là những vấn đề đặt ra
cho những nhà khoa học cũng như những nhà hoạch định chính sách đối với
vấn đề phụ nữ - giới và gia đình.
- Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2007), “Những
vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại”. Đây là công trình của tập thể các nhà
khoa học của Viện CNXHKH - Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Các tác giả
của công trình đã nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các tác
phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn
đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam; vấn đề giới trong một số phương tiện thông tin đại chúng và trong
sách giáo khoa. Có thể nói, đây là một công trình đã đề cập đến tương đối
đầy đủ những vấn đề về giới. Đó cũng chính là căn cứ lý luận và thực tiễn về
thực trạng quan hệ giới ở nước ta hiện nay.
- Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), (2008),“Bình
đẳng giới ở Việt Nam”, (Phân tích số liệu điều tra). Nxb KHXH, Hà Nội.
Với mục tiêu chính là điều tra cơ bản về bình đẳng giới, xác định thực trạng
bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ và nam giới
và tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục - đào
tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

8

- Trịnh Quốc Tuấn - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), “Khoa học
giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Các tác giả của công trình này đã
cung cấp một bức tranh về lịch sử phát triển của khoa học giới; đồng thời
nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia
đình và xã hội: Vấn đề giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động; giới trong

chiến lược giảm nghèo; giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; giới trong
hoạch định và thực thi chính sách; giới trong lĩnh vực văn hóa; giới trong
lĩnh vực giáo dục- đào tạo; giới trong gia đình và chiến lược dân số; lồng
ghép giới trong các chương trình phát triển.
- Đỗ Thị Thạch (2010): “Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” (đề tài khoa học cấp cơ sở của viện Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh). Trên cơ sở phân tích làm rõ sự tác động của toàn cầu hóa đến việc
thực hiện bình đẳng giới trong các mặt đời sống xã hội và gia đình, đề tài đề
xuất một số giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu
cực của toàn cầu hóa tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Đối với gia đình dân tộc thiểu số và vai trò của người phụ nữ dân tộc
thiểu số trong gia đình và xã hội, chúng ta có thể kể đến một số công trình sau:
- Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông
thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã miền núi phía Bắc), Khoa
học về phụ nữ, số 3, tr 20-33. Từ phân tích vai trò giới trong gia đình dân tộc
Thái, Mông, Dao, tác giả đã chỉ ra sự biến đổi vai trò giới trong gia đình ở
đây theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực.
- Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia
đình và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai
Châu, Hòa Bình), Khoa học về phụ nữ, số 1, tr 33-36. Tác giả phân tích vai
trò, vị thế của phụ nữ H’mông trong gia đình trước đây cũng như hiện nay
và kết luận: Người phụ nữ H’mông là người phụ thuộc trong gia đình lại

9

càng trở nên bị cách biệt trong xã hội khi họ không có trình độ học vấn,
ngôn ngữ phổ thông, không thể hòa nhập vào cộng đồng và càng không thể
chủ động tham gia công tác xã hội. Những ràng buộc về phong tục tập quán,
thói quen trong suy nghĩ, cách làm của họ bị khép kín trong cộng đồng và

chưa thể hòa nhập với nhịp độ phát triển của xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình
nông thôn miền núi” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên
Bái), Khoa học về phụ nữ, số 1, trang 25- 29. Trong khuôn khổ một cuộc
khảo sát tiền dự án tại một xã nghèo miền núi phía Bắc, tác giả đã chỉ ra
những thành tựu đã đạt được, những hạn chế cần phải khắc phục, cũng như
những xu hướng vận động và phát triển trong tương lai của nông thôn miền
núi phía Bắc Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
- Đặng Thị Ánh Tuyết (2005) “Thực hiện bình đẳng giới các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Xã hội học. Trên cơ sở
phân tích thực trạng thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội và gia đình (Qua khảo sát ở Yên Bái và Hà Giang), tác giả đã đề xuất
phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện bình đẳng giới ở
một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Những công trình trên bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ
nữ - gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên cứu mới
nhưng rất hiệu quả, đã phác họa bức tranh đa dạng, nhiều vẻ về địa vị người phụ
nữ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Qua đó tác động đến suy nghĩ,
quan niệm, thái độ và hành vi của mọi người đối với gia đình và bình đẳng giới ở
Việt Nam thời gian qua, do vậy đây là những tư liệu hết sức quý cho việc triển
khai đi sâu nghiên cứu của tác giả.
Tuy nhiên hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về thực trạng
thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta.

10
Đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc
nước ta hiện nay” trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu
trước đây về gia đình, vai trò phụ nữ nói chung, góp phần đưa ra cái nhìn đầy đủ
hơn về thực trạng bình đẳng giới trong môi trường sinh hoạt gia đình dân tộc

thiểu số vùng Đông Bắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình
đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta, luận văn đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao
vị thế người phụ nữ trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát
triển kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ
+ Khái quát làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới và bình đẳng
giới trong gia đình
+ Làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với bình đẳng giới
trong gia đình dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay, và đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu bình đẳng giới (mối quan hệ
giới) trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc nước ta hiện nay.
Phạm vi: Dưới góc độ lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, luận văn tập
trung nghiên cứu làm rõ thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình
dân tộc thiểu số chủ yếu ở một số tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng với các dân tộc
thiểu số là Mông, Tày trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về bình
đẳng giới, gia đình và vị thế, vai trò của phụ nữ.

11
- Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu là: phân

tích, tổng hợp, khái quát, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, đối chiếu….
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng bình đẳng giới trong gia đình dân
tộc thiểu số ở Đông Bắc, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
- Bước đầu luận văn nêu lên một số giải pháp nhằm hạn chế bất bình đẳng
giới trong gia đình dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, góp phần thực hiện công
cuộc giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình văn hóa ở miền núi.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Bằng những đóng góp mới về mặt khoa học nêu trên, luận văn góp phần
làm cơ sở lý luận cho hoạch định các chủ trương, chính sách của địa phương
nhằm tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ phát triển, xây dựng gia đình văn hóa.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ Hội Phụ
nữ nói chung và Hội Phụ nữ Hà Giang, Cao Bằng nói riêng, làm tài liệu giảng
dạy chủ nghĩa xã hội khoa học, các chuyên đề về gia đình và giới.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.










12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

TRONG GIA ĐÌNH

1.1. Quan niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình
1.1.1. Quan niệm về giới
Giới là khái niệm mới xuất hiện trong khoa học về giới ở các nước nói
tiếng Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỉ
XX. Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giới.
Tác giả Trần Thị Quế trong công trình “Những khái niệm cơ bản về
giới và vấn đề giới ở Việt Nam” đã đưa ra định nghĩa “ Giới là các quan niệm,
hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam
giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đến giới là nói đến
sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ xã hội”[54].
Trong tác phẩm “Tóm tắt tình hình giới” của Liên hiệp quốc ở Việt
Nam cũng đã đưa ra một định nghĩa về giới: Giới là sự tập hợp các hành vi
học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được cân
nhắc nhằm xác định thế nào là một nam giới hay một phụ nữ (hoặc một cô bé
hay một cậu bé) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định. Giới cũng
phản ánh các mối quan hệ giữa nam và nữ, ai cần làm gì và ai là người kiểm
soát việc ra quyết định, tiếp cận các nguồn lực và hưởng lợi [67].
Theo Luật Bình đẳng giới Việt Nam năm 2006, giới là khái niệm chỉ đặc
điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội [57].
Tóm lại, khi nói về giới có thể hiểu là nói về vai trò, trách nhiệm và
quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia
các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam
và nữ trong xã hội. Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là
một người phụ nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà còn

13
phải đối diện với những mong đợi khác nhau của xã hội về mặt ngoại hình,

cách cư xử, tính cách và những công việc được cho là thích hợp đối với giới
tính của người đó. Ví dụ theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở
nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ phải làm hầu hết các công việc trong
nhà như nấu ăn, chăm sóc con, phục vụ chồng… Còn nam giới thì có trách
nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội.
Khi bàn về khái niệm giới, các nhà khoa học còn dựa vào các đặc trưng
sau đây:
Thứ nhất: Do học mà có, khác với giới tính, những đặc trưng về giới là
do dạy và học mà có. Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân
biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nền nếp của gia đình, quy
ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hóa. Đứa trẻ phải học để làm con
trai hoặc con gái. Bắt đầu từ khi sinh ra nó đã được đối xử và dạy dỗ tùy theo
việc nó là trẻ trai hay gái. Đó là sự khác biệt về quần áo, đồ chơi, cách nói
năng, thái độ và có thể cả thức ăn và tình cảm của cha mẹ, anh chị.
Đứa trẻ cũng được dạy dỗ để trở thành phụ nữ hay nam giới theo quan
niệm, khuôn mẫu của xã hội. Ví dụ con trai không được khóc, phải tỏ ra mạnh
mẽ, dũng cảm, không được chơi búp bê, còn con gái không được cáu kỉnh,
không được nói to, phải dịu dàng, giúp mẹ cơm nước, nội trợ.
Các quan niệm vốn có này và các dự định, mong đợi của cha mẹ, anh
em, họ hàng, bạn bè và xã hội đối với trẻ trai và gái trở thành khuôn mẫu đối
với trẻ trai và gái, trở thành khuôn mẫu cụ thể đối với mỗi giới, khiến nó luôn
phải điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp. Bởi vậy sở dĩ phụ nữ hay làm việc
nội trợ hay đi cấy thì không phải vì họ là phụ nữ mà vì họ đã được dạy để làm
những việc đó từ khi còn là đứa trẻ.
Tiếp đó nhà trường và quan niệm về tập quán xã hội tiếp tục củng cố
các khuôn mẫu cụ thể về từng giới. Ví dụ nam sinh học thêm môn kỹ thuật,
xây dựng; nữ sinh học môn nữ công. Các thể chế như chính sách, luật pháp…

14
cũng có ý nghĩa làm tăng hoặc giảm sự khác biệt giữa hai giới. Chẳng hạn: ưu

tiên nhận phụ nữ vào các nghề thư ký, đánh máy, lễ tân…
Thứ hai: Đa dạng, giới thể hiện các đặc trưng của những quan hệ xã hội
giữa phụ nữ và nam giới cho nên rất đa dạng. Địa vị của người phụ nữ xã hội
Việt Nam khác xa so với địa vị của phụ nữ ở các nước Hồi giáo. Ngay ở Việt
Nam, địa vị xã hội của phụ nữ nông thôn cũng không hoàn toàn giống phụ nữ
thành thị.
Thứ ba: Luôn biến động, quan hệ giới luôn luôn biến đổi cùng với xã
hội và các yếu tố xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, các phong tục tập
quán… Chẳng hạn quan niệm của đạo Khổng về việc con gái không cần cho
đi học đã thay đổi căn bản dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; gia đình truyền
thống thường thích con trai hơn con gái nhưng điều đó đang có những thay
đổi ở những gia đình trẻ.
Thứ tư: Có thể thay đổi, các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội là
hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm các công việc “bếp núc” là “thiên
chức” của người phụ nữ đang được xem xét lại khi có rất nhiều đầu bếp giỏi
là nam giới. Trong nhiều gia đình hạt nhân, khi cả vợ và chồng cùng phải
tham gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất nhằm tăng thu nhập thì nam
giới đang tham gia một cách tích cực vào các công việc nội trợ như nấu ăn,
chăm sóc con cái… Thậm chí trong một số gia đình, khi người vợ tham gia
vào các công việc quản lý, điều hành xã hội, tham gia công việc sản xuất
nhiều hơn chồng, người chồng đã thay vai trò của người vợ đảm đương các
công việc gia đình, người vợ có điều kiện tham gia những công việc sản xuất
hay làm các công tác lãnh đạo, các công việc quản lý xã hội nhiều hơn.
Có thể thấy rằng, sự khác biệt xã hội giữa nam và nữ do xã hội tạo ra,
sự khác biệt đó đã đưa tới sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Bất bình đẳng
giới thực chất là sự bất bình đẳng xã hội, là sự bất công phổ biến, lâu dài và
nặng nề về mặt xã hội. Xóa bỏ sự bất bình đẳng giới vì thế rất cần thiết nhằm
thay đổi tương quan địa vị xã hội giữa nam và nữ.

15

1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới
Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn. Sự
ra đời của khái niệm bình đẳng giới là kết quả của phong trào phụ nữ và
chủ nghĩa nữ quyền. Lịch sử nhân loại ở các nền văn hóa khác nhau, trải
qua nhiều hình thái kinh tế xã hội và nhiều thời đại, đã cung cấp nhiều
bằng chứng về sự bất bình đẳng đối với phụ nữ, về thân phận khốn cùng
của người phụ nữ. Do đó, ngay từ khi ra đời, phong trào phụ nữ đã là
phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào nam
giới và cho ra đời phong trào nữ quyền và chủ nghĩa nữ quyền (feminism).
Bình đẳng giới là nguyên tắc chỉ đạo của phong trào nữ quyền trong suốt
mấy chục năm qua. Mặc dù vậy, không phải lúc nào, ở đâu cũng có cách
hiểu thống nhất về vấn đề này. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về bình
đẳng giới:
Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới cùng có những điều kiện như
nhau để phát huy hết năng lực tiềm tàng của mình, cùng có cơ hội để tham
gia, đóng góp và hưởng thụ bình đẳng các kết quả phát triển của quốc gia trên
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Điều quan trọng nhất là bình
đẳng giới đem lại kết quả ngang nhau cho cả phụ nữ và nam giới [67].
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ cũng có vị
thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Phụ nữ và nam giới cùng: có điều
kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện mong muốn của mình,
có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của
xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình
đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong tiếng nói [76].
Bình đẳng giới là sự bình đẳng về luật pháp, về cơ hội, bao gồm sự
bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất
khác, bình đẳng trong thù lao cho công việc và bình đẳng trong tiếng nói [2].


16
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của
gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [57].
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới, là tình hình lý tưởng trong đó
phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, có các cơ hội bình đẳng để
phát hiện đầy đủ tiềm năng của mình nhằm cống hiến cho sự phát triển chung
và hưởng lợi bình đẳng từ các kết quả đó [28, tr 37].
Như vậy, bình đẳng giới trước hết được hiểu là sự đối xử như nhau giữa
nam giới và phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội.
Nguyên tắc đối xử như nhau là điều hết sức cần thiết, song có lẽ nó chưa đủ
để phụ nữ được bình đẳng thực sự. Vì việc đối xử như nhau, cơ hội như nhau
không đem lại kết quả như nhau đối với giới nữ và giới nam, vì cũng là con
người như nam giới nhưng phụ nữ lại có những đặc tính hết sức riêng biệt (do
đặc trưng sinh học và đặc trưng xã hội quy định hay chi phối), cho nên, nếu
chỉ thực hiện sự đối xử như nhau căn cứ vào cái chung và không chú ý đến cái
riêng để có các đối xử đặc thù thì sẽ không có bình đẳng thực sự. Những đối
xử đặc thù tác động đến sự khác biệt tự nhiên giữa nam và nữ, hạn chế những
thiệt thòi của phụ nữ, tác động làm thay đổi vị thế của phụ nữ do lịch sử để lại
được duy trì chừng nào đạt được sự bình đẳng hoàn toàn. Đối xử đặc thù
không chỉ căn cứ vào sự khác biệt giữa nam và nữ, quá trình bình đẳng giới
còn phải chú ý sự khác biệt ngay trong giới nữ, thể hiện qua các nhóm phụ nữ
khác nhau: giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân và nông dân, trí thức,
giữa phụ nữ giàu và phụ nữ nghèo… Như vậy, đối xử như nhau giữa các bộ
phận xã hội không giống nhau sẽ không thể đạt tới bình đẳng, điều kiện để đạt
tới bình đẳng chính là sự đối xử đặc thù dành cho các nhóm xã hội yếu thế.
Đối xử đặc thù sẽ chấm dứt ngay sau khi bình đẳng giới được thực hiện, vì
kéo dài quá mức các biện pháp đặc biệt khó tránh khỏi hậu quả làm tái hiện


17
tình trạng bất bình đẳng. Luật Bình đẳng giới (2007) của Việt Nam gọi đó là
biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó chỉ rõ: đây là biện pháp nhằm
đảm bảo bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò,
điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển
mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không giảm được sự
chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một
thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
Ngoài ra khi đề cập tới bình đẳng giới, không nên hiểu bình đẳng giới
theo cách đơn giản là nam giới và nữ giới tham gia như nhau trong tất cả các
hoạt động, cũng không phải là phương châm phụ nữ “vùng lên” đòi hỏi quyền
lợi ngang bằng với nam giới, bất chấp sự khác biệt về đặc tính sinh học giữa
nam và nữ. Việc không phân định rõ ràng sự khác biệt mang tính chất giới và
giới tính lại chỉ thấy có một phía là không bình đẳng nghiêng về phía nữ, chắc
chắn sẽ dẫn đến hệ quả ngược lại với mong muốn ban đầu mang tính nhân
văn sâu sắc của nhận thức giới và cách giải quyết sẽ chỉ là: hoặc hoán vị vai
trò giới một cách máy móc những gì phụ nữ có và phải làm thì đem chuyển
cho nam giới và ngược lại, hoặc đi đến chủ nghĩa bình quân giữa nam và nữ
để chi chia nhau cơ hội, lợi ích, trách nhiệm…
Qua sự phân tích trên có thể hiểu bình đẳng giới là sự đối xử ngang
quyền giữa hai giới nam và nữ có xét đến những đặc điểm giống nhau và khác
nhau của mỗi giới, thậm chí sự cả sự khác biệt trong giới nữ, và được điều
chỉnh bởi các chính sách đối với từng giới một cách hợp lí. Những chính sách
về bình đẳng giới phải thể hiện những đặc điểm sau: tính ngang bằng của nữ
giới với nam giới trong mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế - xã hội và gia
đình; tính ưu đãi: Do đặc điểm sinh học và quan hệ xã hội mang tính truyền
thống của phụ nữ là thiệt thòi hơn so với nam giới nên để đạt được sự bình
đẳng giới cần có sự đối xử ưu đãi, khuyến khích đặc biệt và hợp lý đối với


18
phụ nữ; tính linh hoạt: Sự đối xử ưu đãi với phụ nữ cần mềm dẻo, được điều
chỉnh linh hoạt trong từng hoàn cảnh cụ thể, không mang tính bất biến.
Bình đẳng giới theo yêu cầu của xã hội hiện nay cần phải gắn với quan
điểm phát triển, sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nó đòi hỏi một
sự chuyển biến đồng bộ của tất cả mọi thành phần, mọi lứa tuổi, nhưng trước
hết đối với nam giới trong hàng loạt vấn đề: từ nhận thức đến thái độ ứng xử
xã hội và hành vi cụ thể trong mối quan hệ với phái nữ. Vậy thực chất nội
dung của bình đẳng giới là gì, đó là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, phải đề
cập tới.
Nội dung của bình đẳng giới
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy rằng tiến bộ xã hội sẽ chậm lại
nếu trong xã hội có một bộ phận đông đảo người bị hạn chế hoặc loại trừ. Tác
động tiêu cực đối với bộ phận bị hạn chế hoặc loại trừ sẽ ảnh hưởng dây
chuyền đến toàn xã hội. Tác động tiêu cực của sự đối xử không bình đẳng đối
với phụ nữ không chỉ làm giảm thiểu sự đóng góp của phụ nữ - chiếm phần
nửa dân số thế giới và của các quốc gia - cho nền sản xuất của xã hội, mà còn
ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống gia đình và việc chăm sóc, nuôi dưỡng thế
hệ mai sau.
Chính vì nhận thức được điều này mà ngày nay vấn đề bình đẳng
giới đang là vấn đề có tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại. Sự
nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm hướng tới bình đẳng nam - nữ thể hiện
rõ nhất tại Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (viết tắt theo tiếng anh là CEDAW). Công ước này được Đại hội
đồng Liên Hợp quốc phê chuẩn ngày 18-2-1979 và sau khi nước thứ 20
thông qua ngày 3/9/1981, Công ước này bắt đầu có hiệu lực như một Hiệp
ước quốc tế. Đến nay đã có trên 185 quốc gia cam kết thực hiện các điều
khoản của Công ước này và là Văn kiện quốc tế có số thành viên tham gia
đông thứ hai trên thế giới sau Công ước về quyền trẻ em. Lần đầu tiên các


19
quyền con người của phụ nữ được đề cập một cách toàn diện nhất trong
công pháp quốc tế.
Theo tinh thần của công ước CEDAW, nội dung bình đẳng giới bao
gồm các lĩnh vực:
+ Bình đẳng về chính trị
+ Bình đẳng trong kinh tế, việc làm
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục
+ Bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe
+ Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình
Bình đẳng giới được đề cập một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tùy điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà
lĩnh vực cụ thể nào đó của bình đẳng giới có thể được nhấn mạnh hơn, nhưng
không được tách rời và xem nhẹ các lĩnh vực khác.
Việt Nam là quốc gia thứ 6 ký công ước CEDAW. Cho đến nay, Việt
Nam là một trong các quốc gia tích cực thực hiện các cam kết của mình nhằm
thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Với quan
điểm thừa nhận những sự khác biệt về giới và giới tính giữa nam và nữ, Nhà
nước Việt Nam đã thực hiện tốt công ước CEDAW. Quan điểm thực hiện đối
xử đặc biệt với phụ nữ trên mọi lĩnh vực đã được cụ thể hóa trong các chính
sách, các chương trình, dự án phát triển ở Việt Nam, trong Kế hoạch Hành
động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, đặc biệt đã ban hành Luật
Bình đẳng giới (2007) thể hiện rõ sự quyết tâm của Việt Nam trong việc thực
hiện bình đẳng giới.
Theo Luật Bình đẳng giới (2007) của nước ta, nội dung của bình đẳng
giới gồm có:
+ Bình đẳng về chính trị.
+ Bình đẳng về kinh tế, việc làm
+ Bình đẳng trong lĩnh vực lao động
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo


20
+ Bình đẳng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
+ Bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
+ Bình đẳng trong lĩnh vực y tế
+ Bình đẳng trong gia đình
Như vậy, bình đẳng giới trong gia đình là một trong tám lĩnh vực thực
hiện bình đẳng giới được luật hóa ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Bình đẳng giới trong gia đình
Quan niệm về gia đình
Gia đình là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân. Từ khi lọt lòng
đến suốt cuộc đời, mỗi cá nhân tìm thấy ở gia đình sự đùm bọc về vật chất và
tinh thần, tiếp thu sự giáo dưỡng về mọi mặt, hưởng thụ những niềm vui của
cuộc sống, được động viên chia sẻ khi gặp khó khăn, bệnh tật, rủi ro. Gia đình
là nơi đảm bảo những điều kiện an toàn cho trẻ thơ phát triển, người già có nơi
nương tựa, không bị hiu quạnh cô đơn, người lao động được phục hồi sức khỏe,
lấy lại sự cân bằng tâm lý sau giờ lao động mệt mỏi.
Từ lâu chủ đề gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng và là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, những chủ đề nghiên cứu về gia đình
luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học không chỉ ở Việt Nam
mà trên cả thế giới. Thực tiễn đời sống đã chứng minh gia đình là một thiết
chế xã hội đặc biệt mà khó có thiết chế nào có thể thay thế được. Vậy gia đình
là gì? Có khá nhiều định nghĩa về gia đình, trong phạm vi luận văn, gia đình
được hiểu: “ Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ
và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định” [55].
Quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng làm cho mỗi thành viên
trong gia đình có thể sẵn sàng hi sinh, nhường nhịn các quyền lợi cho nhau
không so tính thiệt hơn, thậm chí người phụ nữ xem sự hy sinh cho chồng con
như trách nhiệm, niềm hạnh phúc của mình, đây là một giá trị cao quý riêng


21
có của gia đình. Nhưng nếu các thành viên, đặc biệt là người chủ gia đình
không chú ý giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa họ với nhau thì các yếu
tố bất công đối với người này hay người khác, đặc biệt với phụ nữ sẽ nảy sinh
và phát triển, đe dọa tới sự ổn định bền vững của gia đình.
Trong mối quan hệ với từng thành viên của mình, gia đình được xem
như “cái toàn thể”, nhưng trong mối quan hệ với xã hội nó lại là “cái bộ
phận”. Chính vì lẽ đó, sự tồn tại của gia đình luôn luôn phải giải quyết tốt các
mối liên hệ bên trong (giữa các thành viên) cũng như mối liên hệ bên ngoài
(giữa gia đình với cộng đồng, xã hội). Sự tồn tại của gia đình không chỉ đem
lại ý nghĩa lớn lao đối với mỗi cá nhân mà có ý nghĩa lớn đối với xã hội. Vì
vậy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc xã hội tạo điều kiện và cá nhân
phấn đấu cho một gia đình hạnh phúc là trách nhiệm cao cả mang ý nghĩa
nhân văn thiết thực và là một biểu hiện của tiến bộ xã hội.
Từ truyền thống đến hiện đại, hơn ai hết, phụ nữ rất coi trọng gia đình,
điều này có nguyên nhân tự nhiên và truyền thống văn hóa. Với chức năng tự
nhiên, phụ nữ mang thai, sinh con, gắn kết của phụ nữ với con cái dường như
lớn hơn nam giới, bởi đây là sự gắn kết từ trong bào thai đứa trẻ, rồi sinh ra,
nuôi nấng và dõi theo suốt cuộc đời đứa con. Theo truyền thống văn hóa, phụ
nữ là người đảm nhiệm chính công việc trong gia đình, dù ngọt bùi hay đắng
cay, nhưng bao giờ ý thức trách nhiệm với gia đình cũng thường trực trong
họ. Ngày nay, phụ nữ đang tham gia vào mọi mặt hoạt động của xã hội,
nhưng không vì thế mà tình cảm, trách nhiệm của họ đối với gia đình giảm đi.
Trong các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình thì quan hệ giữa vợ
và chồng được xem là mối quan hệ nền tảng, từ đó hình thành và chi phối các
mối quan hệ khác. Vì vậy, bình đẳng giữa vợ và chồng trong cuộc sống gia
đình có vai trò đặc biệt quan trọng, nhưng điều làm chúng ta không khỏi băn
khoăn là sự bất bình đẳng về giới vẫn đang tồn tại phổ biến trong gia đình,


22
đây thực sự là sự thiệt thòi cho xã hội, cho mỗi cá nhân và đặc biệt đối với
phụ nữ. Cần phải hiểu rõ thực chất bình đẳng giới trong gia đình bao gồm
những nội dung gì để có thể hạn chế sự bất bình đẳng giới trong gia đình.
Bình đẳng giới trong gia đình
Quan hệ giữa gia đình với xã hội là quan hệ giữa cái bộ phận với cái
toàn thể. Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới
tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Trong mối quan hệ với xã hội, gia đình là
yếu tố hạt nhân, vì vậy xã hội muốn đạt tới bình đẳng về giới phải chú ý giải
quyết tốt mối quan hệ về giới ngay từ trong gia đình. Về mặt khái niệm, các
nghiên cứu thường dừng lại ở khái niệm bình đẳng giới mà ít đề cập tới khái
niệm bình đẳng giới trong gia đình. Mặc dù chỉ là một cấp độ của bình đẳng
giới nhưng bình đẳng giới trong gia đình lại thể hiện các khía cạnh rất phong
phú thông qua quan hệ giữa nam và nữ trên một loạt vấn đề.
Điều 18, Luật Bình đẳng giới (2007) nêu rõ nội dung bình đẳng giới
trong gia đình qua các khía cạnh sau:
+ Lĩnh vực pháp luật: Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự
và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
+Lĩnh vực về quyền quyết định: Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau
trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung
của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
+ Lĩnh vực tái sinh sản: Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn
bạc quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp,
sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
+ Lĩnh vực giáo dục con cái: Con trai, con gái được gia đình chăm sóc,
giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và
phát triển.
+ Lĩnh vực sản xuất: Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách
nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

×