Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.28 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG - KHOÁ 24

CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG HIỆN NAY

NGUYỄN MINH HẰNG – THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG,

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MINH HẰNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGHỆ AN- 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
__________________________________

NGUYỄN MINH HẰNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số 8.38.01.06

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HOÀI ÂN

Nghệ An, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Hằng


LỜI CẢM ƠN
Để làm hoàn thành luận văn này, trước tiên em xin chân thành cảm ơn:
Trường Đại học Vinh, khoa Luật và Phòng Đào tạo sau Đại học Trường
Đại học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Lê
Thị Hồi Ân - người đã tận tình hướng dẫn thực hiện luận văn tốt nghiệp, đến
Thầy giáo TS. Đinh Ngọc Thắng - Trưởng khoa Luật, cùng các quý Thầy, Cô
trong khoa Luật, trường Đại học Vinh đã tận tình truyền đạt kiến thức trong thời
gian tơi học tập ở đây, đến gia đình và bạn bè - những người đã giúp đỡ hết sức
mình cho luận văn này được hồn thành.
Trong q trình nghiên cứu, mặc dù rất cố gắng nhưng luận văn cũng

không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được tự chỉ dẫn, góp ý của quý
thầy cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn!
Nghệ An, năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Hằng


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN
7
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế và pháp luật về bảo hiểm y tế Việt Nam

7

1.2. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên
200
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế
322
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC CỦA TỈNH TIỀN

GIANG
3939
2.1. Khái quát về các trường cao đẳng, đại học và tình hình sinh viên các trường cao
đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
3939
2.2. Cơ quan quản lý và thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên của tỉnh
Tiền Giang
392
2.3. Kết quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên các trường cao đẳng,
đại học của tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2015-2018
46
2.4. Nhận xét chung về tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên
các trường cao đẳng, đại học của tỉnh Tiền Giang
56
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN
66
3.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên

66

3.2. Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên

69

KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

TT

Từ viết đầy đủ

1.



Cao đẳng

2.

CCVC

Công chức viên chức

3.

BHYT

Bảo hiểm y tế

4.


BHXH

Bảo hiểm xã hội

5.

ĐH

Đại học

6.

HĐND

Hội đồng nhân dân

7.

SV

Sinh viên

8.

KCB

Khám chữa bệnh


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách an sinh xã hội quan trọng mà
mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Đây là hình thức bảo hiểm được áp
dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận, do nhà
nước tổ chức thực hiện, các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định
của pháp luật.
Ở Việt Nam, chính sách BHYT được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú
trọng. Chính sách BHYT bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 1992 theo Nghị
định 299/NĐ/CP của Chính phủ. Từ khi Điều lệ BHYT đầu tiên ra đời đến
nay Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật về BHYT, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện ngày càng
hồn thiện hơn chính sách BHYT, góp phần tích cực tạo nguồn tài chính cho
việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, trong đó có sinh viên.
Tại kỳ họp thứ 4, ngày 14/11/2008, Quốc hội khố XII đã thơng qua Luật
BHYT đầu tiên, từ đây pháp luật về BHYT đã chính thức được nâng lên thành
Luật - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật.
Luật BHYT ra đời đã khắc phục được cơ bản những vấn đề vướng mắc,
tồn tại trong việc thực hiện chính sách tài chính y tế để từng bước tiến tới mục
tiêu xây dựng nền y tế Việt Nam theo hướng công bằng, hiệu quả và phát
triển. Để đạt được mục tiêu quan trọng đó, việc thực hiện pháp luật BHYT là
vấn đề rất quan trọng đối với các ngành, các cơ quan, đơn vị, địa phương và
đối với từng đối tượng cụ thể theo luật BHYT.
Sau 26 năm thực hiện chính sách BHYT, đến nay nước ta đã đạt những
thành quả đáng kể trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho người dân. Hiện tại,


2


độ bao phủ của bảo hiểm y tế gần đạt tỷ lệ mong muốn. Pháp luật bảo hiểm y
tế ngày càng cải tiến theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, trong đó sinh
viên là đối tượng tham gia BHYT bắt buộc.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực bảo hiểm y tế đã được công
bố, chủ yếu tập trung phân tích vị trí, vai trị của BHYT và đánh giá kết quả
thực thi chính sách pháp luật BHYT như:
- Bộ Y tế, Đề án Thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn
2012-2015 và 2020.
- Vụ Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế, Nghiên cứu về khả năng tiến tới bảo hiểm
y tế toàn dân.
- Hoàng Mạnh Trường, Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế ở Việt
Nam hiện nay, luận văn Thạc sĩ, năm 2016.
- Bùi Thị Thu Hằng, Bảo hiểm y tế tự nguyện trong luật bảo hiểm y tế
Việt Nam, luận văn thạc sĩ, năm 2014.
- Bộ Y tế, Báo cáo kết quả nghiên cứu khả năng thực hiện BHYT toàn
dân, tháng 2/2011.
- Lê Bạch Hồng, Vai trị của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế với an sinh xã hội của đất nước, tạp chí Bảo hiểm xã hội, tháng 9/2010.
- Mai Thị Thu Nga, thực trạng tham gia bảo hiểm y tế của sinh viên
một số trường đại học, cao đẳng tại tỉnh Thái Nguyên (2006-2008), luận văn
thạc sĩ, năm 2009.
- Đào Văn Dũng, Thực hiện chính sách BHYT ở nước ta: Thành tựu,
thách thức và giải pháp, Tạp chí Tuyên giáo số 8/2009.
- Nguyễn Hiền Phương, Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật
Bảo hiểm y tế ở Việt Nam, tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 4/2008; Bảo hiểm y tế
trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, tạp chí Luật học, số 10/2006.


3


Các cơng trình nghiên cứu trên tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, nội
dung nghiên cứu đề cập tới từng lĩnh vực, từng chế độ, chính sách BHYT cụ
thể. Riêng luận văn này, tác giả nghiên cứu ở góc độ lý luận nhà nước và pháp
luật để tiếp cận, phân tích, đánh giá các vấn đề bằng những cách nhìn khác
hơn để thấy được sự khác biệt trong nghiên cứu về pháp luật bảo hiểm y tế.
Sinh viên là lực lượng đông đảo trong các trường cao đẳng, đại học.
Việc thực hiện pháp luật BHYT đối với sinh viên tại các trường cao đẳng, đại
học ở từng địa phương được thực hiện như thế nào, đó là vấn đề cần phải
nghiên cứu để tìm ra giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi cho sinh viên. Xuất
phát từ những yêu cầu thực tiễn nêu trên, học viên chọn đề tài "Thực hiện
pháp luật bảo hiểm y tế cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang" làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu về tình hình thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế cho
sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nhằm làm
rõ hơn những vấn đề về lý luận của thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế; trên cơ
sở phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế cho sinh
viên, tìm ra những hạn chế, vướng mắc; từ đó đề xuất những giải pháp phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHYT đối với sinh viên.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là việc thực hiện pháp luật về
bảo hiểm y tế đối với sinh viên trong các cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học
trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, bao gồm các nhóm đối tượng nghiên cứu có liên
quan trực tiếp sau đây:
- Nhóm đối tượng tham gia và hưởng chính sách BHYT: Sinh viên
đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của tỉnh Tiền Giang.



4

- Nhóm cán bộ y tế trường học tại các trường đại học, cao đẳng của tỉnh
Tiền Giang. Đây là những người trực tiếp làm cơng tác chăm sóc sức khỏe
ban đầu và làm thủ tục đăng ký tham gia BHYT cho sinh viên.
- Nhóm cán bộ làm cơng tác tham mưu, quản lý nhà nước về BHYT và
giải quyết chính sách BHYT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu sự tác động của hệ thống pháp luật về BHYT
hiện hành và công tác tổ chức thực hiện pháp luật về BHYT đối với sinh viên
trong các trường cao đẳng, đại học của tỉnh Tiền Giang từ năm 2015 đến năm
2018.
4. Giả thuyết khoa học
Cơng trình nghiên cứu này là kết quả đánh giá khách quan thông qua
khảo sát thực tế, phân tích lý luận, nghiên cứu sự tác động của các quy định
pháp luật bảo hiểm y tế hiện hành ở nước đến quyền, lợi ích của sinh viên.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc tuân thủ pháp luật bảo hiểm y tế,
việc sử dụng, áp dụng và thực thi pháp luật bảo hiểm y tế của các chủ thể có
liên quan (cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị); tìm ra những hạn chế và nguyên
nhân; từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả,
chất lượng thực hiện pháp luật BHYT; góp phần hồn thiện hệ thống pháp
luật bảo hiểm y tế; đảm bảo tốt quyền được chăm sóc sức khỏe cho người
tham gia BHYT nói chung và sinh viên nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho
luận văn là: Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật BHYT đối với sinh viên; làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về BHYT
đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại tỉnh Tiền Giang. Từ đó đề



5

xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHYT đối với
sinh viên.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc tài liệu (nghiên cứu lý thuyết): Phương pháp này
người nghiên cứu thực hiện bằng cách đọc và phân tích hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về BHYT, các số liệu thứ cấp từ các báo cáo của các cơ quan
quản lý nhà nước có liên quan, các kết quả nghiên cứu về thực hiện pháp luật
BHYT đã công bố từ năm 2008 đến nay.
- Phương pháp thu thập số liệu: Người nghiên cứu sưu tầm, tìm kiếm số
liệu thơng qua việc thu thập trực tiếp tại các cơ quan, các cơ sở giáo dục cao
đẳng, đại học hoặc trên các trang thông tin điện tử (website) của các cơ quan,
tổ chức có liên quan của tỉnh Tiền Giang.
- Phương pháp nghiên cứu thực địa, phỏng vấn chuyên gia: Mục đích
sử dụng phương pháp này là nhằm thu thập, bổ sung những ý kiến đánh giá
của những người làm công tác thực hiện pháp luật BHYT; giúp có cơ sở thực
tiễn, chính xác để làm rõ các vấn đề về lý thuyết.
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản thực hiện pháp luật về BHYT
cho sinh viên
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế và pháp luật bảo hiểm y tế Việt Nam
1.2. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho
sinh viên
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật vể bảo hiểm y tế cho sinh
viên các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
2.1. Khái quát về các trường cao đẳng, đại học và tình hình sinh viên
các trường cao đẳng, đại học của tỉnh Tiền Giang



6

2.2. Cơ quan quản lý và thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh
viên của tỉnh Tiền Giang
2.3. Kết quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh viên các
trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2015-2018
2.4. Nhận xét chung về tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế
cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học của tỉnh Tiền Giang
Chương 3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo
hiểm y tế cho sinh viên.
3.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho sinh
viên
3.2. Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế cho
sinh viên.


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM Y TẾ CHO SINH VIÊN
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế và pháp luật bảo hiểm y tế
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm y tế
Có rất nhiều định nghĩa về bảo hiểm y tế (BHYT), ở mỗi giai đoạn phát
triển của chính sách pháp luật BHYT thì cách nhìn nhận, khái quát về BHYT
cũng khác nhau. Thời điểm Nhà nước ta mới ban hành Điều lệ BHYT lần đầu
tiên vào năm 1992 chưa có khái niệm rõ ràng về BHYT. Tại Điều 1, Điều lệ
BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội

đồng bộ trưởng chỉ nêu lên được mục đích của BHYT chứ chưa nêu được
khái niệm về BHYT. Theo đó, “BHYT do nhà nước tổ chức quản lý, nhằm
huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội, để tăng
cường chất lượng trong việc khám bệnh, chữa bệnh” [5] (Điều 1, Điều lệ
BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 299-HĐBT). Đến năm 1998, khi
Chính phủ ban hành Điều lệ BHYT mới thay thế Điều lệ BHYT năm 1992 thì
BHYT mới được định nghĩa một cách rõ ràng hơn như sau: “Bảo hiểm y tế
quy định trong Điều lệ BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức
thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao
động, các tổ chức và cá nhân, để thanh tốn chi phí khám chữa bệnh theo quy
định của Điều lệ BHYT cho người có bảo hiểm y tế khi ốm đau” [3] (Điều 1,
Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP).
Năm 2005, Chính phủ ban hành Điều lệ BHYT mới bãi bỏ Điều lệ
BHYT năm 1998 thì khái niệm về BHYT vẫn được bổ sung thêm như sau:
“Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm
huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ


8

chức và cá nhân, để thanh tốn chi phí khám chữa bệnh cho người có bảo
hiểm y tế khi ốm đau” [4] (khoản 1, Điều 1, Điều lệ BHYT ban hành kèm
theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP).
Năm 2008, Quốc Hội khóa XII chính thức thơng qua Luật BHYT thì
khái niệm về BHYT được chỉnh sửa bổ sung hoàn thiện hơn. Luật BHYT
2008 đã chia khái niệm BHYT ra thành 2 khái niệm riêng biệt là bảo hiểm y
tế và bảo hiểm y tế tồn dân dựa vào mục đích, đối tượng tham gia BHYT
gồm bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện. Tại khoản 1 Điều 2
Luật BHYT số 25/2008/QH12 quy định: “Bảo hiểm y tế là hình thức bảo
hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi

nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham
gia theo quy định của luật BHYT [10] (Điều 2, Luật BHYT 2008).
Năm 2014, Quốc hội XIII thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều
của luật BHYT. Khái niệm BHYT cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
tình hình thực tế, khi đó: “Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được
áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức
khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện” [11]
(khoản 1, Điều 1, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHYT 2014).
Đây là khái niệm về BHYT tương đối đầy đủ nhất đến thời điểm hiện nay.
1.1.2. Các nguyên tắc bảo hiểm y tế
Trong lĩnh vực BHYT, ngoài những nguyên tắc chung của pháp luật
được các nhà làm luật áp dụng đó là những quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta đối với BHYT, một chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột trong
hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
đảm ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế xã hội cần phải xây dựng
pháp luật BHYT; cịn có những nguyên tắc mang tính chất đặc thù của ngành
bảo hiểm đó là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm. Đây là


9

ngun tắc rất đặc thù của BHYT, nó ln là nguyên tắc cơ bản để thể chế
những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm an sinh
xã hội được thể hiện trong Hiến pháp trở thành định hướng xác định nội dung
của ngành luật BHYT.
Mặt khác, do tính chất của của nền kinh tế thị trường cùng với những
đòi hỏi khách quan của xã hội đã tác động khơng nhỏ tới việc hình thành nội
dung của hệ thống pháp luật BHYT. Các yếu tố này đã trở thành những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHYT. Xuất phát từ tính chất của bảo hiểm y
tế là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, là một chính sách quan trọng trong hệ

thống chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Chính sách BHYT mang ý
nghĩa nhân đạo sâu sắc, vì vậy trong thực hiện chính sách BHYT phải đảm
bảo đúng những nguyên tắc do pháp luật BHYT quy định. Các nguyên tắc
đó là:
1.1.2.1. Nguyên tắc “Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia
bảo hiểm y tế”
Đây là nguyên tắc cơ bản, đặc thù của ngành BHYT. Nguyên tắc này
được quy định tại khoản 1, Điều 3, Luật BHYT 2008. Nội dung nguyên tắc
này vừa mang tính chất nhân đạo, vừa tính cộng đồng sâu sắc, nó thể hiện ở
sự chung tay đóng góp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức vào quỹ BHYT. Tổ
chức Bảo hiểm y tế thuộc cơ quan Bảo hiểm xã hội là cơ quan có trách nhiệm
quản lý quỹ BHYT và có nghĩa vụ chi xuất, thanh quyết toán theo định mức
quy định cho người tham gia BHYT khi họ không may bị ốm đau, thương tật
phải điều trị, chăm sóc tại các cơ sở khám chữa bệnh BHYT.
Nguồn quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp tự nguyện hoặc bắt
buộc theo từng loại hình BHYT, từng đối tượng tham gia do luật BHYT quy
định. Nói chung, khi tham gia BHYT, khơng ai mong muốn xảy ra sự kiện để
được thụ hưởng bởi lẽ nếu xảy ra sự kiện ốm đau, bệnh tật thì sức khỏe của


10

chúng ta sẽ bị giảm sút ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập cũng giảm sút theo.
Mặc dù khi xảy ra sự kiện ốm đau, bệnh tật thì người tham gia BHYT sẽ được
được quỹ BHYT chi trả trong khám chữa bệnh; tuy nhiên vẫn tốt hơn nếu như
sức khỏe của chúng ta được đảm bảo, không xảy ra sự kiện nào cả. Do đó, khi
những đối tượng đã tham gia BHYT nếu không xảy ra sự kiện cần chi trả thì
khoản tiền đã đóng góp vào quỹ BHYT của người đó sẽ được cơ quan BHXH
dùng để chi trả cho việc khám chữa bệnh của những đối tượng có tham gia
BHYT khác nếu họ có xảy ra ốm đau, bệnh tật cần chăm sóc sức khỏe. Sự

chia sẻ này được pháp luật quy định và cơ quan BHXH phải thực hiện để đảm
bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người tham gia BHYT.
1.1.2.2. Nguyên tắc “ Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ
phần trăm của tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc theo quy định của
Luật bảo hiểm xã hội (sau đây gọi chung là tiền lương tháng), tiền lương hưu,
tiền trợ cấp hoặc mức lương cơ sở”.
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2, Điều 1, Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật BHYT 2014. Nội dung nguyên tắc thể hiện rõ cơ
sở ban hành quy định về mức đóng BHYT của các đối tượng tham gia
BHYT ở các loại hình BHYT bắt buộc và tự nguyện như: cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động trong doanh nghiệp, người hưởng lương hưu, hộ
gia đình. Đối với từng đối tượng tham gia BHYT khác nhau thì mức đóng
BHYT cũng khác nhau căn cứ trên cơ sở là khoản tiền lương đóng BHXH
(đối với đối tượng BHYT cán bộ, công chức, người lao động,..) và phần trăm
lương tối thiểu (lương cơ sở) đối với đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình.
Quy định này làm căn cứ để các tổ chức BHYT (thuộc BHXH) thu phí BHYT
của các đối tượng tham gia.
1.1.2.3. Nguyên tắc “Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật,
nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi và thời gian tham gia bảo hiểm y tế”.


11

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2, Điều 1, Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật BHYT 2014. Nội dung ngun tắc thể hiện tính
cơng bằng trong chi trả, thanh quyết tốn chi phí KCB BHYT cho từng đối
tượng tham gia BHYT. Theo quy định tại khoản 15, Điều 2 Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật BHYT năm 2014 (sửa đổi bổ sung Điều 22, Luật
BHYT năm 2008), mức hưởng BHYT được quy định như sau:
“- Người tham gia BHYT khi đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định

tại các Điều 26, 27, 28 Luật này (Luật BHYT 2008) thì được quỹ BHYT
thanh tốn chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng với các
mức hưởng:
+ 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với đối tượng quy định tại
các điểm a, d, e, g, h và i khoản 3 Điều 12 luật này. Chi phí khám bệnh, chữa
bệnh ngồi phạm vi được hưởng bảo hiểm y tế của đối tượng quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 12 của Luật này được chi trả từ nguồn kinh phí bảo hiểm
y tế dành cho khám bệnh, chữa bệnh của nhóm đối tượng này; trường hợp
nguồn kinh phí này khơng đủ thì do ngân sách nhà nước bảo đảm;
+ 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp chi phí cho
một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn mức do Chính phủ quy định và khám
bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã;
+ 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh khi người bệnh có thời gian
tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí
khám bệnh, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ trường hợp
tự đi khám bệnh, chữa bệnh khơng đúng tuyến;
+ 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với đối tượng quy định tại
điểm a khoản 2, điểm k khoản 3 và điểm a khoản 4 Điều 12 của Luật này;
+ 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng khác.


12

- Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
thì được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế theo đối tượng có quyền lợi cao nhất.
- Trường hợp người có bảo hiểm y tế tự đi khám bệnh, chữa bệnh
không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng quy
định tại khoản 1 Điều này theo tỷ lệ như sau, trừ trường hợp quy định tại
khoản 5 Điều này:
+ Tại bệnh viện tuyến trung ương là 40% chi phí điều trị nội trú;

+ Tại bệnh viện tuyến tỉnh là 60% chi phí điều trị nội trú từ ngày Luật
này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2020; 100% chi phí điều trị nội trú
từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 trong phạm vi cả nước;
+ Tại bệnh viện tuyến huyện là 70% chi phí khám bệnh, chữa bệnh từ
ngày Luật này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2015; 100% chi phí
khám bệnh, chữa bệnh từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
- Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký
khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa
khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện
tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng theo quy định tại khoản 1
Điều này.
- Người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia
bảo hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia bảo hiểm
y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh
không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh tốn chi phí khám bệnh,
chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện
tuyến tỉnh, tuyến trung ương và có mức hưởng theo quy định tại của Luật
BHYT.


13

- Từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí điều
trị nội trú theo mức hưởng quy định tại khoản 1 Điều này cho người tham gia
bảo hiểm y tế khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến tại các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước”.
1.1.2.4. Nguyên tắc “Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do
quỹ bảo hiểm y tế và người tham gia bảo hiểm y tế cùng chi trả”.

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 4, Điều 3, Luật BHYT 2008.
Nội dung ngun tắc thể hiện tính cơng bằng tuyệt đối trong sử dụng nguồn
quỹ BHYT để chi trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT; đồng thời đảm
bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT. Nguyên tắc này được cụ thể hóa tại
Điều 31 Luật BHYT 2008 và khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật BHYT 2014 (sửa đổi bổ sung Điều 24 Luật BHYT năm 2008)
như sau:
“- Tổ chức bảo hiểm y tế thanh tốn chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo hợp đồng khám bệnh, chữa
bệnh bảo hiểm y tế.
- Tổ chức bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế trực tiếp cho người có bảo hiểm y tế đi khám bệnh, chữa bệnh trong
các trường hợp sau đây: Tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khơng có hợp đồng
khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế; Khám bệnh, chữa bệnh không đúng quy
định tại Điều 28 luật BHYT. Trường hợp đặc biệt khác do Bộ trưởng Bộ y tế
quy định.
- Tổ chức bảo hiểm y tế thanh tốn chi phí khám bệnh, chữa bệnh trên
cơ sở viện phí theo quy định của Chính phủ.
- Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính quy định thủ tục, mức
thanh tốn đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này (Điều 31
Luật BHYT).


14

- Bộ trưởng Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính quy
định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các
bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc”.
Ngoài ra, việc quy định chi trả chi phí KCB BHYT cho người tham gia
BHYT cũng thể hiện sự cộng đồng trách nhiệm của cá nhân và cơ quan, tổ

chức của Nhà nước để đảm bảo hài hịa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích của Nhà nước; điều đó thể hiện:
- Lợi ích cá nhân của người tham gia BHYT: Phải luôn được bảo đảm.
Khi người tham gia BHYT khơng may gặp ốm đau, bệnh tật thì tổ chức
BHYT phải chi trả chi phí KCB, chi phí điều trị. Nguồn chi trả trích từ quỹ
BHYT mà cá nhân ấy đã đóng góp. Định mức hưởng theo tỷ lệ quy định và
các loại bệnh, các loại thủ thuật, phẫu thuật, thuốc, vật tư y tế, danh mục kỹ
thuật được thanh toán BHYT phải nằm trong quy định của luật BHYT. Ngồi
những khoản chi phí do quỹ BHYT chi trả, nếu người bệnh thực hiện các dịch
vụ kỹ thuật cao, sử dụng các loại thuốc ngoài danh mục của quỹ BHYT chi trả
thì người bệnh phải tự thanh tốn các chi phí phát sinh ngồi danh mục
BHYT chi trả. Điều này thể hiện sự công bằng, bởi một số người bệnh có khả
năng về tài chính họ muốn sử dụng các dịch vụ theo yêu cầu hoặc một số
bệnh buộc phải sử dụng các loại thuốc, các thiết bị, dịch vụ kỹ thuật cao mới
có thể đáp ứng được khả năng hồi phục sức khỏe cho họ.
1.1.2.5. Nguyên tắc “Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung,
thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà
nước bảo hộ”.
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 5, Điều 3, Luật BHYT số
25/2008/QH12. Quỹ BHYT là một nguồn quỹ đặc biệt quan trọng trong việc
thực hiện chính sách BHYT, bởi đây là nguồn quỹ do nhiều đối tượng đóng
góp: Người tham gia BHYT, người sử dụng lao động và Nhà nước cùng


15

đóng góp để chi trả cho đối tượng thụ hưởng là người tham gia BHYT, vì
vậy Luật BHYT 2008 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHYT
2014 quy định chặt chẽ hơn vấn đề quản lý và sử dụng quỹ BHYT đảm bảo
tập trung, thống nhất và minh bạch, tránh trường hợp thâm hụt quỹ hoặc sử

dụng quỹ vào mục đích cá nhân gây thiệt hại cho người tham gia BHYT và
cho Nhà nước.
Tại Điều 34, Luật BHYT 2018 và khoản 22, Điều 1 Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật BHYT 2014 (sửa đổi bổ sung Điều 34 Luật BHYT
năm 2008) quy định như sau: “Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung,
thống nhất, cơng khai, minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ
chức bảo hiểm y tế. Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy
định của Luật bảo hiểm xã hội chịu trách nhiệm quản lý quỹ BHYT và tư
vấn chính sách BHYT”.
- Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHYT; quyết định nguồn
tài chính để bảo đảm việc khám bệnh, chữa bệnh BHYT trong trường hợp mất
cân đối thu, chi quỹ bảo hiểm y tế. Hàng năm, Chính phủ báo cáo trước Quốc
hội về quản lý và sử dụng quỹ BHYT.”
Nguyên tắc quản lý quỹ BHYT đã được cụ thể hóa thành các quy định
trong các điều luật của Luật BHYT 2008 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật BHYT 2014 và quy định rõ hơn trong các Nghị định, Thông tư đã
cho thấy rằng Nhà nước ta rất quan tâm đến chính sách chi trả BHYT cho các
đối tượng thụ hưởng. Điều đó một lần nữa khẳng định tính nhân đạo, nhân
văn của pháp luật BHYT.
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật bảo hiểm y
tế Việt Nam
1.1.3.1. Giai đoạn trước năm 1992


16

Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của chủ trương xã hội hóa về lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe y tế, được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) và Quyết định số 45/HĐBT ngày
24/4/1989 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép các cơ sở KCB

được thu một phần viện phí.
Theo đề nghị của Bộ Y tế, ngày 26/10/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã có
văn bản số 3504/KG, đồng ý để các địa phương được tiến hành triển khai thực
hiện thí điểm BHYT; đồng thời Bộ Y tế đã thành lập Ban dự thảo Pháp lệnh
BHYT để giúp Bộ chỉ đạo các địa phương tổng kết việc thực hiện thí điểm,
làm đầu mối phối hợp cùng các cơ quan xúc tiến việc xây dựng dự thảo Pháp
lệnh BHYT. Có thể nói, đây là giai đoạn thí điểm mơ hình bảo hiểm y tế. Giai
đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng, là giai đoạn chuẩn bị các tiền đề và thử
nghiệm mơ hình BHYT trước khi đưa vào chính thức thực hiện chính sách
BHYT trong phạm vi cả nước.
1.1.3.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1997
Giai đoạn này đánh dấu bằng sự kiện Hiến pháp 1992 ra đời. Tại Điều
39, Hiến pháp 1992 có quy định: “Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất
quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực
lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự
phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học
cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế
nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm
sóc sức khoẻ”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ban hành hệ thống pháp
luật BHYT.
Dự án Pháp lệnh BHYT đã được trình Quốc hội xem xét trong thời gian
từ ngày 25 đến ngày 28/5/1992. Tuy nhiên vì những điều kiện chưa “chín
muồi” nên Pháp lệnh về BHYT chưa được ban hành, thay vào đó Nghị định


17

số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 ban hành Điều lệ bảo hiểm y tế đã được phê
duyệt. Đây là Điều lệ BHYT đầu tiên, đặt nền móng khai sinh cho việc hình
thành và phát triển hoàn thiện hệ thống pháp luật BHYT về sau.

1.1.3.3. Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2004
Cùng với sự phát triển liên tục, không ngừng của các quan hệ xã hội về
BHYT, nhu cầu của người dân ngày càng tăng cao, đối tượng tham gia BHYT
ngày càng mở rộng, Chính phủ xét thấy cần phải chỉnh sửa bổ sung Điều lệ
BHYT. Ngày 13/8/1998, Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ban hành Điều lệ
BHYT mới được ban hành kèm theo ra đời thay thế Điều lệ BHYT ban hành
kèm Nghị định số 299/HĐBT. Điều lệ BHYT kèm theo Nghị định số
58/1998/NĐ-CP đã bổ sung nhiều điểm mới, đặc biệt là đối tượng tham gia
BHYT bắt buộc so với điều lệ BHYT trước đây.
1.1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 6 năm 2008
Ngày 16/5/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ban
hành Điều lệ BHYT, thay thế Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số
58/1998/NĐ-CP. Tiếp tục bổ sung thêm một số đối tượng tham gia BHYT bắt
buộc. Như vậy, cho thấy có sự mở rộng hơn về đối tượng tham gia BHYT so
với các quy định trước đây.
1.1.3.5. Giai đoạn từ tháng 7 năm 2008 đến nay
Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật
về BHYT. Nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật về lĩnh vực BHYT ra đời
như: Luật BHYT 2008, Nghị định số 62/2009/NĐ- CP ngày 27/7/2009 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế;
Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực BHYT; Quyết định số 3745/2012/QĐ-BYT của Bộ y tế ban
hành quy trình và nội dung thanh tra việc thực hiện chính sách tại các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT


18

năm 2014 (có hiệu lực từ 01/01/2015); Nghị định số 105/2014/NĐ-CP này
15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

BHYT; Nghị định số 70/2015/NĐ-CP Ngày 01/9/2015 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT đối với Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân. Đến thời điểm hiện nay có thể khẳng định rằng hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về BHYT đã tương đối đầy đủ. Hệ thống
pháp luật BHYT là nền tảng pháp lý quan trọng để thực hiện mục tiêu phát
triển BHYT bền vững.
1.1.4. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
Luật BHYT quy định về chế độ, chính sách BHYT, bao gồm: Đối
tượng, mức đóng, trách nhiệm và phương thức đóng BHYT; thẻ BHYT; phạm
vi được hưởng BHYT; tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia
BHYT; thanh tốn chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT; quỹ BHYT; quyền
và trách nhiệm của các bên liên quan đến BHYT.
Theo quy định tại khoản 6, Điều 1, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014 (sửa đổi bổ sung Điều 12, Luật BHYT năm
2008) về đối tượng tham gia BHYT có 6 nhóm gồm:
Nhóm thứ nhất: “Nhóm do người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao
động đóng, bao gồm: Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên; người
lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương; cán bộ, công chức,
viên chức (sau đây gọi chung là người lao động). Người hoạt động không
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật”.
Nhóm thứ hai: “Nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng, bao gồm:
Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng. Người đang
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp hoặc mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày; người từ


19

đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng. Cán bộ xã, phường, thị

trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng. Người đang
hưởng trợ cấp thất nghiệp”.
Nhóm thứ ba: “Nhóm do ngân sách nhà nước đóng, bao gồm:
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội đang
tại ngũ; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ
thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân
dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn trong cơng an nhân dân; người
làm cơng tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; học viên cơ yếu
được hưởng chế độ, chính sách theo chế độ, chính sách đối với học viên ở các
trường quân đội, công an;
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp hằng
tháng từ ngân sách nhà nước;
- Người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp
hằng tháng từ ngân sách nhà nước;
- Người có cơng với cách mạng, cựu chiến binh;
- Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm;
- Trẻ em dưới 6 tuổi;
- Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng;
- Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống
tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã
đảo, huyện đảo;
- Thân nhân của người có cơng với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ
hoặc chồng, con của liệt sĩ; người có cơng ni dưỡng liệt sĩ;


×