Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Thực trạng đói nghèo và các giải pháp nhằm xoá đói, giảm nghèo ở các huyện miền núi nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.44 KB, 67 trang )

Tr-ờng Đại học Vinh
Khoa gdct
----------------------------

Vũ thị h-ơng giang

Thực trạng đói nghèo và các giải pháp
nhằm
xoá đói giảm nghèo ở các huyện miền núi
nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Ngành s- phạm gdct

Cán bộ h-ớng dẫn : T.S Đoàn minh duệ

Vinh - 2006

1


Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh tin học, thời đại của
kinh tế trí thức, của toàn cầu hoá. Lò phản ứng hạt nhân, máy tính điện tử, con tàu
vũ trụ, mạng Intermet toàn cầu, bản đồ gen của con ng-ời đều là thành quả của
việc áp dụng những tri thøc khoa häc, biĨu hiƯn søc m¹nh cđa trÝ tuệ, năng lực
nhận thức vô hạn của con ng-ời, làm cho cuộc sống của con ng-ời ngày càng giàu
mạnh hơn, no đủ hơn.


Tuy nhiên, mỗi b-ớc trên con đ-ờng tiến bộ của khoa học và công nghệ, con
ng-ời luôn phải đối mặt với những vấn đề ngày càng phức tạp, mang tính chất toàn
cầu: Làm thế nào để tránh đ-ợc thảm hoạ đại dịch AIDS? Làm thế nào để thoát
khỏi bàn tay tử thần của bệnh ung th-? Làm thế nào để tránh đ-ợc nạn ô nhiễm
môi tr-ờng? Làm thế nào để thế giới vĩnh viễn không còn có chiến tranh? Và một
trong các vấn đề mang tính chất toàn cầu ấy là vấn đề nghèo đói.
Trong lời kêu gọi Thi đua ái quốc (6/1948) Bác Hồ đà đề ra những yêu
cầu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà chúng ta đang thực hiện :
Diệt giặc đói,
Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm
Nh- vậy, với lời kêu gọi đó, chúng ta thấy, ngay từ khi mới ra đời, Nhà n-ớc
Việt Nam DCCH đà khẳng định giặc đói nghèo là một thứ giặc đầu tiên, nguy hiểm
nhất, bên cạnh giặc dốt và giặc ngoại xâm mà chúng ta cần phải tiêu diệt. Từ đó,
một vấn đề mang tầm chiến l-ợc đà và đang đặt ra đối với Đảng và Nhà n-ớc ta
trong mọi giai đoạn cách mạng: Vấn đề xoá đói, giảm nghèo.
N-ớc Cộng hoà XHCN Việt Nam của chúng ta đà đi suốt chiều dài lịch sử
với hành trình hơn 60 năm đầy vẻ vang, chông gai và thử thách. Trong hơn 60 năm
ấy, có 20 năm chúng ta tiến hành công cuộc Đổi mới. Công cuộc Đổi mới đ-ợc soi
sáng bởi ánh sáng của Đại hội VI (12/1986) do Đảng ta khởi x-ớng và lÃnh đạo, đÃ
thu đ-ợc những thành tựu quan trọng. Theo tiến trình đi lên của dân tộc, tình hình
kinh tế ngày càng phát triển và khẳng định vị trí vững vàng. Đời sống nhân dân
2


từng b-ớc cải thiện, mức sống của tuyệt đại đa số nhân dân đ-ợc nâng lên một
b-ớc, thu nhập bình quân đầu ng-ời tăng, một bộ phận dân c- khá giả thậm chí trở
nên giàu có. Vấn đề l-ơng thực xét trên cân đối chung trên phạm vi cả n-ớc đ-ợc
giải quyết tốt hơn, căn bản và đồng đều hơn, bên cạnh đó thì thị tr-ờng thực phẩm
phát triển khá đa dạng và dồi dào, nhu cầu ăn mặc đ-ợc đáp ứng đầy đủ, phong phú

và nhiều chủng loại. Tiện nghi sinh hoạt và phụ phẩm phục vụ cho sinh hoạt trong
gia đình tăng thêm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ng-ời dân, nhà cửa của một
bộ phận c- dân ở nông thôn và thành thị đ-ợc cải thiện và kiên cố hoá, giao thông
vận tải dễ dàng, thuận tiện. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân có một số
mặt đ-ợc cải thiện, nh- tự do làm ăn theo Pháp luật, làm chủ nguồn thu nhập hợp
pháp, thực thi dân chủ, đ-a nhân dân tham gia vào các quan điểm, đ-ờng lối, chính
sách lớn của Đảng và Nhà n-ớc. Một bộ phận không nhỏ dân c- có thu nhập cao,
chính đáng, nhờ biết kinh doanh hoặc có lao động xuất khẩu (sang Hàn Quốc, Đài
Loan, Oxtraylia, Đức...)
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đà đạt đ-ợc trong chiến l-ợc phát triển
kinh tế - xà hội, thì vấn đề đói nghèo và phân hoá giàu nghèo ở n-ớc ta vẫn đang
diễn ra gay gắt.
Thực tế cho thấy, nghèo đói đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều là
lực cản của sự phát triển. Xoá đói, giảm nghèo, tiến tới xây dựng một n-ớc Việt
Nam Dân giàu, n-ớc mạnh, xà hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu của
sự nghiệp CNH- HĐH đất n-ớc, là cái đích h-ớng tới của CNXH mà chúng ta đang
chung sức xây dựng. Vì vậy, để từng b-ớc xoá đói, giảm nghèo cần phải có những
giải pháp đồng bộ về kinh tế - xà hội.
Nh- vậy, ch-ơng trình xoá đói, giảm nghèo đà và đang trở thành vấn đề
mang tầm chiến l-ợc trong công cuộc xây dựng đất n-ớc. Tuy nhiên, để chuyển
thành các biện pháp cụ thể, áp dụng cho từng vùng, từng địa ph-ơng còn rất khó
khăn, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, khảo sát công phu của nhiều cấp, nhiều ngành,
của cả Trung -ơng và địa ph-ơng, và điều quan trọng hơn là phải biết đ-a những
tiến bộ có giá trị khoa học ¸p dơng vµo cc sèng.

3


Đói nghèo ở n-ớc ta đà và đang là vấn đề nhức nhối mà ở tỉnh nào, địa
ph-ơng nào cũng có, đặc biệt là ở các xà miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,

hải đảo và vùng dân tộc Ýt ng-êi. NghƯ An lµ mét tØnh cã diƯn tÝch đứng đầu trong
cả n-ớc và dân số đứng thứ 3. DiƯn tÝch miỊn nói NghƯ An chiÕm tû lƯ cao hơn
diện tích đồng bằng. Tỷ lệ đói nghèo ở các x· vïng miỊn nói, d©n téc thiĨu sè ë
NghƯ An cao hơn rất nhiều so với đồng bằng và so với mức bình quân chung của cả
n-ớc. Chính vì vậy, trong những năm qua, vấn đề xoá đói, giảm nghèo nói chung là
một vấn đề đặt ra cấp bách trong giai đoạn hiện nay, nhất là đối với các huyện miền
núi. Giải quyết đ-ợc vấn đề này là điều kiện then chốt để đ-a Nghệ An trở thành
tỉnh Khá và g-ơng mẫu nh- lời Hồ chủ tịch hằng mong muốn.
Để góp phần đ-a quê h-ơng Xô viết anh hùng từng b-ớc xoá đói, giảm
nghèo, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề: Thực trạng đói nghèo và các giải
pháp nhằm xoá đói, giảm nghèo ở các huyện miền núi Nghệ An trong giai đoạn
hiện nay với mong muốn góp sức mình để đ-a Nghệ An tiến b-ớc cùng sự phát
triển của đất n-ớc, hoà cùng hơi thở của thời đại mới.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Vấn đề đói nghèo và phân hoá giàu nghèo cũng nh- nguyên nhân, hậu quả
và các giải pháp khắc phục đà từng thu hút sự chú ý và quan tâm của các nhà lÃnh
đạo, quản lý, của giới lý luận, nhiều nhà khoa học và chính trị, các tổ chức Quốc tế
trong và ngoài n-ớc quan tâm nghiên cứu đà nhiều năm, nhất là từ 1997 đến nay.
ĐÃ có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề đói nghèo và nhiều ch-ơng trình xoá
đói, giảm nghèo đà đ-ợc triển khai. Đà có nhiều bài nghiên cứu đăng tải trên các
tạp chí của Trung -ơng và địa ph-ơng, đề cập các vấn đề xoá đói, giảm nghèo. Với
khuôn khổ có hạn, chúng tôi xin phép nêu một số bài viết và công trình tiêu biểu,
mang tính định h-ớng sau đây: Phụ nữ, giới và phát triển của các tác giả Trần
Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội 1996; Vấn đề nghèo ở Việt
Nam của tác giả Bùi Thế Giang, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1996; Xoá đói,
giảm nghèo ở vùng khu 4 cũ của các tác giả Lê Đình Thắng, Nguyễn Thị Hiền,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995; Bí quyết trở thành ông chủ , bài viết đăng trên
Tạp chí thống kê, Hà Nội, tháng 10/1999; Cơ sở hạ tầng Việt Nam 10 năm đổi
4



mới , Nxb Thống kê 1986; Mặt trái của cơ chế thị tr-ờng của tác giả Phạm Viết
Đào, Nxb Văn hoá, Thông tin, 1986; Tiến trình đổi mới kinh tế quốc dân của Việt
Nam của Thế Đạt, Nxb Hà Nội 1987; Phân hoá giàu nghèo và các tiêu chuẩn về
đói nghèo ở Việt Nam của Nguyễn Thị Hằng, Bộ tr-ởng Bộ LĐTB & XH, Nxb
Lao động 1997; Ch-ơng trình cấp Nhà n-ớc về phân tầng xà hội do GS. Đỗ
Nguyên Ph-ơng làm chủ nhiệm, trong đó có một đề tài tập trung nghiên cứu về
thực trạng đói nghèo và các giải pháp nhằm xoá đói, giảm nghèo ở 2 vùng trọng
điểm là đồng bằng Bắc bộ và đồng bằng Nam bộ.
Ngoài ra, trong những năm qua, một số sinh viên khoa GDCT khi lựa chọn
đề tài khoá luận tốt nghiệp cũng đà chọn vấn đề đói nghèo và đà b-ớc đầu đề xuất
các giải pháp xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt có ý nghĩa là đề tài "XÃ Kỳ Văn với
công tác xoá đói giảm nghèo - Thực trạng và giải pháp" của sinh viên Nguyễn Thị
Kim Cúc, K41A, GDCT.
Nghệ An là một trong những tỉnh có tỷ lệ hộ đói và hộ nghèo rất cao. Vì vậy,
trong những năm qua, đ-ợc sự chỉ đạo của Th-ờng trực Tỉnh uỷ và UBND tỉnh,
nhiều cuộc hội thảo về kinh tế trang trại, về nuôi tôm xuất khẩu, trồng cây sở, trồng
cây lạc theo giống mới có ủ ni lon, về phát triển kinh tế hộ gia đình cũng nh- các
chính sách xoá đói, giảm nghèo... đà diễn ra.
Nhà xuất bản Nghệ An cũng đà xuất bản các tập sách nh-: Kết hợp giữa
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xà hội ở nông thôn Bắc Trung bộ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của hai tác giả TS. Đoàn Minh Duệ và
TS. Đinh Thế Định, Nxb Nghệ An, 2003; Giai cấp nông dân Nghệ An tr-ớc yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH do TS. Đoàn Minh Duệ và TS. Đinh Thế Định
đồng chủ biên, Nxb Nghệ An, 6/2001; Hội thảo Kinh tế trang trại và xoá đói,
giảm nghèo của Hội nông dân Nghệ An, 2001; Cùng nông dân bàn cách làm
giàu , Hội nông dân Nghệ An, 2001; Các tập sách trên đà phần nào đề cập ở các
góc độ khác nhau về đói nghèo và b-ớc đầu đề xuất các giải pháp nhằm xoá đói,
giảm nghèo.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu ở một cộng đồng dân c- nh- ở vùng miền núi và
đồng bào dân tộc thiểu số, thì các bài viết nh- đà liệt kê ở trên chØ mang ý nghÜa
5


tham khảo. Miền núi và dân tộc thiểu số của Nghệ An nói chung và của cả n-ớc
nói riêng đang có tỷ lệ hộ đói nghèo cao và đang diễn ra sự phân hoá giàu nghèo
một cách sâu sắc. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc về mặt lý luận,
nhận thức đúng đắn về vấn đề ®ãi nghÌo theo chn míi, tõ ®ã míi cã thĨ ®-a ra
c¸c biƯn ph¸p ¸p dơng mét c¸ch ®ång bé vào thực tiễn. Với mục đích đó, chúng tôi
đà lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1 Mục đích:
a. Điều tra khảo sát thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo ở
các huyện miền núi và vùng dân tộc thiểu số, h-ớng trọng tâm nghiên cứu là các xÃ
đồng bào dân tộc thiểu số và xà đặc biệt khó khăn.
b. Tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan của sự đói nghèo ở vùng
miền núi và dân tộc thiểu số, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm từng b-ớc xoá
đói, giảm nghèo.
3.2. Nhiệm vụ :
a. Giới thuyết khái niệm cũng nh- các chuẩn đói nghèo của thế giới và Việt
Nam hiện nay.
b. Thực trạng đói nghèo ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số Nghệ An.
c. Tìm ra các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo và phân hoá giàu nghèo.
d. B-ớc đầu đề xuất các giải pháp nhằm xoá đói, giảm nghèo ở vùng miền
núi và dân tộc thiểu số Nghệ An.
IV. Giới hạn và ph-ơng pháp nghiên cứu.
1. Giới hạn: Hiện nay vấn đề đói nghèo đang diễn ra hầu hết ở các xÃ, các
huyện, các miền, các vùng trên cả n-ớc nói chung và của tỉnh Nghệ An nói riêng,
nh-ng đề tài này chỉ đề cập đến thực trạng đói nghèo, tìm ra nguyên nhân dẫn đến

đói nghèo và kết quả của công tác xoá đói, giảm nghèo cũng nh- các biện pháp
nhằm xoá đói, giảm nghèo ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số Nghệ An. Cho nên,
dù đề tài có đề cập tới vấn đề đói nghèo ở Nghệ An và của cả n-ớc, thế nh-ng cơ
bản chỉ tập trung khảo sát điều tra, nghiên cứu thực trạng đói nghèo và b-ớc ®Çu ®Ị

6


xuất những giải pháp nhằm giúp nhân dân các huyện miền núi Nghệ An xóa đói,
giảm nghèo.
2. Ph-ơng pháp: Để hoàn thành đ-ợc bài viết này, trong quá trình nghiên
cứu chúng tôi đà phối kết hợp nhiều ph-ơng pháp, trong đó chủ yếu là các ph-ơng
pháp nh- : phân tích, tổng hợp, so sánh; điều tra, khảo sát ... Bằng các ph-ơng pháp
này đà giúp chúng tôi có cơ sở đánh giá vấn đề một cách biện chứng và trình bày
đề tài một cách logic, khoa học.
V. ý nghĩa thực tiễn của đề tài.

Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu trong quá trình thực hiện
ch-ơng trình xoá đói, giảm nghèo ở các huyện miền núi Nghệ An cũng nh- làm tài
liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy một số bài trong môn GDCD ở tr-ờng
THPT.
VI. Kết cấu đề tài.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm
hai ch-ơng:
Ch-ơng I: Giới thuyết về vấn đề đói nghèo và thực trạng đói nghèo ở các
huyện miền núi và dân tộc thiểu số Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Ch-ơng II: Ph-ơng h-ớng và những giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm
nghèo ở các huyện miền núi và dân tộc thiĨu sè NghƯ An trong thêi gian tíi.


7


nội dung
Ch-ơng I.
Giới thuyết về vấn đề đói nghèo và thực trạng công tác
xoá đói, giảm nghèo ở các huyện miền núi và dân tộc
thiểu số Nghệ An trong giai ®o¹n hiƯn nay.
I. Mét sè quan niƯm vỊ ®ãi, nghÌo.
I.1. Thế nào là đói nghèo?

Mỗi một con ng-ời sinh ra ai cịng mong mn m×nh cã mét cc sèng vËt
chÊt đầy đủ và đời sống tinh thần phong phú, mong muốn đ-ợc học hành, có việc
làm, có cơm ăn áo mặc, có nhà ở và ph-ơng tiện sinh hoạt. Các Mác đà chỉ ra
rằng: " ... Tr-ớc hết con ng-ời cần phải ăn, ở và mặc, nghĩa là phải lao ®éng
tr-íc khi cã thĨ ®Êu tranh ®Ĩ giµnh qun thèng trị ... [4,tr459]. Thế nh-ng không
đơn giản là con ng-ời muốn đ-ợc no ấm, đầy đủ là đ-ợc, mà con ng-ời phải không
ngừng đấu tranh để sinh tồn, đấu tranh để thắng thiên nhiên và bắt thiên nhiên phục
vụ mình, ®ång thêi ®Êu tranh víi nh÷ng thÕ lùc x· héi đà cản trở sự phát triển của
con ng-ời, trong các thứ giặc đó có vấn đề nghèo đói và sự phân hoá giàu nghèo.
Đói nghèo là một hiện t-ợng kinh tế- xà hội mang tính toàn cầu. Nó có mặt ở
mọi nơi, mọi thời đại, tồn tại trong suốt quá trình phát triển của xà hội loài ng-ời.
Từ khi xà hội loài ng-ời ra đời cho đến nay, đói nghèo không chỉ xuất hiện
trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến...
mà ngay trong thời đại ngày nay khi mà trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ
phát triển nh- vũ bÃo, cùng với sự phát triển của lực l-ợng sản xuất ở một trình độ
cao ch-a từng thấy, năng suất lao động đ-ợc nâng lên rất cao, sản phẩm làm ra
ngµy cµng nhiỊu, nh-ng trong nhiỊu qc gia, nhiỊu khu vực, kể cả những n-ớc có
nền kinh tế phát triển nhất, đói nghèo vẫn đang tồn tại. Chính vì vậy, từ nhiều năm
nay, thực trạng đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ cấp

bách, một thách thức lớn mà nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm giải
quyết.
Việt Nam là một n-ớc nghèo, lạc hậu, liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, bình
quân thu nhập đầu ng-ời rất thấp, cho nên đói nghèo đang là thách thức gay gắt. Sự

8


nghiệp Đổi mới do Đảng ta khởi x-ớng và lÃnh đạo (từ 1986) không có mục đích
nào khác là nhanh chóng đạt đ-ợc những điều mong -ớc giản dị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh mà Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ta đà khái quát thành mục tiêu:
"Dân giàu, n-ớc mạnh, xà hội công bằng và văn minh".
Mặc dầu Cách mạng tháng Tám thành công đà trên 60 năm và cũng đà trên
30 năm n-ớc ta hoàn toàn thống nhÊt, ®éc lËp, tù do, song mét bé phËn ®ång bào
vẫn đang lâm vào tình trạng đói nghèo. Đây thực sự là một vấn đề nhức nhối đối
với toàn Đảng, toàn dân ta. Chính vì vậy, mà trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà
n-ớc ta đà đề nhiều chính sách về công tác xoá đói, giảm nghèo và đặc biệt Đại
hội VIII của Đảng đà xác định: 14 ch-ơng trình quốc gia và dự án có nội dung gắn
với xoá đói, giảm nghèo.
Đói nghèo là một hiện t-ợng xà hội cã tÝnh lÞch sư. Nã phỉ biÕn ë mäi qc
gia, dân tộc, là vấn đề nóng bỏng và có tính nhức nhối toàn cầu. Đói nghèo và xoá
đói, giảm nghèo đà trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế và mỗi quốc
gia, dân tộc. Thực tế đà cho thÊy, ë c¸c n-íc cã nỊn kinh tÕ- x· hội chậm phát triển
thì tỷ lệ ng-ời nghèo càng cao, mức độ đói nghèo trở thành gánh nặng và là lực cản
đối với sự phát triển của xà hội, không có một quốc gia nào có thể tự giải quyết vấn
đề đói nghèo một cách triệt để và nhanh chóng.
Để giúp các n-ớc chống lại nghèo đói, từ ngày 15 đến 17/9/1993 tại Băng
Cốc (Thái Lan) đà diễn ra Hội nghị về giảm nghèo đói ở khu vực Châu á - Thái
Bình D-ơng do ESCAP tổ chức. Hội nghị đà xác định đ-ợc những chuẩn mực
có tính định tính về đói nghèo và b-ớc đầu đà đề ra một số giải pháp cơ bản để từng

b-ớc khắc phục tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập và xoá đói, giảm nghèo ở
khu vực.
Tiếp đó, từ ngày 20 đến 24/9/1993 cũng tại Băng Cốc đà diễn ra Hội nghị lần
thứ nhất của Uỷ ban giảm đói nghèo, tăng tr-ởng kinh tế và phát triển xà hội với sự
tham dự của đại biĨu tõ 25 n-íc vµ 30 tỉ chøc qc tÕ. Hội nghị đà bàn về vấn đề
giảm nghèo cho các n-ớc trong khu vực và đà khẳng định: Tăng tr-ởng kinh tế và
phát triển xà hội là con đ-ờng cơ bản để các quốc gia giảm nghèo đói. Và từ Hội
nghị này đà b-ớc đầu xác định các chuẩn đói nghÌo.

9


Trong đời sống thực tiễn cũng nh- trong nghiên cứu khoa học về các vấn đề
kinh tế - xà hội, chúng ta th-ờng thấy các khái niệm đói - no, giàu - nghèo... luôn
luôn đi cùng với nhau, đem so sánh để làm nổi bật cho nhau, làm th-ớc đo để xác
địch mức độ và cấp độ của bản thân nó một cách định l-ợng. Đói nghèo không chỉ
đơn thuần là thuộc phạm trù kinh tế, không chỉ thuần tuý là mang tính vật chất, mà
còn mang tính xà hội nhân văn, mặc dù sự đói nghèo tr-ớc hết mang tính vật chất.
Nh- vậy, đói nghèo không chỉ đơn thuần là thiếu thốn về vật chất, mà còn cả dân
trí nghèo, nghèo vì thiếu thốn về tinh thần, văn hoá, sức khoẻ, suy thoái môi
tr-ờng... bản thân hiện t-ợng đói nghèo chỉ mang tính t-ơng đối. Thực tế cho thấy,
các chỉ số xác định đói nghèo và ranh giới phân biệt giữa giàu và nghèo luôn luôn
thay đổi ở từng thời điểm, trong từng vùng, từng n-ớc khác nhau, từng cộng đồng
dân c- khác nhau...Do đó, không thể lấy chỉ số xác định đói nghèo ở thời điểm này
vận dụng một thời điểm khác, bởi các chỉ số đó luôn luôn biến đổi.
Tại Hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu vực châu á- Thái Bình D-ơng
do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc (Thái Lan), các nhà nghiên cứu và các chuyên gia
hoạch định chính sách đà đ-a ra khái niệm, định nghĩa đói nghèo nh- sau: "Nghèo
đói là một bộ phận tình trạng dân c- không đ-ợc h-ởng và thoả mÃn những yêu
cầu cơ bản của con ng-ời đà đ-ợc xà hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển

kinh tế- xà hội và phong tục tập quán của địa ph-ơng".
Nh- vậy, ở đây ta phân biệt đói và nghèo ở 2 phạm vi:
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân c- không đ-ợc h-ởng, hoặc đ-ợc
h-ởng rất ít ỏi những nhu cầu cơ bản của con ng-ời đà đ-ợc xà hội thừa nhận
tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế- xà hội và phong tục tập quán ở từng địa
ph-ơng.
- Còn đói là một bộ phận dân c- không đ-ợc h-ởng những nhu cầu cơ bản
của con ng-ời và cũng đà đ-ợc thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xÃ
hội và phong tục tập quán ở các dân tộc, ở các địa ph-ơng.
Nh- vậy, ranh giới giữa cái đói và cái nghèo ở đây là đ-ợc h-ởng hoặc
h-ởng rất ít ỏi và không đ-ợc h-ởng, không đ-ợc thỏa mÃn những nhu cầu cơ bản
10


của cuộc sống con ng-ời. Cái ranh giới đó luôn luôn kề sát bên nhau và rất dễ thay
thế, do đó mục tiêu xoá đói, giảm nghèo bền vững là không để hộ nghèo tụt xuống
đói và cũng không đ-ợc che đậy tình trạng đói nghèo ở nông thôn.
Có thể xem đây là một định nghĩa chung nhất về đói nghèo, một định nghĩa
tuy không định l-ợng một cách chính xác mức độ đói nghèo, nh-ng định nghĩa đÃ
chỉ ra đ-ợc cái phổ biến nhất của sự đói nghèo. Theo định nghĩa này thì xà hội loài
ng-ời nói chung, cộng đồng dân c- của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa ph-ơng
nói riêng đ-ợc phân thành hai nhóm: Nhóm ng-ời nghèo và nhóm ng-ời còn lại.
Định nghĩa này đà nhấn mạnh đến nhu cầu cơ bản nhất, thiết yếu nhất, tối thiểu
nhất để duy trì sự tồn tại của con ng-ời nh-: ăn, mặc, ở, đi lại...
Ngân hàng thế giới (WB) đà đ-a ra các chỉ tiêu để đánh giá mức độ giàu,
nghèo của các quốc gia bằng cách so sánh mức thu nhập quốc dân bình quân trên
đầu ng-ời trong một năm. Theo cách tính này, Ngân hàng thế giới chia làm 6 nấc
thang về thu nhập và t-ơng øng víi nã lµ sù giµu cã hay nghÌo khỉ của các n-ớc
nh- sau:
Loại 1: trên 25.000 USD/năm/ng-ời đ-ợc xem là n-ớc cực giàu

Loại 2: từ 20.000 USD/năm/ng-ời đến d-ới 25.000 USD/năm/ng-ời đ-ợc
xem là n-ớc giàu.
Loại 3: 10.000 USD/năm/ng-ời đến d-ới 20.000 USD/năm/ng-ời đ-ợc xem
là n-ớc khá giàu.
Loại 4: từ 2.500 USD/năm/ng-ời đến d-ới 10.000 USD/năm/ng-ời đ-ợc xem
là n-ớc trung bình.
Loại 5: từ 500 USD/năm/ng-ời đến d-ới 2.500 USD/năm/ng-ời đ-ợc xem là
n-ớc nghèo.
Loại 6: từ d-ới 500 USD/năm/ng-ời đ-ợc xem là n-ớc cực nghèo.
Năm 2001, tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, chúng ta công bố bình quân thu
nhập của Việt Nam vào khoảng 370 USD/ng-ời/năm, năm 2005 là 452USD/ng-ời
/năm.Nh- vậy, theo chỉ tiêu này thì n-ớc ta thuộc loại n-ớc cực nghèo.
Cũng t-ơng tự nh- vậy, UNDP cho rằng, nếu chỉ xét về mặt kinh tế thì nếu
n-ớc nào thu nhập bình quân mỗi ng-ời 1 USD/1 ngày thì thuộc diện đói nghèo.

11


ở một số n-ớc khác lại căn cứ vào l-ợng calo tối thiểu cung cấp cho cơ thể
đủ sống để tồn tại mà xác định giới hạn của sự nghèo khổ. Những n-ớc mà l-ợng
calo cung cấp trên 3.000/ng-ời/ngày đ-ợc gọi là n-ớc giàu, khoảng 2.500 đ-ợc gọi
là n-ớc trung bình, d-ới 2.000 đ-ợc gọi là n-ớc nghèo.
Ví dụ ở một số n-ớc nh-: ấn Độ, Pakistan và Bănglađét là 2.100
calo/ng-ời/ngày; các n-ớc Viễn Đông: là 2.500 calo/ng-ời/ngày;Việt Nam 1.800
calo/ng-ời/ngày.
Tóm lại, những quan niệm về đói, nghèo do cách tiếp cận khác nhau nên có
những cách lý giải khác nhau. Sự nghèo khổ là một khái niệm mang tính t-ơng ®èi
vµ biÕn ®ỉi theo thêi gian, khu vùc sinh sèng. Do vậy, về mặt nhận thức khoa học,
khái niệm nghèo đói mang tính định tính, phản ánh giới hạn của sự nghèo đói, từ
đó l-ợng hoá bằng các chỉ số có giá trị xác định và chỉ số này cũng không phản ánh

một cách cứng nhắc mà có sự biến đổi t-ơng ứng theo độ chênh lệch giữa các vùng,
các n-ớc và các cụm dân c-.
I.2. Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam.

Hiện nay, ở n-ớc ta để đánh giá về sự đói nghèo th-ờng dựa vào các tiêu chí:
thu nhập, nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt, t- liệu sản xuất, vốn liếng tích luỹ. Dựa vào
các yếu tố đó, ở Việt Nam có ba cách tiếp cận về đói nghèo.
Bộ LĐTB & XH lấy tiêu chí nghèo là thu nhập bình quân đầu ng-ời quy ra
gạo đủ bảo đảm cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày, còn đói đ-ợc xác định:
Hộ đói là tình trạng một bộ phận dân c- nghèo có mức sống d-ới mức tối
thiểu, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, thu nhập không bảo đảm duy trì cuộc
sống .
Trong hộ đói còn phân thành đói gay gắt và thiếu đói.
Thiếu đói là tình trạng dân c- có thu nhập 12 kg gạo/ng-ời/tháng, còn đói
gay gắt là tình trạng dân c- có thu nhập d-ới 8kg gạo/ng-ời/tháng.
Chuẩn mực nghèo đói đ-a ra là 15 - 16 kg gạo/ng-ời/tháng trong đó cơ cấu
sử dụng nh- sau:
- Ăn: 13kg gạo/ng-ời/tháng.
- Mặc + ở: 2kg gạo/ng-ời/tháng.
12


- Văn hoá + giáo dục + y tế + đi lại: 1kg gạo/ ng-ời/tháng.
Nh- vậy, theo cơ cấu này thì nghèo tuyệt đối là tình trạng dân c- chỉ có thu
nhập đảm bảo mức sống tối thiểu d-ới 15 kg gạo/tháng. Ng-ời nghèo tuyệt đối và
hộ nghèo tuyệt đối đ-ơng nhiên là không có điều kiện để thực hiện các nhu cầu về
văn hoá, y tế, giáo dục và ®êi sèng tinh thÇn nãi chung.
Do ®ãi nghÌo cã tÝnh động, biến đổi và có sự khác nhau giữa các vùng nên
Bộ LĐTB & XH đà đ-a ra tiêu chí về đói nghèo giữa các vùng có sự khác nhau là:
- Hộ đói ở nông thôn: Chỉ có thể mua đ-ợc 8kg gạo/ng-ời/tháng

- Hộ nghèo ở nông thôn: Chỉ có thể mua đ-ợc 15kg gạo/ng-ời/tháng
- Hộ nghèo ở đô thị: Chỉ có thể mua đ-ợc 20 kg gạo/ng-ời/tháng
- Hộ đói ở đô thị: Chỉ có thể mua đ-ợc 15 gạo/ng-ời/tháng
Còn ở vùng nghèo là những vùng có địa bàn t-ơng đối rộng, nằm ở khu vực
khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận lợi, có tỷ trọng hộ nghèo cao.
ở đây ta hiểu rằng: Việc xác định mức thu nhập bình quân cho các hộ đói là
13 kg gạo/ ng-ời/ tháng và hộ nghèo là d-ới 20 kg, ở đồng bằng, nông thôn trung
du là 15 kg. Đây là những con số đà đ-ợc nghiên cứu đà và đang áp dụng để tính
kết quả đạt đ-ợc của mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong từng năm và cho đến năm
2000 ở từng địa ph-ơng. Đối với n-ớc ta là n-ớc nghèo nên đà chấp nhận quy định
trên và lấy đó làm mốc để phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu của ch-ơng
trình quốc gia về xoá đói, giảm nghèo. Nh-ng nếu ta chỉ dừng lại ở những con số
đó thì còn quá thấp không đủ để đảm bảo cuộc sống cho con ng-ời, trong khi đó
đòi hỏi của con ng-ời ngày một cao, bên cạnh đó còn có bao nhiêu điều ngoài
mong muốn của chúng ta th-ờng xảy ra nh- ốm đau bệnh tật, thiên tai hoả hoạn...
Mà đối với ng-ời nông dân thì đồng tiền đó không thể lấy ở đâu ra ngoài việc bán
đi sản phẩm nông nghiệp của mình. Và nh- vậy thì một tất yếu xảy ra là ch-a hết
mùa đà hết thóc gạo, cứ nh- thế mùa này đến mùa khác, năm này đến năm khác, cái
đói, cái nghèo cứ bám lấy ng-ời dân.
Theo Tổng Cục Thống kê, nếu lấy tiêu chí đảm bảo mức tiêu dùng đo bằng
nhiệt l-ợng thì một hộ đ-ợc xem là nghèo nếu không đủ thu nhập để mua gạo sao
cho cung cấp đ-ợc 2.100 calo ng-ời/ngày.
13


Theo cách tính này, tiêu chí ở thành thị có mức thu nhập d-ới 70.000đ
/ng-ời/tháng, ở nông thôn d-ới 50.000đ ng-ời/ tháng đ-ợc xem là nghèo.
Theo các chuyên gia của Ngân hàng thế giới, ở Việt Nam lấy tiêu chí giàu
nghèo là thu nhập bình quân đầu ng-ời quy thành tiền đủ đáp ứng các nhu cầu cơ
bản về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh (trong đó 60% dành cho ăn).

Theo cách tính này, ng-ời nghèo:
- ở thành thị thu nhập bình quân phải có ít nhất: 1.293.000đ/ng-ời/năm
- ở nông thôn phải có thu nhập bình quân ít nhất: 1.040.000đ/ng-ời/năm
Cũng có một tiêu chí để đánh giá hé ®ãi nghÌo nh- sau:
- Theo chn cị: Hé ®ãi có thu nhập bình quân d-ới 45000đ/ng-ời/tháng;
hộ nghèo có thu nhập d-ới 55 000đ/ng-ời/tháng đối với miền núi, hải đảo; d-ới
70.000đ/ng-ời/tháng đối với khu vực đồng bằng, trung du; d-ới 90
000đ/ng-ời/tháng đối với khu vực thành thị.
- Theo chuẩn mới: Do bình quân thu nhập đầu ng-ời tăng, do sự tác động
của quá trình hội nhập và nhiều nguyên nhân khác, tháng 9/2005, Thủ t-ớng Chính
phủ đà đ-a ra quy ®Þnh chn ®ãi nghÌo míi. Theo chn ®ã, hé nghÌo có thu nhập
d-ới 80.000đ/ng-ời/tháng đối với miền núi, hải đảo; d-ới 100.000đ/ng-ời/tháng
đối với khu vực đồng bằng, trung du, d-ới 150.000đ/ng-ời/tháng đối với khu vực
thành thị.
Theo chuẩn mới quốc gia chỉ có tiêu thức cho hộ nghèo, không còn tiêu thức
cho hộ đói, nên không phân hộ đói mặc dù thực tế vẫn còn hộ đói.
Trên đây là tiêu chí ®Ĩ ®¸nh gi¸ møc ®é ®ãi nghÌo ë ViƯt Nam. Hiện nay,
chúng ta đang sử dụng tiêu chí của Bộ LĐTB & XH đ-a ra từ năm 1996, ngoài ra
ch-a có hệ tiêu chí nào khác.
Từ những tiêu chí nêu trên, chúng ta càng thấy rõ đặc tr-ng kinh tế- xà hội
của hiện t-ợng đói nghèo nổi bật nhất là về mặt kinh tế. Do đó, xoá đói, giảm
nghèo tr-ớc hết và căn bản phải từ kinh tế và bằng các biện pháp kinh tế, đồng thời
không xem nhẹ các yếu tố, điều kiện xà hội và các chính sách x· héi.
I.3. VÊn ®Ị ®ãi nghÌo ë ViƯt Nam.

1.3.1. VÊn ®Ị ®ãi nghÌo.

14



Việt Nam là một n-ớc nông nghiệp lạc hậu, là một trong 40 n-ớc nghèo nhất
trên thế giới, lại liên tiếp bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy bình quân thu nhập
đầu ng-ời rất thấp. Năm 1999 là 280 USD/ ng-ời, năm 2001 là 387 USD/ ng-ời,
năm 2005 là 452 USD/ng-ời/năm, cho nên hiện t-ợng đói nghèo đang là thử thách
gay gắt ở n-ớc ta trong giai đoạn hiện nay.
ở n-ớc ta hiện nay, phân hoá giàu nghèo là một vấn đề đang nổi lên mang
tính thời sự cấp bách và đ-ợc xem là tiêu điểm của phân tầng xà hội.
Theo chuẩn đói nghèo năm 1996 của Bộ LĐTB & XH thì đến năm 1999, số
hộ đói nghèo n-ớc ta chiếm trên 17%, có khoảng 12,5 triệu ng-ời thuộc diện nghèo
đói, 90% ng-ời nghèo sống ở nông thôn chđ u tËp trung ë mét sè vïng nh- B¾c
Trung Bộ, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc...
Để khắc phục tình trạng đó trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà n-ớc ta
đà có nhiều chính sách xoá đói, giảm nghèo cho ng-ời nghèo, hộ đói nghèo với số
tiền lên tới 11.000 tỷ đồng và đầu t- chung để xây dựng 6 cơ sở cho xà nghèo là
22.000 tỷ đồng, nên đà mang lại kết quả đáng ghi nhận. Hàng năm, số hộ đói
nghèo đà giảm xng chõng 1,8 - 2%, nh-ng nh×n chung hiƯn nay mức độ và tỷ lệ
đói nghèo vẫn còn cao so với yêu cầu và mục tiêu đặt ra. Trong đó hơn 90% số hộ
đói nghèo ở nông thôn chuyên làm nông nghiệp, đặc biệt nhất là ở vùng cao vùng
sâu, vùng xa và hải đảo, nơi có điều kiện khắc nghiệt về tự nhiên, th-ờng bị thiên
tai bÃo lụt, hạn hán tàn phá, thì ở đó mức độ đói nghèo vẫn đang còn gay gắt và
vấn đề xoá đói giảm nghèo đang diễn ra một cách cấp bách.
Muốn đi sâu tìm hiểu nguyên nhân nghèo đói, phải đi sâu đi sát vào quần
chúng nhân dân, thâm nhập vào cuộc sống của họ, chứng kiến những điều "mắt
thấy tai nghe" chứ không đ-ợc "c-ỡi ngựa xem hoa" hoặc thích nghe báo cáo theo
kiểu "theo tai ng-ời nghe".
Nh- vậy, sự phân hoá giàu nghèo là một vấn đề đáng lo ngại cần phải có biện
pháp để hạn chế khoảng cách giữa giàu- nghèo và những mặt tiêu cực trong sự phân
hoá giàu nghèo, tránh xu h-ớng tạo ra bất bình đẳng trong xà hội. Do vậy chúng ta
phải khuyến khích các hộ làm giàu và ph-ơng thức làm giàu chính đáng đúng b»ng


15


sức lao động, tri thức khoa học kỹ thuật và năng lực quản lý điều hành của bản thân
mình. Hạn chế tối đa những mặt tiêu cực, đồng thời phải có chính sách phát triển
đồng bộ tạo điều kiện cho mọi ng-ời làm giàu, v-ơn lên giàu hơn, phải có sự điều
tiết thu nhập, nhằm từng b-ớc giải quyết sự chênh lệch giữa ng-ời giàu và ng-ời
nghèo, giữa miền xuôi và miền ng-ợc, giữa nông thôn và thành thị. Có nh- vËy míi
cã thĨ ®-a nỊn kinh tÕ x· héi của đất n-ớc phát triển một cách bền vững và ổn định.
Thực hiện đ-ờng lối Đổi mới của Đảng, sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn trong những năm qua có nhiều khởi sắc và đạt đ-ợc những thành tựu to
lớn. Đời sống các tầng lớp c- dân đ-ợc nâng lên cả về vật chất và tinh thần. Số hộ
giàu và mức giàu ở nông thôn tăng lên, số hộ nghèo và mức nghèo giảm xuống.
Công tác xoá đói, giảm nghèo đ-ợc Đảng và Nhà n-ớc đặc biệt quan tâm và đầu tthoả đáng, thông qua hàng loạt cơ chế, chính sách và ch-ơng trình, dự án quốc gia
và quốc tế, nên đà đạt đ-ợc những kết quả đáng khích lệ. Việt Nam đ-ợc quốc tế
đánh giá là n-ớc đi đầu trong các n-ớc đang phát triển về tốc độ xoá đói, giảm
nghèo nhanh trong những năm gần đây.
Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam, họp tại Hà Nội, tháng 12/2001, ông
A.Xtia, Giám đốc ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam đà nhận xét rất đúng rằng:
Trong thập kỷ qua, nhờ xây dựng chu đáo và nỗ lực thực hiện ch-ơng trình cải
cách, Việt Nam đà thành công hơn những n-ớc đang phát triển khác trong những
mục tiêu phát triển và xoá đói, giảm nghèo .
Tổng cục Thống kê đà tiến hành khảo sát mức sống của các hộ gia đình Việt
Nam năm 2004. Cuộc khảo sát dựa trên cơ sở những nội dung của cuộc điều tra
mức sống hộ gia đình năm 2002. Kết quả sơ bộ nh- sau:
Về thu nhập của dân c-: trong năm 2003, 2004, thu nhập bình quân 1
ng-ời/tháng chung cả n-ớc theo giá hiện hành đạt 484.000đ, tăng 36% so với năm
2001, 2002. Trong thời kỳ 2002- 2004, thu nhập bình quân/tháng theo giá trị hiện
hành tăng bình quân 16,6% cao hơn mức tăng 6% mỗi năm của thời kỳ 1999 2001 và mức tăng 8,85% mỗi năm của thời kỳ 1996- 1999. Nguyên nhân chủ yếu
làm tăng thu nhập của năm 2003, 2004 là Nhà n-ớc điều chỉnh tăng mức l-ơng tối

thiểu của khu vực hành chính sự nghiƯp vµ cđa khu vùc Doanh nghiƯp Nhµ n-íc,
16


do đó tiền công thuê ngoài xà hội cũng tăng; sản l-ợng cây trồng, đặc biệt sản
l-ợng lúa tăng, giá nông sản, thuỷ sản nh-: thóc, cà phê, cao su, điều, lợn hơi, tôm,
cá... đều tăng so với các thời kỳ tr-ớc.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế thời kỳ 2002- 2004 tăng
11%, cao hơn mức tăng thu nhập thực tế 5,8% của thời kỳ 1999- 2001 và mức tăng
4,6% của thời kỳ 1996- 1999.
Thu nhập bình quân 1 ng-ời/tháng ở khu vực thành thị đạt 795 nghìn đồng,
tăng 27,8%, khu vực nông thôn đạt 377 nghìn đồng, tăng 36,9% so với năm 20012002 và tăng nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên, thu nhập của hộ gia đình
thành thị vẫn cao hơn khu vực nông thôn ( tỷ lệ gần gấp đôi).
Theo giá hiện hành, năm 2003- 2004, thu nhập bình quân 1 ng-ời/tháng của
các vùng đều tăng khá so với năm 2001- 2002 nh-ng cũng có sự khác biệt đáng kể.
4 vùng có tốc độ tăng nhanh hơn mức bình quân chung cả n-ớc là Đồng bằng sông
Hồng (+38%); Đông Bắc (+42%); Tây Bắc (+37,1%); riêng Tây Nguyên tăng cao
nhất trong các vùng (61,1%) do giá cà phê và một số hàng nông sản tăng khá so với
năm 2002 và do tác động bởi các chính sách của Nhà n-ớc đối với vùng Tây
Nguyên.
Do thu nhập bình quân đầu ng-ời tiếp tục tăng khá, đời sống các tầng lớp cdân ở các vùng, đặc biệt tầng lớp nghèo đ-ợc cải thiện nên số hộ nghèo tiếp tục
giảm. Theo tiêu chuẩn nghèo về l-ơng thực, thực phẩm đ-ợc tính theo thu nhập
bình quân đầu ng-ời/tháng của hộ gia đình, tỷ lệ hộ nghèo trong cả n-ớc năm
2003- 2004 là 7,8% so với 9,9% năm 2001- 2002, trong đó khu vực thành thị 20032004 là 3,5% so với 3,9% năm 2001- 2002 và khu vực nông thôn năm 2003- 2004
là 8,8% so với 11,9% năm 2001- 2002.
Về chi tiêu của dân c- : Tính chung cả n-ớc chi tiêu cho đời sống năm 20032004 bình quân 1 ng-ời/tháng theo giá hiện hành đạt 370 nghìn đồng, tăng 37,5%
so với năm 2001- 2002, bình quân mỗi năm tăng 17,2%, cao hơn thời kỳ 19992002 (+10,3%) và thời kỳ 1996- 1999 (+6,6%). Nếu tính theo giá so sánh, năm
2002 là gốc, chi tiêu thực tế năm 2003- 2004 đạt 328 nghìn đồng, tăng 12,1%, ở tất
cả các vùng, chi tiêu cho đời sống bình quân 1 ng-ời/tháng tăng khá so với năm
2001- 2002.

17


Møc sèng tiÕp tơc cã b-íc chun biÕn tÝch cùc thông qua số liệu chi tiêu
cho đời sống. Theo số liệu chi tiêu qua cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình năm
2004, tỷ lệ nghèo chung cả n-ớc giảm từ 37,4% năm 1997- 1998 xuống còn 28,9%
năm 2001- 2002 và 24,1% năm 2003- 2004.
Nh- vậy, năm 2003- 2004 thu nhập của c- dân tăng khá so với năm 20012002, tỷ lệ nghèo giảm, đời sống của các tầng lớp d©n c- cã sù chun biÕn tiÕn bé.
Theo ý kiÕn tự đánh giá của 44 068 hộ đ-ợc điều tra ở 64 tỉnh, thành phố về mức
sống gia đình năm 2003- 2004 so năm 1999, có 84% hộ trả lời cuộc sống gia đình
đ-ợc cải thiện hơn, 11,2% hộ trả lời nh- cũ, 4,8% hộ trả lời giảm đi.
1.3.2. Phân hoá giàu nghèo là một xu h-ớng tất yếu của xà hội Việt Nam
hiện nay.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơn 3 thập kỷ qua, mặc dù
nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng tr-ởng kinh tế nhanh, thu nhập kinh tế quốc dân
bình quân đầu ng-ời tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng 6 lần, từ 4 000 tỷ USD
năm 1994 lên 23 000 tỷ USD năm 1996, nh-ng hố ngăn cách giữa ng-ời giàu và
ng-ời nghèo trên thế giới ngày càng sâu sắc, thu nhập của 385 nhà tỷ phú trên thÕ
giíi h¬n tỉng thu nhËp cđa h¬n 2,3 tû ng-êi nghèo nhất chiếm 45% dân số toàn thế
giới. Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% ng-ời nghèo nhất hành tinh
đà giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới, trong khi đó, phần thu nhập của
nhóm 20% ng-ời giàu nhất đà tăng lên đến 85%.
Mang những đặc ®iĨm chung cđa thÕ giíi, ë n-íc ta hiƯn nay, phân hoá giàunghèo là một vấn đề đang nổi lên mang tính thời sự cấp bách và đ-ợc xem là cái
trục trung tâm của sự phân tầng xà hội.
Theo chuẩn mực đói nghèo năm 1996 của Bộ LĐTB & XH, đến năm 1999,
số hộ đói nghèo ở n-ớc ta chiếm trên 17%, có khoảng 12,5 triệu ng-ời thuộc diện
đói nghèo, 90% ng-êi nghÌo sèng ë n«ng th«n, chđ u tËp trung ở một số vùng
nh-: Bắc trung bộ, Duyên Hải miền Trung, Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc... (Số
liệu công bố của Bộ LĐ, TB&XH, tháng 4/2000).
Sự phân hoá giàu- nghèo đ-ợc xem là một xu h-ớng tất yếu của xà hội Việt

Nam, đặc biệt là kể từ khi đất n-ớc chuyển sang phát triển nền kinh tế thị tr-ờng thì
sự phân hoá giàu- nghèo diễn ra ngày càng rõ rệt và dễ nhận thấy ở những nơi kinh
18


tế thị tr-ờng phát triển mạnh. Từ thực tế phát triển của đất n-ớc, từ những năm 60
của thế kỷ XX trở lại nay, khoảng cách giữa hộ giàu và hộ nghèo ngày càng cách
xa nhau: những năm 1960- 1970, khoảng cách giàu và nghèo là 3- 4 lần, trong
những năm từ 1980- 1990 khoảng cách đó là 6- 8 lần, nh-ng đến nay khoảng cách
là 40- 100 lần. Sự doÃng ra về khoảng cách giàu nghèo diễn ra theo xu h-ớng thu
nhập của hộ giàu tăng lên, thu nhập của hộ nghèo không theo kịp, tăng không
t-ơng xứng. Thu nhập của hộ giàu ngày càng tăng nhanh là vì họ làm ăn giỏi, sớm
thích nghi với cơ chế thị tr-ờng, do có địa vị thuận lợi trong xà hội... Trong xu
h-ớng biến động của cơ cấu xà hội ở n-ớc ta hiện nay, cùng với công cuộc đổi mới,
việc chuyển đổi từ một nền kinh tế dựa trên cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr-ờng, có sự quản lý
của Nhà n-ớc thì sự phân hoá giàu, nghèo diễn ra ngày càng rõ nét và trở thành vấn
đề nổi cộm
Từ thực tiễn đất n-ớc sau hơn 15 năm đổi mới, số hộ giàu ở n-ớc ta đà tăng
lên một cách nhanh chóng. Sự tăng lên đó là hiện t-ợng tiến bộ, phù hợp với quy
luật phát triển kinh tế của xà hội. Hộ giàu ở n-ớc ta đa số làm giàu bằng chính sức
lao động và trí tuệ của mình. ở những vùng nông thôn, hộ giàu có không phải do
chiếm đoạt ruộng đất, bóc lột địa tô, mặc dù họ vẫn thuê m-ớn lao động nh-ng
quan hệ giữa họ là quan hệ sòng phẳng, hợp tác, bình đẳng. Còn ở thành phố những
hộ giàu và cách làm giàu có sự khác hơn, ít nhiều có ảnh h-ởng đến vấn đề bóc lột
sức lao động, nh-ng chủ yếu vẫn là tạo việc làm, tăng nhanh sức lao động sản xuất,
đóng góp tích cực cho sự ph¸t triĨn kinh tÕ.
So s¸nh 10% sè hé cã møc thu nhËp cao nhÊt víi 10% sè hé cã møc thu
nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch năm 2003- 2004 là 13,5 lần. Có thể thấy rõ sự
biến động của sự phân hoá thu nhập qua bảng số liệu sau:(Bảng 1):

Năm
1996
1999
2001 - 2002
2003 - 2004

Mức chênh lệch 10% số hé cã møc thu nhËp
cao víi 10% sè hé cã møc thu nhËp thÊp
10,6
12
12,5
13,5

19


Phân hoá giàu nghèo là một hiện t-ợng có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực,
trong đó mặt tích cực vẫn là chủ yếu vì xét một cách toàn diện, cơ bản mức độ phân
hoá giàu nghèo ở n-ớc ta vẫn còn diễn ra ở mức thấp, nó gắn với sự phân phối theo
lao động, ng-ời lao động có kết quả hơn tất nhiên thu nhập sẽ cao hơn. Trong tính
hai mặt của sự phân hoá giàu nghèo, chúng ta phải có cách nhìn biện chứng để phát
huy mặt tích cực của nó với tính cách là chỉ báo sự phát triển kinh tế- xà hội và sự
phân phối theo kết quả lao động. Do vậy, cần khuyến khích làm giàu chính đáng,
nh-ng mặt khác phải hạn chế mặt tiêu cực của sự phân hoá giàu nghèo nh- là: Sự
bất bình đẳng trong xà hội; những thủ đoạn làm giàu bất hợp pháp, bất chính nh-:
tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế... hạn chế những tệ nạn xà hội. Để hạn chế mặt
tiêu cực này không những khuyến khích mọi ng-ời làm giàu chính đáng mà còn
phải mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xoá đói, giảm nghèo.
Sự phân hoá giàu nghèo về kinh tế ở n-ớc ta kéo theo sự "phân hoá" về giáo
dục, y tế, văn hoá. Hậu quả phổ biến ở khắp mọi nơi là những ng-ời giàu đ-ợc

h-ởng những thành quả của giáo dục, văn hoá, y tế của xà hội nhiều hơn ng-ời
nghèo. Điều này thể hiện rất rõ ở vùng nông thôn, miền nói tû lƯ ®ãi nghÌo chiÕm
50%, häc sinh bá häc rất nhiều vì không có tiền đóng góp các khoản nh-: học phí,
xây dựng tr-ờng, mua sách vở...; có những ng-ời ốm đau không có tiền mua thuốc
hoặc không có đủ khả năng để nằm viện.
Nh- vậy, sự phân hoá giàu nghèo là một vấn đề đáng lo ngại cần phải có
biện pháp để hạn chế khoảng cách giữa giàu, nghèo, và những mặt tiêu cực trong sự
phân hoá giàu, nghèo tránh xu h-ớng tạo ra bất đình đẳng trong xà hội. Phải có
chính sách phát triển đồng bộ tạo điều kiện cho mọi ng-ời v-ơn lên làm giàu, phải
có sự điều tiết thu nhập để từng b-ớc giải quyết sự chênh lệch giữa ng-ời giàu và
ng-ời nghèo, giữa miền xuôi và miền ng-ợc, giữa nông thôn và thành thị. Cã nhvËy míi cã thĨ ®-a nỊn kinh tÕ - xà hội của đất n-ớc phát triển một cách ổn định và
bền vững.
1.4. Nhận thức của Đảng ta về vấn đề đói nghèo.

Mỗi thời đại, mỗi xà hội đều phải giải quyết những vấn đề do các xà hội và
thời đại tr-ớc để lại, đồng thời cũng phải giải quyết những vấn đề mới nảy sinh
trong hiện tại. Trong các loại vấn đề xà hội có những vấn đề mang tính toàn cầu,
20


trong đó có vấn đề nghèo đói. Chính vì thế, ngày 17 tháng 10 hàng năm đ-ợc chọn
làm "Ngày Quốc tế vì ng-ời nghèo .
Hội nghị th-ợng đỉnh thế giới về phát triển xà hội họp ở Côpenhangien (Đan
Mạch) vào 3/1995, đà đánh dấu một sự chuyển biến lớn về nhận thức trong việc
xác định mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Trong Hội nghị, ng-ời ta đà đặt ra
hàng loạt câu hỏi bức xúc trong đó có câu hỏi: Làm sao có thể có sự phát triển xÃ
hội trong một thế giới mà ở đó ng-ời giàu thì giàu thêm, còn ng-ời nghèo thì càng
nghèo thêm? Hội nghị cũng thông qua tuyên bố và ch-ơng trình hành động đến
năm 2020, các quốc gia trên thế giới cần tập trung vào giải quyết 3 vấn đề cơ bản,
đó là các vấn đề sau đây: vấn đề việc làm, vấn đề giảm nghèo và hoà nhập xà hội

của dân c-.
Vấn đề xoá đói, giảm nghèo chẳng những có ý nghĩa đối với thế giới mà có ý
nghĩa quan trọng hơn ®èi víi c¸c qc gia bÊt kĨ qc gia ®ã theo thể chế chính trị
nào, ở bất kỳ khu vực nào, n-ớc phát triển, đang phát triển hay n-ớc kém phát triển.
Đảng ta cũng đà nhận thức đ-ợc tầm quan trọng của vấn đề xoá đói, giảm
nghèo. Trong Đại hội VII, Đảng đà chỉ ra 3 loại vấn đề xà hội ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xà hội: Tr-ớc hết, đó là loại vấn đề do lịch sử và do
hậu quả chiến tranh để lại. Thứ hai, đó là loại vấn đề nảy sinh từ nền kinh tế xà hội
lạc hậu. Thứ ba: đó là loại vấn đề mới phát sinh [5,tr143]. Nh- vậy, trong nhận
thức của Đảng, vấn đề đói nghèo đ-ợc xác định thuộc loại vấn đề xà hội thứ hai, là
một trong những vấn đề cấp bách mà khi b-ớc vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xÃ
hội chúng ta phải tập trung giải quyết.
Nghèo đói đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều là lực cản của sự
phát triển kinh tế- xà hội. Xoá đói, giảm nghèo, tiến tới "Dân giàu, n-ớc mạnh, xÃ
hội công bằng, dân chủ, văn minh" là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất n-ớc mà chúng ta đang thực hiện. Vì vậy, để từng b-ớc xoá đói,
giảm nghèo cần phải có những giải pháp đồng bộ về kinh tế- xà hội.
Chủ tr-ơng xoá đói, giảm nghèo lần đầu tiên đ-ợc đề cập trong Nghị quyết
Đại hội VII của Đảng: "Cùng với quá trình đổi mới, tăng tr-ởng kinh tế phải tiến
hành công tác xoá đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xà hội, tránh sự phân hoá

21


giàu nghèo quá giới hạn cho phép [8,tr25]. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung -ơng lần thứ V (khoá VII) đà cụ thể hoá chủ tr-ơng này: "... Phải
trợ giúp ng-ời nghèo bằng cách cho vay vốn, h-ớng dẫn cách làm ăn, hình thành
quỹ xoá đói giảm nghèo"[8,tr25]. Đồng thời, Đại hội VII cũng xác định, phải: Có
chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số, phù hợp với
điều kiện, đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc đảm bảo cho đồng bào các dân tộc

khai thác đ-ợc thế mạnh của địa ph-ơng để làm giàu cho mình và đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất n-ớc [5,tr77]. Nh- vậy, Đảng ta rất quan tâm đối
với vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số.
Tại Đại hội VIII của Đảng, vấn đề xoá đói, giảm nghèo chính thức đ-ợc xác
định là một trong những ch-ơng trình quốc gia: "Thực hiện việc lồng ghép Ch-ơng
trình xoá đói giảm nghèo với các ch-ơng trình khác, trong đó lấy Ch-ơng trình
quốc gia về giải quyết việc làm và về phủ xanh đất trống đồi trọc làm nòng cốt. Bổ
sung chính sách giúp cho ng-ời nghèo, hộ nghèo, xà nghèo tổ chức sản xuất, bảo
đảm cuộc sống đ-ợc cải thiện, tr-ớc mắt thực hiện các giải pháp: giao đất cho các
hộ nông dân nghèo ch-a đ-ợc giao đất hoặc ch-a đủ mức; vận động và giúp đỡ hộ
nông dân nghèo đến lập nghiệp ở vùng kinh tÕ míi; më réng c¸c q tÝn dơng cho
c¸c hé nghÌo vay vèn s¶n xt víi l·i st -u đÃi; đào tạo nghề miễn phí cho ng-ời
nghèo; xây dựng đội ngũ những ng-ời tình nguyện đến với ng-ời nghèo, h-ớng dẫn
họ cách làm ăn và phổ biến các biện pháp kỹ thuật, giúp đỡ ng-ời nghèo sản xuất
kinh doanh..." [9,tr100]
Đại hội IX của (2001) Đảng ta tiếp tục khẳng định quyết tâm

đấu tranh

xoá đói, giảm nghèo: "Thực hiện ch-ơng trình xoá đói, giảm nghèo thông qua
những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa ph-ơng, xoá nhanh các hộ đói,
giảm mạnh các hộ nghèo" [7,tr57]
Nh- vậy, ch-ơng trình xoá đói, giảm nghèo, đà và đang trở thành vấn đề
mang tầm chiến l-ợc quốc gia trong công cuộc xây dựng đất n-ớc. Tuy nhiên, để
chuyển thành các biện pháp cụ thể, áp dụng cho từng vùng, từng địa ph-ơng còn rất
khó khăn, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, khảo sát công phu của nhiều cấp, nhiều
ngành, của cả Trung -ơng và địa ph-ơng.
22



Trong lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch UB MTTQ Việt Nam tại Lễ phát động
Ngày vì ng-ời nghèo , Hà Nội, 17/10/2000, đà kêu gọi toàn dân: Chia sẻ khó
khăn và tự nguyện đóng góp, giúp đỡ ng-ời nghèo là tình cảm, là đạo lý của mỗi
ng-ời dân Việt Nam, là trách nhiệm của toàn xà hội, là ch-ơng trình hành động
của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể."
Cũng trong Lễ phát động, UB MTTQ cũng đà kêu gọi: Đoàn chủ tịch Trung
-ơng Mặt trận tổ quốc Việt Nam thiết tha kêu gọi các đồng bào và chiến sỹ cả
n-ớc, đồng bào Việt Nam định c- ở n-ớc ngoài, các tổ chức chính trị- xà hội, từ
thiện, nhân đạo, các nhà hảo tâm ở trong và ngoài n-ớc, các tổ chức quốc tế, hÃy
tích cực tham gia cuộc vận động: Ngày vì ng-ời nghèo để thiết thực giúp đỡ vật
chất và tinh thần cho ng-ời nghèo v-ợt khó khăn, thiếu thốn, v-ơn lên xây dựng
cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, góp phần xây dựng quê h-ơng, đất n-ớc giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh .
Đảng và Nhà n-ớc ta cũng đà đề ra Nội dung hỗ trợ trong Ch-ơng trình
xoá đói, giảm nghèo quốc gia, 2001 :
"Trợ giúp làm nhà ở
Trợ giúp cho con đi học
Trợ giúp chữa bệnh
Trợ giúp mua t- liệu sản xuất
Trợ giúp cứu đói"
Đồng thời, Đảng và Nhà n-ớc ta cũng đà đề ra hình thức ủng hộ. Có thể giúp
đỡ bằng ngày công lao động, bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ để xây dựng Quỹ vì
ng-ời nghèo các cấp; Kinh nghiệm sản xuất, giới thiệu việc làm, dạy nghề miễn
phí; hiện vật (nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, xây dựng...)
1.5. ý nghĩa của việc xoá đói, giảm nghèo đối với n-ớc ta
trong giai đoạn hiện nay.

N-ớc ta quá độ lên chủ nghĩa xà hội từ xuất phát điểm thấp, hiện tại vẫn còn
đang là một n-ớc nghèo kém phát triển. Nền kinh tế lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề. Hơn thế nữa, hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đà ảnh h-ởng

không nhỏ tới đời sống của nhân dân. Nền kinh tế n-ớc ta trong những năm 80 của
23


thế kỷ XIX bị khủng hoảng trầm trọng. Cũng chính trong thời gian đó, lòng tin của
nhân dân vào Đảng bị giảm sút.
Mục tiêu của chúng ta là Dân giàu, n-ớc mạnh, xà hội công bằng, dân chủ,
văn minh , đó cũng vừa là nội dung của sự phát triển theo định h-ớng xà hội chủ
nghĩa ở n-ớc ta, trong đó năm yếu tố luôn đi liền với nhau, không đ-ợc biệt lập,
không đ-ợc cắt khúc, mỗi thời gian phải đạt đ-ợc một trình độ cao hơn.
Công cuộc Đổi mới đà đ-a n-ớc ta ngày càng khởi sắc, nền kinh tế phát triển
triển năng động với tốc độ cao (trên 7%). Trên cơ sở những thành tựu kinh tế đà đạt
đ-ợc, Đảng ta đặc biệt chú trọng tới việc giải quyết các vấn đề xà hội. Đó chính là
một giải pháp quan trọng nhằm củng cố lòng tin của nhân dân ta với Đảng, Nhà
n-ớc và với chế độ.
Có thể nói, trong các vấn đề xà hội thì vấn đề đói nghèo đóng vai trò quan
trọng mà việc giải qut nã lµ biĨu hiƯn trùc tiÕp nhÊt, dƠ thÊy nhất bản chất của
chế độ ta, thể hiện đ-ợc tính -u việt của chế độ xà hội mà chúng ta đang ngày đêm
ra sức xây dựng. Có ng-ời ngộ nhận rằng : Giàu mạnh và văn minh thì chủ nghĩa tbản đà đạt tới lâu rồi. Nh-ng thực chất không phải. Nhiều n-ớc t- bản rất giàu có,
nh-ng nhất quyết không phải là dân giàu mà chỉ là một nhóm ng-ời giàu. D-ới
chủ nghĩa t- bản không có khái niệm Dân giàu mà chỉ có khái niệm ng-ời
giàu và đây chính là hạn chế của xà hội t- bản, của nền dân chủ t- sản. Đúng nhC. Mác đà chỉ rõ: Các nhà t- bản không thể làm giàu trên l-ng nhau mà chỉ có thể
làm giàu bằng nghệ thuật bóc lột nhân dân lao động và càng hiện đại thì nghệ
thuật càng tinh vi. Một xà hội mà nền văn minh, giàu sang chỉ là của một nhóm
ng-ời và trên cơ thể xà hội còn đầy th-ơng tích, bệnh hoạn. Chẳng hạn nh- ở
n-ớc Mỹ- một n-ớc đ-ợc coi là nơi chứa đựng những thành tựu văn minh nhất của
tiến bộ xà hội, một đất n-ớc giàu có. Nh-ng sự giàu có ấy thuộc về ai khi mà 30
triệu dân da đen hoàn toàn bị bỏ rơi, năm 1993 có tới 37,5 triệu ng-ời sống d-ớc
mức nghèo khổ, tăng 12,5 triệu ng-ời so với năm 1970, hiện nay 20% ng-ời giàu
của n-ớc Mỹ chiếm tới 85% tổng số tài sản của n-ớc Mỹ. Richard Bergerron trong

tác phẩm: Phản phát triển, cái giá phải trả của chủ nghĩa tự do đà viết: Xà hội
Mỹ đà làm cho những ng-ời nghèo của họ nghèo thêm và làm cho những ng-ời
24


giàu của họ giàu thêm, và phân cực giàu- nghèo rõ rệt hơn Và : Trong các nền
văn minh đ-ợc coi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển
thảm hại về văn hoá, trí nÃo, đạo đức và tình ng-ời [26,tr223;308].
X-a kia mối quan hệ dân giàu, n-ớc mạnh đ-ợc coi là mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Ngày nay, khái niệm dân giàu, n-ớc mạnh cũng cần phải làm rõ. Có
những n-ớc mạnh về kinh tế- dùng kinh tế n-ớc mình để khẳng định chủ quyền
quốc gia, chi phối các n-ớc khác. Có n-ớc lại dùng tiềm lực quân sự hùng mạnh để
đe doạ thế giới, đồng thời m-u cầu quyền lợi kinh tế cho quốc gia mình. Nh-ng tất
cả các việc làm đó chỉ mang lại quyền lợi cho một bộ phận tầng lớp trên của xÃ
hội, còn đại đa số nh©n d©n vÉn sèng d-íi møc nghÌo khỉ.
X· héi XHCN mà chúng ta đang ra sức phấn đấu, xây dựng là một xà hội
hơn hẳn xà hội t- bản về bản chất. Bác Hồ đà chỉ ra mục đích của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân mà chúng ta xây dựng:
Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân đ-ợc học hành
Đảm bảo nhu cầu vật chất cho nhân dân là mục tiêu đầu tiên, cơ bản và lâu
dài của Đảng, Nhà n-ớc ta. Xoá đói, giảm nghèo còn là một biện pháp quan trọng
để cùng cố lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng, đối với Nhà n-ớc, là yếu tố
Khoan th- sức dân để từ đó kiếm gốc rễ lâu bền, phát huy sức mạnh của nhân
dân, xây lầu thắng lợi của CNXH trên nền nhân dân .
Thực hiện các giải pháp xoá đói, giảm nghèo cùng là để thực hiện nền dân
chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mang lại cuốc sống ấm no, đầy
đủ cho nhân dân, đ-a nhân dân tham gia vào mọi mặt của đời sống xà hội.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới sự công bằng xà hội.

Ng-ời cho rằng, công bằng là nền tảng cho sự yên dân. Luận điểm này đ-ợc thể
hiện trong câu nói nổi tiếng: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên . Nh- vËy, trong t- t-ëng Hå ChÝ Minh, vÊn đề
công bằng xà hội là một vấn đề đáng quan tâm. Xoá đói, giảm nghèo tiến tới giảm

25


×