Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ trong dạy học đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.71 KB, 16 trang )

1

CHUYÊN ĐỀ: Sử dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ trong dạy
học đại học
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích xu thế và vai trị của ứng dụng cơng
nghệ trong dạy học hiện nay.
Trả lời:
I. XU THẾ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG DẠY HỌC
1. Bối cảnh lịch sử
Trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng 4.0, công nghệ thông
tin (CNTT) sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản và tồn diện, có hệ
thống và mang tính hội nhập cao. Sự bùng nổ và phát triển về công nghệ giáo
dục sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển của nền giáo dục mang tính chuyển đổi sâu sắc vì con người. Quá
trình này dẫn đến sự cần thiết phải nhìn nhận lại giá giá trị và ý nghĩa của việc
dạy học dưới góc độ mối quan hệ giữa sự phát triển của công nghệ và những
thay đổi về bản chất của quá trình thực thi các chương trình giáo dục.
Vấn đề định hướng chiến lược, định vị bản chất thực của giáo dục càng trở
nên cấp thiết: cần phải đào tạo, hình thành và phát triển những con người của xã
hội, cho xã hội và vì sự phát triển của xã hội. Một hệ thống nội dung thiếu sự gắn
kết trực tiếp với đời sống xã hội, quá hàn lâm, kinh viện, bỏ qua những thứ đang
hiện hữu trong cuộc sống sẽ là những rào cản trong quá trình đào tạo ra những
con người của xã hội hiện nay.
Báo cáo tại Diễn đàn kinh tế thế giới 2016 tại Davos với sự tham gia của
hơn 2500 nhân vật ảnh hưởng và quyền lực nhất thế giới đã chia sẻ con số đáng
suy ngẫm: 65% số người học vẫn học những thứ liên quan đến nghề nghiệp
tương lai mà hiện nay đã khơng cịn tồn tại; 47% nghề nghiệp hiện nay sẽ được
chuyển sang tự động hóa trong 2 thập kỉ tới và đến năm 2020, hơn 50% nội
dung dạy học trong nhà trường các cấp sẽ khơng cịn hữu dụng trong vịng 5
năm sau đó. Những sự thay đổi mang tính thách thức tồn cầu hiện nay đang
chịu tác động của 4 nhóm yếu tố: tác động xã hội; hành động chiến lược; tài


năng và nhân lực lao động; tác động công nghệ. Cũng trong báo cáo này, Tổ
chức Deloitte Consulting đã chỉ rõ 7 nhân tố đột phá (disruptors) sẽ xuất hiện
trong tương lai gần, bao gồm: sự xuất hiện của công nghệ khắp mọi nơi; cơn bão
dữ liệu; sự da dạng và thay đổi nhanh chóng của lớp người thế hệ trẻ; sự thay
đổi nhanh chóng về bản chất của nghề nghiệp; trí tuệ nhân tạo, máy tính biết
nhận thức và robot; tự động hóa trong cơng việc; và sự bùng nổ đội qn lao
động làm công việc ngẫu nhiên.


2

Khơng phải ngẫu nhiên khi trong lộ trình tìm kiếm những khả năng dung
hòa các yêu cầu của xã hội với năng lực đáp ứng của nhà trường, cơ hội học tập
được cung cấp và yêu cầu phát triển cá nhân, công nghệ luôn được ưu tiên lựa
chọn như một giải pháp “đặt cược niềm tin”! Trong bối cảnh hiện nay, các thành
tố cấu thành nên một quá trình giáo dục, nền giáo dục cần được nhìn nhận trong
mối quan hệ biện chứng giữa sự tích lũy, làm giàu và chia sẻ thông tin, kiến thức
phục vụ cho các “công dân số”. Do vậy, sự can dự của CNTT là điều tất yếu để
giải quyết “nhóm mâu thuẫn chính” ngày càng sâu sắc giữa:
- Sự gia tăng và dịch chuyển dân số, năng lực nghề nghiệp mới, khả năng
thích ứng trước sự thay đổi cơng việc nhanh chóng (với số lượng việc làm mất
đi và xuất hiện trong thời gian rất ngắn, tần suất cao)…với quá trình giáo dục
cho mọi người, cho mỗi người và học tập suốt đời;
- Sự công bằng trong tiếp cận và nhu cầu đa dạng, không giới hạn về giáo
dục, tiếp cận tri thức mới;
- Tính cạnh tranh về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực (cơng dân
số);
- Q trình sản xuất của cải và “sản sinh” tri thức; những yêu cầu về năng
lực mới của người học và sự đáp ứng của các thiết chế giáo dục, đào tạo…
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định “giáo dục là quốc

sách hàng đầu...; đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển”. Để phù
hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội trong thời kỳ cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, nhất thiết phải đổi mới căn bản các quá trình giáo dục
theo hướng ứng dụng các cơng nghệ mới, phát huy tính tích cực chủ động của
người học để nâng cao chất lượng giáo dục. Tinh thần đó đã được gợi mở và thể
hiện xuyên suốt 7 quan điểm chỉ đạo về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo của trong Nghị quyết TW8, khóa XI của BCH TƯ Đảng (Nghị quyết
29).
2. Các xu thế công nghệ trong giáo dục hiện nay
Tiếp cận giáo dục, dạy học thông minh được nhắc đến từ những năm
đầu thế kỉ XXI và ngày càng được nghiên cứu và phát triển theo các mơ hình
đa dạng, trong đó nhấn mạnh đến sự chuyển đổi từ cách dạy học truyền thống
sang một phương thức mới theo tiếp cận cơng nghệ với các mơ hình dạy học
phi truyền thống.
Về tổng thể, giáo dục thông minh được hiểu là “sự tích hợp tồn diện
cơng nghệ, khả năng tiếp cận và kết nối mọi thứ qua Internet bất cứ lúc nào và ở
đâu”; cần phải thực hiện đồng bộ, toàn diện mọi mặt dựa trên nền tảng ứng dụng


3

CNTT, bao gồm: lớp học thông minh, môi trường thông minh, người dạy thông
minh, khuôn viên thông minh, nhà trường thông minh. Việc đánh giá hoạt động
giáo dục thông minh được dựa trên các tiêu chí như sự sẵn sàng chấp nhận và
thích ứng cơng nghệ, các chỉ số xác định về ứng dụng công nghệ, mức độ “thông
minh” của các tác vụ, hoạt động trong lớp học, nhà trường, trang bị hạ tầng cơ
sở vật chất.
Trong mơ hình giáo dục thông minh các thành tố được thiết lập theo một
hệ thống chỉnh thể, có tác động tương hỗ, thúc đẩy chất lượng và hiệu quả của
quá trình giáo dục. Với các thành tố bao gồm: tự định hướng; tạo động lực; tính

thích ứng cao; các nguồn lực, tài nguyên, học liệu mở rộng; dựa trên nền tảng
công nghệ; khuyến khích sự tham gia; sự phù hợp. Mơ hình này có thể tác động
mạnh vào q trình giáo dục theo những chiều hướng sau:
- Sự thay đổi trong kì vọng của người học và khả năng đáp ứng của các
nhà trường (khả năng thích ứng, có việc làm và tự tạo việc làm sau tốt nghiệp;
khả năng duy trì và phát triển chuyên môn nghề nghiệp; cơ hội học tập suốt
đời…);
- Sự đa dạng hóa các “sản phẩm giáo dục”, quá trình đảm bảo và nâng cao
chất lượng giáo dục nhờ cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi giá trị trong giáo
dục;
- Sự thay đổi trong mối quan hệ, vai trị, vị trí của người dạy và người học
trong quá trình dạy học, trong hệ sinh thái giáo dục;
- Sự thay đổi của môi trường dạy học, khuôn viên học tập với các dạng
học liệu đa chức năng;
- Sự thay đổi các mơ hình quản lí, điều hành trong giáo dục, dạy học trên
nền tảng kĩ thuật số mới.
Về bản chất, với sự trợ giúp của công nghệ mới, giáo dục thông minh cần
phải tạo được một phương thức hồn tồn khác với giáo dục mang tính đại trà,
“đồng phục”, hướng đến sự phân hóa, cá thể hóa và cá nhân hóa cao độ. Hệ
thống kết nối con người - thơng tin - vật thể, máy móc tạo thành một chuỗi liên
kết trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao cơng nghệ, thúc đẩy q trình
chuyến đổi thiết chế giáo dục thành một hệ sinh thái đổi mới và sáng tạo. Như
vậy, thay vì cung cấp kiến thức, nội dung dạy học theo chương trình cứng nhắc,
các nhà trường nên đào tạo kĩ năng, ươm tạo tài năng, phát triển tầm nhìn cho
người học, với mơ hình “một người học, đa chương trình, đa khn viên”.
Trong bối cảnh đó có thể nhìn nhận giáo dục như là một q trình cơng
nghệ, sản phẩm cơng nghệ có thể đóng gói, chuyển giao và như là một q trình


4


ứng dụng, thẩm thấu các thành tựu của lĩnh vực công nghệ khác.
2.1. Nền tảng số cho giáo dục (Digital education platform)
Năm 2012, UNESCO đã khuyến cáo về xu thế và khả năng giáo dục vượt
ra khỏi những bức tường lớp học và nhà trường truyền thống để vươn tới một
không gian giáo dục “suốt đời” và “hướng vào cuộc sống”, tạo công bằng, cơ
hội tiếp cận giáo dục cho mọi người. Cách tiếp cận này đã gợi mở cho hàng loạt
các hình thức giáo dục/dạy học mới (chính thức hoặc khơng chính thức trên nền
tảng chia sẻ kiến thức và mang tính xã hội sâu rộng), được đặt trong một phạm
trù khái quát là giáo dục số, bao gồm một số nền tảng chính:
- E-learning (Electronic learning): Dạy học điện tử với khả năng tổ chức
các không gian giáo dục, học tập mở, khả năng tương tác mạnh mẽ giữa các chủ
thể tham gia và thông tin kiến thức.
- M-learning (Mobile learning): Dạy học linh hoạt với khả năng đáp ứng
tối đa các nhu cầu học tập, phát triển cá nhân.
- U-learning (Ubiquitous learning): Dạy học linh hoạt tức thời (just in
time) với khả năng đáp ứng, chia sẻ nhanh chóng tại bất kì thời điểm, khơng
gian, địa điểm nào với bất kì nhu cầu học tập nào của người học.
- Hệ thống khóa học trực tuyến mở rộng (Massive Online Open Courses MOOCs), hệ thống khóa học đặc thù riêng cho cá nhân (Small Private Online
Courses - SPOCs): là một nền tảng các khóa học trực tuyến miễn phí đáp ứng tối
đa nhu cầu học tập theo năng lực, sở thích và điều kiện hồn cảnh cá nhân; tăng
cơ hội tiếp cận và sự tham gia của người học theo phương thức giáo dục mở và
trực tuyến.
Các hạ tầng của giáo dục số trong bối cảnh ứng dụng kết nối vạn vận trên
nền tảng Internet (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây hiện nay đã
mang lại nhiều cơ hội và khả năng to lớn giúp cho việc tái tạo, sản sinh tri thức,
chia sẻ thông tin, “san bằng” các rào cản trong việc tiếp cận kiến thức. Đặc biệt,
cùng với sự phát triển của công nghệ, giáo dục số sẽ dần trở thành một “hình
thái quan hệ học tập mới” làm thay đổi mơ hình dạy học vốn tồn tại khá lâu theo
hệ hình từ trên xuống (Top - Down) hoặc dưới lên (Bottom - Up) sang hệ hình

mạng lưới, mang tính chia sẻ xã hội (Social sharing) trong đó, người học sẽ trở
thành trung tâm của mạng lưới học tập mang tính xã hội.
2.2. Người học số (Digital learner)
Cùng với các cơ hội tiếp cận công nghệ mới trong giáo dục, người học
ngày càng trở thành “trung tâm của việc học của chính họ”, tự do hơn trong định


5

hướng và lựa chọn nội dung theo nhu cầu và q trình học tập, do đó, càng
mang dấu ấn “cá nhân hóa” một cách đậm nét hơn. Mặt khác, cơng nghệ cũng
hỗ trợ và cho phép bất kì người học nào cũng có thể tìm kiếm, đóng góp, chia sẻ,
xử lí dữ liệu, biến họ trở thành “người đồng sáng tạo ra tri thức mới” để đóng
góp vào “trí thơng minh của số đơng”. Theo xu hướng này, q trình dạy học
ngày càng hướng đến người học mạnh mẽ, được chuyển hóa định hướng theo
các nhánh:
- Dạy học chính thức theo chương trình được xác lập (bao gồm cả dạy học
trực tiếp và trực tuyến);
- Dạy học theo định hướng cá nhân (các nội dung và hình thức đáp ứng
nhu cầu riêng của cá nhân, định hướng bởi năng lực, tốc độ, sở thích của cá
nhân…);
- Dạy học theo định hướng nhóm bên trong một thiết chế tổ chức cụ thể
(ví dụ, một lớp học, trong nhà trường…) và nhóm mạng lưới (đáp ứng các nhu
cầu của nhóm mạng lưới bên ngoài tổ chức);
- Dạy học ngẫu nhiên (học cái gì, học ở ai, vào bất cứ thời điểm nào theo
nhu cầu cá nhân, “ngẫu nhiên, tình cờ”).
Quá trình số hóa và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục số thúc đẩy mạnh
mẽ việc sản sinh nội dung tri thức, biến các nội dung dạy học theo những định
dạng thông thường trước đây thành các gói siêu dữ liệu (Meta-data), “nội dung
di động” (Mobile/potable content) bằng các phương thức khác nhau (trên nền

tảng trực tuyến) đáp ứng nhu cầu của xã hội thơng tin.
Trong q trình tự định hướng học tập, lựa chọn các nội dung phù hợp
theo nhu cầu, phong cách học, sở thích và định hướng nghệ nghiệp của cá nhân,
người học số sẽ lựa chọn các thiết bị di động cầm tay (wearable devices) phù
hợp, có khả năng tương tác đa diện, đa chiều, đa đối tượng; sử dụng các Apps
giáo dục (ứng dụng chạy trên nền tảng thiết bị di động) để kết nối dễ dàng với
cơ sở dữ liệu lớn, các nguồn học liệu số đa định dạng (game học tập, mô phỏng,
3D tương tác, E-book tương tác, video tương tác 3600…).
Hiện nay, tiếp cận dạy học cho phép sử dụng thiết bị cầm tay trong lớp
học đang là xu hướng phổ biến hiện nay trong giáo dục trên thế giới. Máy tính
bảng, máy tính xách tay, thiết bị kết nối thông minh (bảng, thiết bị dạy học thông
minh) cho phép người học sử dụng các nền tảng điện toán đám mây, hạ tầng
Web… để dễ dàng chia sẻ, tương tác trong học tập, thay thế các công cụ thiết bị
dạy học truyền thống (bảng, sách, tài liệu in, đồ dùng thiết bị dạy học trực quan
…).


6

2.3. Người dạy số (Digital teacher/educator)
Ứng dụng các công nghệ mới hiện nay, người học có thể kết nối với các
nguồn thông tin đa dạng về lĩnh vực, phong phú về định dạng, vượt ra khỏi
khn viên vật lí của nhà trường. Điều này đặt thêm yêu cầu mới bổ sung vào hệ
thống chức năng nhiệm vụ của người dạy/nhà giáo dục: “nhà kết nối”, nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả và đánh giá xác thực các quá trình giáo dục bằng
giải pháp công nghệ số. Đây cũng cơ hội và thách thức đối với các cơ sở đào tạo
giáo viên thế hệ mới, những người sẽ phải làm chủ các công nghệ giáo dục.
Trên nền tảng công nghệ, người dạy thực hiện vai trò kết nối tức thời (just
in time) người học với nguồn dữ liệu, học liệu, kết nối cộng đồng người học với
nhau, các chủ thể liên quan và với các môi trường học tập mới (thực-ảo) giàu

tính trải nghiệm. Đồng thời chính “thầy giáo số” cũng là người sẽ hỗ trợ người
học tiếp cận, chấp nhận và truyền cảm hứng cho người học để sử dụng cơng
nghệ, xóa bỏ hội chứng sợ cơng nghệ trên các nền tảng kết nối số, dạy học trực
tuyến, dạy học hỗn hợp, dạy học đảo ngược, tương tác thông minh qua các Apps
ứng dụng… Mặt khác, để thực hiện vai trò kết nối số, người dạy cần liên tục học
hỏi, tiếp cận, cập nhật và quản lí được các nhóm giải pháp cơng nghệ giáo dục
(theo thống kê, hiện có khoảng 4 lĩnh vực, hơn 30 nhóm giải pháp lớn với hơn
2000 cơng cụ hỗ trợ dạy học. Đó là chưa kể đến hàng ngàn Apps dạy học liên
tục được cập nhật, bổ sung và phát triển).
Việc xuất hiện xu hướng sử dụng các Apps hỗ trợ học tập với tư cách là
“nhà giáo ảo”, sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big
Data), kết nối Internet vạn vật (IoT), máy học, học sâu, Robot dạy học…Các
giải pháp này không chỉ nới rộng không gian, cơ hội, làm tăng chất lượng học
tập cho người học mà còn hỗ trợ mạnh mẽ cho “người dạy số” trên các phương
diện: tổ chức quá trình dạy học (trong các thiết chế giáo dục chính thức, khơng
chính thức và phi chính thức, thu hút sự tham gia, cung cấp các dịch vụ học tập
đa dạng, quản lí và đảm bảo chất lượng…
2.4. Học liệu số (Digital learning resources)
Cùng với sự bùng nố hiện nay của công nghiệp nội dung số, lĩnh vực giáo
dục nói chung và phát triển học liệu số nói riêng đang đứng trước cơ hội phát triển
mạnh mẽ. Các nguồn dữ liệu thông tin, nội dung kiến thức giáo dục đầu vào được
số hóa (thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ) và chuyển giao qua công cụ số nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về “đa giác quan hóa” và tương tác mạnh cho
người học. Được phát triển trên nền tảng, công cụ số theo nguyên tắc giàu nội
dung, đa định dạng, tương tác mạnh, tái sử dụng, dễ tiếp cận, tra cứu, chia sẻ và
đóng góp… học liệu số dần trở thành mục tiêu, phương tiện hữu hiệu trong các quá


7


trình giáo dục.
Khơng chỉ dừng lại ở việc “số hóa văn bản” hay “học liệu mở” như trước
đây, các ứng dụng “game hóa” tăng cơ hội nhập vai và nhúng người học vào các
môi trường thực-ảo để giải quyết vấn đề; mơ phỏng thực tế 3D, hoạt hình, tạo
ảnh, tạo video, bài giảng bằng trí tuệ nhân tạo, E-book tương tác…đã giúp học
liệu số khơng chỉ cịn thuần túy cung cấp thơng tin, nội dung học tập mà cịn tạo
khả năng tương tác mạnh với những nội dung đó cho người học.
2.5. Môi trường học tập số (Digital learning environment)
Việc áp dụng các nền tảng số trong giáo dục tạo ra các cơ hội để kết nối
hạ tầng trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá trình giáo dục và đào tạo; tăng khả
năng tương tác và sự linh hoạt cho người học trong không gian và thời gian
thực-ảo, môi trường học tập thực-ảo dựa trên nền tảng số.
Quá trình tương tác của người học với các sản phẩm của trí tuệ nhân tạo,
ứng dụng Robot trong dạy học, cơng nghệ nhận diện khuôn mặt), tâm trắc, nhận
diện cảm xúc… sẽ tạo ra các cơ hội tiếp cận thông tin mới mẻ, đa dạng và hiệu
quả hơn đối với học tập cá nhân hóa.
Trong thời gian tới, cơng nghệ trong giáo dục được dự báo là sẽ tiếp tục
tạo nên những tiền đề thuận lợi để tổ chức các quá trình giáo dục mới về chất
theo những xu hướng sau: Tăng tính tương tác cá nhân hóa cao độ trong tổ chức
hoạt động với người học với các “gói” nội dung mở, linh hoạt; Tăng cơ hội, lịch
trình, thời gian, không gian học tập mở, lớp học/môi trường học tập ảo; Tạo
chuỗi giá trị và gắn kết cao giữa cộng đồng người học với đơn vị đào tạo (kể cả
trường hợp sau khi tốt nghiệp), đơn vị tuyển dụng; Tạo dựng chuỗi liện kết, hệ
sinh thái giáo dục đổi mới và sáng tạo.
II. VAI TRỊ CỦA ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ TRONG DẠY HỌC
HIỆN NAY
Qua những phân tích về xu thế giáo dục hiện đại một lần nữa ta phải
khẳng định một điều là vai trò của việc ứng dụng khoa học cơng nghệ vào đời
sống nói chung và trong lĩnh vực giáo dục nói riêng vơ cùng to lớn. Vai trị đó
được thể hiện ở những khía cạnh chính sau đây:

1. Ứng dụng cơng nghệ vào giảng dạy có vai trò thúc đẩy giáo dục
mở, giúp hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao hơn
Công nghệ thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông
tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về
thời gian. Từ đó con người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức và tư


8

duy. Chương trình giáo dục mở giúp con người trao đổi và tìm kiếm kiến thức
một cách hiệu quả. Học và dạy hiện đại yêu cầu cần phải tiếp cận một vấn đề từ
nhiều nguồn thông tin khác nhau, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, qua đó người
đọc có được cái nhìn phổ qt, có cơ hội đào sâu kiến thức, tìm ra được bản chất
cốt yếu, nguyên nhân sâu xa của vấn đề, góp phần nâng cao kiến thức, thay đổi
tư duy, điều này gián tiếp giúp cho công tác học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao
hơn. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp người học, người
dạy kết nối với kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong khoảng thời gian nào.
2. Người dạy và học dễ dàng thu thập, tổng hợp, lưu trữ được lượng
kiến thức phong phú đa dạng và được cập nhật thường xuyên
Với giáo dục truyền thống, sinh viên tiếp nhận kiến thức chủ yếu từ sách
vở, giáo trình và ngồi nghe giáo viên giảng trên lớp thì hiện nay, nguồn kiến
thức đa dạng này được cung cấp trực tuyến qua kết nối internet, chúng ta có thể
tìm thấy hàng nghìn hàng triệu kết quả tra cứu sau một cú click chuột. Công
nghệ giúp truy cập tức thời tới các nguồn tri thức, từ kiến thức phổ thơng tới tri
thức học thuật đều có thể dễ dàng tìm kiếm và áp dụng trong các quy trình giảng
dạy thông qua các hệ thống tra cứu của thư viện, các máy tìm kiếm (search
engines) như Google Search, Google Scholars, Google Books, các cơ sở dữ liệu
học thuật như Scopus, các mạng xã hội học thuật như Academia, Resarch Gates,
… Trong giáo dục hiện đại, người dạy là người truyền thu kiến thức cơ bản, cốt
lõi, đóng vai trị là người hướng dẫn người học cách thức khai thác thơng tin dồi

dào, đa chiều từ Internet. Điều này đóng một vai trị to lớn trong q trình đổi
mới giáo dục giúp cá nhân hóa học tập, rèn luyện, nâng cao tinh thần học tập
chủ động, học tập đi đôi với thực tiễn, nhằm phát huy tối đa tính sáng tạo của
mình.
3. Mang lại sự tiện lợi bởi khơng gian và thời gian học tập nghiên cứu
linh động
Người học có thể tự học ở mọi lúc (bất kể thời gian nào được cho là phù
hợp với từng cá nhân), mọi nơi (bất kể nơi nào miễn có kết nối internet với
chương trình trực tuyến, hoặc có thể lưu lại để học trên máy tính, điện thoại (khi
khơng có kết nối internet). Ứng dụng công nghệ cho phép tất cả mọi người có
thể tham gia thảo luận một vấn đề nào đó (hội thảo, hội nghị, họp,…) mà khơng
cần phải tập trung tại một địa điểm, không phải ở cùng 1 quốc gia, qua đó góp
phần tạo ra một xã hội học tập rộng lớn mà ở đó, người học có thể chủ động học
tập, trao đổi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm suốt đời.
4. Vai trò trong việc thúc đẩy phát triển năng lực cá nhân


9

Với sự thuận tiện cho việc học ở mọi lúc mọi nơi, ứng dụng công nghệ sẽ
tạo cơ hội cho người học có thể lựa chọn những vấn đề mà mình ưa thích, phù
hợp với năng khiếu, sở thích, từ đó phát triển theo thế mạnh của từng người.
Chính điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các tài năng. Chương trình học sẵn
có, học liệu mở phong phú khiến cho việc tra cứu dễ dàng sẽ gián tiếp thúc đẩy
các cá nhân chủ động trang bị thêm nhiều những kiến thức mới, lấp đầy những
lỗ hổng, kích thích tìm tịi, khám phá và sáng tạo. Bên cạnh đó, với công nghệ
phù hợp, hấp dẫn nên dễ dàng gắn kết người học. Các thiết bị như máy tính, máy
tính bảng, điện thoại thơng minh có kết nối Internet đều là những cơng cụ mà
người học có thể sử dụng ở nhà hay bất cứ đâu ngay cả trên đường di chuyển.
Do đó, người học sẽ thoải mái và tích cực hơn khi dùng các công cụ này để kết

nối với bạn học, thầy cô và với nhà trường. Sử dụng công nghệ trong lớp học
giúp người học dễ dàng biểu thị mối quan tâm, sự chú ý, những mong đợi và
thái độ tích cực với việc học, qua đó nâng cao chất lượng dạy và học.
5. Vai trò trong việc nghiên cứu, chuyển giao KHCN
Việc ứng dụng công nghệ thơng tin nói chung trong quản trị hoạt động
nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ trong các trường đại học bao gồm
các nội dụng cơ bản như: Ứng dụng trong quản trị việc đăng ký và cấp mã số
các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ; Ứng dụng trong quản trị hoạt động
nghiên cứu khoa học của chủ thể nghiên cứu khoa học; Ứng dụng trong quản trị
đầu ra của sản phẩm nghiên cứu khoa học; Ứng dụng trong quản trị và bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, các trường đại học, làm tốt việc ứng dụng công
nghệ trong quản trị hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học cơng nghệ,
sẽ góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ cho người làm cơng tác nghiên cứu khoa học, qua đó cũng nâng tầm vị
thế, khẳng định được thương hiệu, xây dựng được hình ảnh của các cơ sở giáo
dục đào tạo.
6. Đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân
lực, thích ứng nhanh với công việc trong tương lai
Xu hướng giáo dục và đào tạo ngày nay là đào tạo đi đôi với sử dụng, dạy
nghề đi đối với hướng nghiệp ngày càng trở nên phổ biến đối với các trường đại
học ở trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc người học được tiếp
cận những ứng dụng công nghệ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ giúp
rèn luyện những kỹ năng thực hành, làm việc trong mơi trường cơng nghệ, khi
ra trường sẽ sớm hịa nhập với mơi trường làm việc mới địi hỏi những kỹ năng
cũng như hiểu biết nhất định về công nghệ. Trên thực tế không chỉ dừng ở kỹ
năng số, người học còn được rèn kỹ năng mềm, tư duy phản biện, khả năng


10


nghiên cứu độc lập, và thành thạo trong phối hợp sử dụng cơng nghệ nên nhanh
chóng đáp ứng được những đòi hỏi cấp thiết của thực hiễn thực hành nghề
nghiệp. Do đó, việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giáo dục có tác động
trực tiếp đến nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp, tạo điều kiện
mở rộng hợp tác lao động. Việc hợp tác lao động trên thị trường, sẽ tạo sự liên
kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - người học, mang lại lợi ích cho tất cả các
các bên: Đối với người học, được cam kết tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp.
Đối với nhà trường, sẽ nâng cao thương hiệu, uy tín và vị thế trên thị trường
giáo dục, đồng thời ngày càng thu hút được người học. Đối với doanh nghiệp,
mơ hình này sẽ giúp họ chủ động nguồn nhân lực được đào tạo bài bản theo
đúng yêu cầu của doanh nghiệp.
Như vậy, ứng dụng công nghệ trong giảng dạy và học tập hay nói cách
khác việc đổi mới chương trình đào tạo theo hướng cập nhật các công nghệ tiên
tiến, hiện đại sẽ là nền tảng để cung ứng được nguồn nhân lực dồi dào có chất
lượng cao cho nền kinh tế thị trường hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Quý Thanh, Tôn Quang Cường, (2020). Những xu thế mới
của công nghệ trong giáo dục. Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
[2] Nguyễn Văn Hiền. Các xu hướng ứng dụng CNTT trong dạy - học, lý
thuyết và vận dụng trong đào tạo giáo viên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Câu 2: Anh/ chị hãy trình bày nguyên tắc thiết kế bản trình bày bài
giảng trên các phần mềm hỗ trợ trình chiếu như PowerPoint… Anh chị hãy
nêu ưu điểm/ nhược điểm của việc sử dụng bài trình chiếu trong dạy học trên
lớp.
Trả lời:
1. Nguyên tắc thiết kế bản trình bày bài giảng trên các phần mềm hỗ
trợ trình chiếu
Khác với các phương tiện cơng nghệ dạy học truyền thống như bảng, vật
mẫu, tranh ảnh, Tivi, video, máy cassette (chỉ sử dụng một chiều hay hai chiều),

có thể coi bài giảng điện tử như một đa phương tiện cho phép làm trung gian
giao tiếp giữa người dạy với người học và nội dung tri thức. Xem sơ đồ:


11

1.1. Ngun tắc 1: Mơđun hóa, liên kết hóa nội dung
Nội dung của bài giảng điện tử cần được thiết kế theo ý đồ sư phạm rõ
ràng, có cấu trúc khoa học, hợp lý, phù hợp với các hoạt động bộ phận của quá
trình dạy học. ăn cứ vào mục tiêu và đặc thù nội dung môn học (bài học, chương
học) có thể xây dựng các liên kết chéo (siêu liên kết) giữa nội dung cục bộ của
các môđun khác nhau.
1.2. Nguyên tắc 2: Tính tương tác với nội dung dạy học
Các văn bản được số hóa, hình ảnh, âm thanh, biểu đồ, ký hiệu, phần mềm
mơ phỏng, thí nghiệm ảo... chứa đựng nội dung dạy học được tích hợp theo ý đồ
sư phạm trong bài giảng điện tử sẽ tạo ra cơ hội giúp người học trở thành chủ
thể tích cực trong chính q trình dạy học. Khối lượng kiến thức và kỹ năng thu
được ở người học sẽ tương ứng với mức độ tích cực, chủ động, sáng tạo của
chính chủ thể hành động. Mặt khác, mỗi người học sẽ có cơ hội lựa chọn cho
mình khối lượng nội dung, tốc độ học tập phù hợp (ví dụ, với một bài giảng,
người học có thể tham gia hay thao tác với số lần không hạn chế, việc chọn lựa
nội dung khơng nhất thiết phải theo trình tự bắt buộc ...).
1.3. Nguyên tắc 3: Đa phương tiện hóa (Multimedia) trong trình bày
nội dung
Sử dụng Multimedia trong xây dựng bài giảng điện tử sẽ giúp kích thích đa
giác quan trong q trình tiếp nhận, lưu giữ và xử lý thơng tin, tăng sự chú ý,
hứng thú và quan tâm ở người học (ví dụ, một nội dung dạy học có thể được thể
hiện dưới nhiều hình thức nhau: văn bản, hình ảnh, biểu đồ, video clip, hoạt
hình...).
Học thuyết sư phạm tương tác (M. Roy & J. M. Denomme, 2005) chứng

minh rằng mỗi người đều có một bộ máy học (cũng giống như có bộ máy hơ
hấp, tuần hồn, tiêu hóa...), có một cơ chế vận hành việc học của mình theo một
cách riêng. Do vậy, nhờ đa phương tiện, người học có thể chiếm lĩnh các nội
dung dạy học thơng qua nhiều kênh giác quan khác nhau, phù hợp với những
đặc điểm riêng của bản thân về tâm sinh lý, nhu cầu, sở thích.


12

Phạm vi tiểu luận, xin chia sẻ nguyên tác thiết kế bài giảng bằng
PowerPoint mà bản thân tự xây dựng, áp dụng cho các bài giảng điện tử của
mình, cảm thấy mang lại hiệu quả:
Về nội dung thông tin: chỉ đưa những thơng tin ngắn gọn, những từ khóa
quan trọng vào slide, không đưa tất cả các thông tin cần trình bày với học viên.
Về cách thể hiện nội dung bài dạy:
- Chữ viết: Bản thân thường chỉ sử dụng font chữ VNI-Helve-Condense
với chiều cau 24mm, luôn hạn chế sử dụng chữ in hoa.
- Độ tương phản: Bản thân thường sử dụng dạng nền sáng, chữ tối để bảo
đảm cho lớp học sáng, học sinh có thể ghi chép tốt. Chỉ sử dụng không quá 3
mầu: màu xanh, màu vàng và màu đỏ.
- Xác định vùng hiển thị thông tin quan trọng, thường bố trí dạng như sau:
41%

20%

25%

14%

- Sử dụng hoạt hình các đối tượng trong slide hoặc nhấn mạnh các thông

tin trong slide theo dạng: xuất hiện; nhấn mạnh;biến mất và chuyển động tới một
vị trí mới.
Về cấu trúc ý tưởng thiết kế: Tùy nội dung bài giảng mà lựa chọn như
sau:
- Cách 1: Sử dụng cấu trúc đã được thiết kế sẵn. Thông thường, bản thân
hay dành thời gian cho việc tham khảo một số cấu trúc bài giảng PowerPoint
mẫu tải về từ Internet.
- Cách 2: Sử dụng cấu trúc hình sao.

- Cách 3: Sử dụng biểu đồ dạng xương cá.


13

2. Ưu, nhược điểm khi sử dụng bài trình chiếu trong dạy học trên lớp
Qua quá trình giảng dạy cho thấy, việc vận dụng phần mềm PowerPoint
trong giảng dạy có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, hầu hết giảng viên ngày nay đều có thể soạn và giảng bằng giáo
án điện tử với phản hồi tốt từ phía học viên. Thực tế cho thấy khi giảng viên sử
dụng kết hợp cả phương pháp dạy học truyền thống và các phương tiện hiện đại
thì sẽ đem lại hiệu quả thiết thực. Qua sử dụng phần mềm PowerPoint trong
giảng dạy sẽ làm cho giờ học hấp dẫn với các đoạn video clip sinh động, hình
ảnh, mầu sắc đẹp mắt, giảng viên có thể sơ đồ hóa những nội dung kiến thức,
lồng ghép chiếu phim tư liệu, mơ phỏng được những hình ảnh, hoạt động mà
học sinh khó tưởng tượng hoặc tranh ảnh trong sách giáo khoa không mô tả
được hết giúp bài giảng sinh động hơn. Tận dụng được nhiều thông tin, tư liệu
cung cấp cho bài học. Giúp học sinh có thêm vốn kiến thức, hiểu biết trong từng
tiết giảng.
Thứ hai, có thể giúp học viên nắm kiến thức rõ hơn thông qua các bài tập
neo chốt kiến thức. Việc dạy học bằng giáo án điện tử nhìn chung bước đầu đã

mang lại hiệu quả tích cực, nhiều giảng viên có các giáo án điện tử khá tốt làm
cho quá trình dạy và học thực sự hấp dẫn, hiệu quả. Giảng viên thuận lợi trong
việc bổ sung, chỉnh sửa giáo án và cập nhật kiến thức mới; dễ dàng hơn trong
việc hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứu căn cứ trên bài tập, tư liệu.
Thứ ba, giúp đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học. Đổi
mới phương pháp dạy và học vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của việc tích hợp
bài giảng điện tử vào dạy học truyền thống hiện nay. Việc áp dụng các bài giảng
điện tử vào quá trình dạy học truyền thống sẽ tạo cơ hội cải tiến cách dạy và
học. Bài giảng điện tử cho phép triển khai rộng rãi q trình dạy học theo mơ
hình: “Một người dạy, nhiều người học (đồng thời hay không đồng thời)” hoặc
“Nhiều người dạy, rất nhiều người học”. Như vậy người học sẽ có cơ hội tham
khảo các bài giảng của nhiều người dạy khác nhau về cùng một vấn đề, từ đó có
thể chọn lựa, tìm ra cho bản thân phương pháp học tập tối ưu. Áp dụng vào thực
tiễn dạy học trong thời điểm hiện nay chúng ta có thể sử dụng mơ hình tích hợp


14

sau:

Việc tích hợp bài giảng điện tử hiện nay sẽ phải đối mặt với những khó
khăn trước hình thức dạy học truyền thống vốn dĩ đã quá quen thuộc với nhiều
người. Rõ ràng hình thức lên lớp theo kiểu “tổng lực”, “đọc chép”... sẽ không
thể phù hợp với cách dạy có tích hợp bài giảng điện tử.
Thứ tư, việc ứng dụng thiết bị hiện đại vào giảng dạy giúp giáo viên nâng
cao trình độ tin học, mở rộng kiến thức, sự sáng tạo của bản thân. Đồng thời, tạo
hứng thú cho người học. Việc kiểm tra, đánh giá, củng cố thú vị, sinh động,
phong phú (thơng qua trị chơi…) tạo giờ học sinh động, vui vẻ thoải mái và
khắc sâu kiến thức. Giảng viên giảm bớt nội dung thuyết trình, có điều kiện tăng
cường trao đổi, thảo luận, giao tiếp với học viên trên lớp.

Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy trên lớp và qua trao đổi đối thoại với học
viên, bản thân nhận thấy có những vấn đề đặt ra trong ứng dụng giáo án điện tử
của giảng viên như sau:
Một là, một số ít giảng viên vẫn chưa phân biệt rõ giữa phương pháp
giảng dạy và công cụ giảng dạy, họ cho rằng sử dụng giáo án điện tử trong giảng
dạy là đã áp dụng phương pháp giảng dạy mới. Nhưng trên thực tế hồn tồn
khơng phải như vậy, vận dụng phần mềm PowerPoint chỉ là công cụ, phương
tiện hỗ trợ cho phương pháp giảng dạy tích cực; giảng viên phải chủ động về
kiến thức để lý giải cho hình ảnh đưa lên các Slide trình chiếu thuyết phục.
Nhiều người đưa quá nhiều tư liệu, hình ảnh, âm thanh vào trong bài giảng. Làm
cho tâm lý học sinh vào lớp học như đi xem phim, không ghi chép được gì cả.
Các phần mềm trình diễn đơi khi làm cho người thầy có thói quen thụ động,
chuộng hình thức mất dần tư duy phức tạp, trừu tượng.
Hai là, tính thiếu phù hợp trong quá trình sử dụng phần mềm PowerPoint.
Khi sử dụng giáo án điện tử và trình chiếu trong quá trình giảng dạy phải căn cứ
vào đặc điểm bài giảng, số lượng học viên, thời gian trình bày... nếu không sẽ
mang lại hiệu quả thấp. Nếu người thầy không chú ý đến việc tổ chức các hoạt
động thực hành, trị sẽ khơng chủ động trong lĩnh hội kiến thức. Nếu hiệu ứng


15

màu sắc, hình ảnh, cỡ chữ, phơng nền... khơng tương thích, thậm chí trong một
Slide có q nhiều chữ hoặc có nhiều hình ảnh động làm cho học viên chỉ chú
tâm đọc chữ, xem hình động mà khơng nghe giảng viên nói gì. Hoặc khi có giáo
án trình chiếu thì chỉ sử dụng một cách giảng là thuyết trình bảng chiếu, bằng
chữ ít sơ đồ, bảng biểu minh họa và không áp dụng nhiều phương pháp linh hoạt
khác như đặt câu hỏi phát vấn, giao lưu với học viên, bài tập nhóm… tất nhiên
lúc đó kết quả khơng cao.
Ba là, một số giảng viên vẫn cịn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ

kiến thức một chiều. Khi tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, khơng ít giáo
viên lo lắng, băn khoăn việc ứng dụng những phương pháp mới có thể khơng
thành cơng bằng phương pháp cũ; mặt khác có giảng viên quá phụ thuộc vào bài
giảng điện tử nên trong q trình giảng dạy có sự cố xảy ra ví dụ như mất điện,
máy tỉnh hỏng thì giảng viên cịn lúng túng, thậm chí bị động trong việc chuyển
sang dạy giáo án thơng thường.
Bốn là, tính phổ biến của việc vận dụng phần mềm PowerPoint trong
giảng dạy còn hạn chế. Việc vận dụng phần mềm PowerPoint để xây dựng một
bài giáo án điện tử tốn nhiều thời gian từ khâu chuẩn bị đến khâu thực giảng trên
lớp, người giảng viên phải có một giáo án truyền thống đầy đủ, sau đó mới có
thể chuẩn bị phần giáo án điện tử.
Năm là, dễ xảy ra tình trạng copy bài giảng. Do tính sao lưu dễ dàng nên
nhiều người dạy lại nảy sinh tâm lí ngại soạn bài giảng dẫn tới “đạo bài giảng”
bằng cách copy của đồng nghiệp sau đó chỉnh sửa thêm thắt một chút là có bài
giảng cho mình. Điều này khiến người dạy thiếu đi sự tích cực trong soạn giáo
án, dạy học một cách hời hợt.
Sáu là, khiến người dạy “lười” viết bảng truyền thống. Vì giảng bài thơng
qua máy tính và máy chiếu nên nhiều người dạy bỏ thói quen viết bảng truyền
thống khơng thể thiếu.
Công nghệ thông tin đã “len lỏi” vào từng góc cạnh của đời sống xã hội.
Việc ứng dụng giáo án điện tử trong hoạt động giảng dạy là cần thiết và đem lại
hiệu quả cao. Không thể phủ nhận vai trị, tính ưu việt của giáo án điện tử nhưng
cần phải kết hợp hài hòa phấn trắng, bảng đen. Điều này đòi hỏi đội ngũ giảng
viên, đặc biệt là giảng viên trẻ cần tự nhận thức luôn không ngừng trau dồi, học
hỏi, hồn thiện bài giảng của mình, nghiên cứu tìm tịi những điều mới, vận
dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích cực và khắc phục những hạn chế tồn
tại trong vận dụng phần mềm PowerPoint để xây dựng được những bài giảng
điện tử có hiệu quả cao, góp phần đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo.



16

Tài liệu tham khảo:
[1]. Tôn Quang Cường, Phạm Kim Chung, (2009). Sử dụng phương tiện
kỹ thuật và công nghệ trong dạy học đại học. Trường Đại học Giáo dục.
[2]. Lê Thị Thanh Nhạn (2019). Một số trao đổi về việc vận dụng phần
mềm Powerpoint trong giảng dạy ở Trường Chính trị Lê Duẩn, tỉnh Quảng Trị.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Phạm Xuân Hòa



×