Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN điều kiện và các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.99 KB, 26 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ
I.

THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM

1.1.
1.2.
1.3.

II.


2.1.
2.2.

1

2

Quan niệm và đặc trưng của thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế

2

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

4

chủ nghĩa ở nước ta
ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

7

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

9

chủ nghĩa ở Việt Nam

Các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

9

hội chủ nghĩa ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
23
24


MỞ ĐẦU
Ngày nay, khơng ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế
thị trường trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất xã hội. Không ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế thị trường
trong các chế độ khác nhau. Khơng cịn ai cho rằng kinh tế thị trường là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà nó là một tài sản chung của nhân loại và sẽ
tiếp tục phát triển sau chủ nghĩa tư bản, trong một thời kỳ lịch sử mới, một chế
độ xã hội mới - xã hội hiện đại, tiến bộ, công bằng, văn minh, cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do đó, trong giai đoạn hiện nay
việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu
cầu khách quan đối với nước ta.
Thực tiễn quá trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế trong những năm qua
cho thấy, Việt Nam đang thực hiện theo phương thức “tiến dần từng bước” và
“điều chỉnh từng bước”. Phương thức này đã tỏ ra hữu hiệu nhằm giúp nước ta
tránh được các “cú sốc” về kinh tế - xã hội, bảo đảm mục tiêu kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với ổn định và duy trì trật tự xã hội. Cùng với cải cách
kinh tế, quá trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định “Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ
trương đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật pháp,
cơ chế chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thi trường tiếp tục hình
thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh” [1,
tr.289].
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta còn những hạn chế nhất
định, những bất cập cần có giải pháp tháo gỡ. Do vậy, nghiên cứu vấn đề “Điều
kiện và các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Quan niệm và đặc trưng của thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị
trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức
tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời kỳ q độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây

là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường.
Cũng có thể nói kinh tế thị trường là ”cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là ”cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện
và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Nó có hệ thống thể chế riêng không giống với
kinh tế thị trường của các nước khác.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
hiểu là hệ thống các bộ quy tắc kinh tế thị trường, được vận hành bởi các chủ thể
kinh tế thị trường khác nhau, với các cơ chế, cách thức được xác định rõ theo
hướng vừa đảm bảo phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, vừa đảm bảo công
bằng xã hội và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng đối với nền kinh tế thị trường.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa X, Đảng ta đưa ra
quan niệm cụ thể về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
4


Việt Nam: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy định, quy tắc chế định, điều
tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền kinh tế nhằm tạo
điều kiện cho việc hình thành, vận hành thơng suốt và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm này chỉ rõ thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của sự vận
dụng các qui luật kinh tế trong nền kinh tế thành các qui định của nhà nước để
tạo điều kiện cho sự vận động thống nhất và phát triển của nền kinh tế thị
trường. Mục đích xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường nhằm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đặc trưng của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện trên một số nét:
Thứ nhất, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn

minh”; giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội; đẩy mạnh công cuộc xố
đói, giảm nghèo, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, mọi người giúp đỡ lẫn nhau để người nghèo thoát nghèo vươn
lên khá giả, người khá giả vươn lên làm giàu, mọi người được bình đẳng trước
pháp luật về cơ hội tham gia sản xuất kinh doanh làm ra nhiều của cải cho xã hội
và cải thiện đời sống cho mình, từng bước giảm dần khoảng cách giữa các tầng
lớp dân cư, các khu vực nông thôn, thành thị các vùng trung du, miền núi và
đồng bằng.
Những mục tiêu trên đều dựa trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng của đất
nước, nhất là tiềm năng con người để thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm cho mọi người đều được hưởng hành quả do sự phát triển mang
lại. Nói một cách tổng quát là phát triển kinh tế - xã hội do con người và vì con
người. Điều đó khác hẳn với mục tiêu tất cả vì lợi nhuận và lợi nhuận đó được
tập trung phục vụ một nhóm người, cịn số đơng được hưởng thụ không tương
xứng với công sức họ bỏ ra.
Thứ hai, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
5


hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, chế độ cơng hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng để giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập
thể phải ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đồng
thời thể chế kinh tế phải bảo đảm để khu vực kinh tế tư nhân được coi là bộ
phận hữu cơ của nền kinh tế, là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển.
Thứ ba, từng bước thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển; tạo lập
sự đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, văn
hố, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo đảm an sinh xã

hội… giải quyết tốt các vấn đề xã hội, từng bước giảm dần khoảng cách về mức
sống vật chất, văn hoá tinh thần của các tầng lớp dân cư, giữa nông thôn với
thành thị, giữa miền ngược với miền xuôi; thực hiện tốt cơng trình mục tiêu xố
đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng. Để đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải huy động được nội lực và ngoại lực để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều của cải song phải đồng thời giải quyết
tất cả các vấn đề an sinh xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát
triển toàn diện của con người.
Thứ tư, thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
qua nhiều hình thức phân phối, song chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội. Đồng thời khuyến khích sự đóng góp
của cá nhân cho sự phát triển và coi trọng đúng mức các hình thức phân phối
theo mức đóng giữa vốn và các nguồn lực khác.
1.2. Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất
xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hóa - tiền tệ
với quan hệ cung cầu...Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề
mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính
6


đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa
như mắt khâu trung gian.
Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế của nước ta
là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Trong những năm kháng chiến chống
Mỹ nền kinh tế này phát huy tác dụng bằng việc huy động sức người, sức của,
toàn dân đồng lòng tập trung cho kháng chiến. Sau năm 1975, Việt Nam vẫn duy
trì nền kinh tế chỉ huy trước đây. Do các quan hệ kinh tế lúc này đã thay đổi
nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ không còn hợp lý và dẫn đến nhiều tiêu

cực. Những hậu quả xấu xuất hiện như tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, môi
trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả do sự quản lý khơng có hiệu quả. Đến
giữa những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế này đã đi đến đỉnh
điểm. Sản xuất thua lỗ, đình đốn, lạm phát, tham nhũng tăng nhanh, đời sống
nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập.
Ngun nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập
khn một mơ hình kinh tế khơng thích hợp và kém hiệu quả.Ta đã thực hiện
chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện
chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã sử dụng
khơng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày
một gia tăng. Thực hiện phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình
quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến khơng thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của
người sản xuất và người tiêu dùng đã khơng kích thích sự sáng tạo của người lao
động. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút
đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới.
Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế hạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII, Đảng ta xác
định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên
7


thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý
luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đưa ra đưa ra khái niệm

“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước phát triển mới
trong nhận thức tư duy lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong thời kỳ quá độ. Và từ đó đến nay, nó là vấn đề trọng tâm trong
việc hoạch định kế hoạch, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà
nước ta.
Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng
đắn. Nó phù hợp với thực tế của đất nước, phù hợp với các quy luật kinh tế và
với xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì khơng thể nào có đủ sản phẩm
để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do đó nó
chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng nên rất khó để thúc đẩy sản xuất phát
triển, mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất
lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta
đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa, dịch
vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước
ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các
loại hàng hóa trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ tư, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hòa nhập sự cạnh tranh
giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất. Mục đích của các chính sách, của các
quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ
phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm
8


lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trị và sức mạnh của mỗi dân tộc.
Vì vậy, chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá

trình phát triển nền kinh tế đất nước [4, tr.178].
1.3. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
* Thành tựu đạt được
Qua hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những thành tựu nổi bật của
công cuộc đổi mới, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận
dụng vào xây dựng đường lối kinh tế của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng đã
được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Hai là, chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã đổi mới cơ bản, từ
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu
chuyển sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi
cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống
nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được
Nhà nước bảo vệ, tự chủ, tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới, từ can thiệp trực tiếp
bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang
quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Năm là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xố
đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
9



* Những hạn chế, yếu kém
Có thể thấy rõ quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ
và chưa thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai, tài ngun, tài
sản cơng… cịn nhiều bất cập, vướng mắc.
Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà
nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản
nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá. Doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử.
Ba là, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển
chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh tranh khơng
lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được khắc phục.
Bốn là, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương
cịn mang tính bình qn, chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương, chưa
khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện
tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới
công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Năm là, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ,
cơng chức nhà nước cịn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải
cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, tệ tham nhũng, quan
liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng.
Sáu là, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới
chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh
xã hội còn kém. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi
trường chưa được giải quyết tốt [5, tr.141].
10



II. ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Để nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, điều kiện bảo đảm tiên quyết chính là phát triển cân đối, đồng hướng,
đồng nhịp một cách bền vững giữa các bộ phận cấu thành nói riêng và cấu trúc
tổng thể nói chung.
Chế độ kinh tế - xã hội là một tổng thể bao gồm kết cấu kinh tế, kết cấu xã
hội và kết cấu thượng tầng kiến trúc. Trục “tam giác” phát triển này có quan hệ
nhân quả, quy định lẫn nhau. Để nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa, điều kiện bảo đảm tiên quyết chính là phát triển cân
đối, đồng hướng, đồng nhịp một cách bền vững giữa các bộ phận cấu thành nói
riêng và cấu trúc tổng thể nói chung. Các q trình phát triển, quản lý kinh tế thị
trường, xã hội dân sự và định hướng chính trị của sự phát triển này ở nước ta
không được “lệch pha” và xung đột lẫn nhau. Đây là yêu cầu tổng thể đặt ra cho
nhiệm vụ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước
ta hiện nay.
Nhưng thực tế cho thấy trong xu thế tiến lên chung của đất nước, các kết
cấu bộ phận nói trên khơng phải lúc nào cũng tiến đồng nhịp, đồng hướng với
nhau. Trong những năm qua, ở lĩnh vực kinh tế, rõ ràng đã có những bước tiến,
tuy chưa thật vững chắc, còn trong lĩnh vực xã hội , mặc dù có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn cịn khơng ít vấn đề nhức nhối, phát sinh nhiều hiện tượng “lệch
pha”. Các tệ nạn xã hội, tình trạng suy thối đạo đức, phân hố giàu nghèo…, có
phần gia tăng; cịn hệ thống giá trị mới vẫn chưa được định hình. Hay như sự
“lệch nhịp” giữa các quá trình đổi mới kinh tế và q trình đổi mới hệ thống
chính trị: trong khi cơ chế kinh tế mới đã được xác lập từng bước vững, chắc thì
sự đổi mới của thể chế chính trị dường như vẫn chưa tương xứng. Trong khn
khổ một cuộc thử nghiệm lịch sử chưa có tiền lệ - phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề về xây dựng Đảng, nâng cao

11


năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, điều chỉnh chức năng quản lý của
Nhà nước; vị trí, vai trò của các chủ thể kinh tế, chủ thể xã hội và các giai tầng
xã hội vẫn chưa được xác định thật rõ về mặt lý luận cũng như trong tổ chức
thực tiễn.
Các vấn đề cơ bản của kết cấu thượng tầng kiến trúc như xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể trong hệ thống chính trị, thể chế vận hành của cả hệ thống chính trị
và từng bộ phận trong hệ thống này, cải cách hành chính, tuy đã được đặt ra và
có nhiều kết quả trong giải quyết, song, vẫn chưa đạt được bước tiến mong đợi.
Cần phải làm gì để tạo ra sự đồng nhịp, đồng hướng trong quá trình phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong nó bao hàm cả những
bước rút ngắn nhảy vọt?
Về kết cấu kinh tế và cơ chế kinh tế: Phát triển kinh tế thị trường tức là
tạo lập cơ sở kinh tế cho xã hội quá độ, định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, điều kiện đầu tiên là phải xây dựng một kết cấu kinh tế thị trường phù hợp,
cho phép nó vận động một cách hiệu quả. Kết cấu này, như đã nói, là đa sở hữu,
đa thành phần, với lực lượng chủ đạo là kinh tế nhà nước, mở cửa và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngăn chặn một cách hiệu quả và chắc chắn xu hướng phục hồi trở lại của
các yếu tố thuộc về cơ chế cũ như bao cấp, độc quyền và bảo hộ tràn lan, xác
định rõ phương hướng và cơ chế đầu tư của Nhà nước trong môi trường thị
trường - hội nhập và phù hợp với các nguyên tắc thị trường.
Nhiệm vụ thứ hai này bao gồm các nội dung cụ thể sau:
Đầu tư công phải tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nền
kinh tế và xã hội, giúp cho các vùng nghèo, nhóm người nghèo có các điều kiện
“nhập cuộc thị trường” tối thiểu để họ có thể tự đứng vững được trong cơ chế thị
trường.

Quy hoạch phát triển của Nhà nước không được trở thành yếu tố cản trở cơ
chế tự điều tiết của thị trường. Nó phải căn cứ vào định hướng phát triển chung của
cả nền kinh tế và dựa vào nguyên tắc thị trường để triển khai thực hiện.
12


Các hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp (việc phân phối các
nguồn lực kinh doanh) phải được đặt dưới sự điều tiết của các nguyên tắc thị
trường và được chế tài bằng luật pháp.
Nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng IX Đảng đã xác định đây là “khâu đột phá phát triển”. Tuy
nhiên, do bước tiến đạt được trong quá trình này là rất chậm, nên cần phải xem
lại từ cách đặt vấn đề cho đến những vướng mắc cụ thể trong nhận thức và hành
động. Cho đến nay, sau gần 20 năm phát triển kinh tê thị trường, vẫn tồn tại một
nghịch lý là các nguồn đầu vào cơ bản như đất đai, lao động, sản phẩm trí tuệ
vẫn chưa vận động dưới hình thái thị trường, vẫn chưa có thị trường chính thức
để vận động. Một số nguyên tắc vận hành nền tảng của cơ chế thị trường vẫn
chậm được thể chế hoá, như cạnh tranh, kiểm soát độc quyền giá cả được hình
thành theo quan hệ cung - cầu và được quyết định trên thị trường là phổ biến,
vai trò phân bổ các nguồn lực của thị trường và của Nhà nước, dân chủ hoá đời
sống kinh tế [2, tr.45].
Cần phải có nhận thức mới và quyết tâm mới để đẩy mạnh việc xây dựng
đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
nghịch lý phát triển nói trên chỉ có thể được giải quyết bằng cách tạo điều kiện
để hệ thống thị trường, đặc biệt là thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường
lao động, thị trường khoa học và cơng nghệ tự vận hành có hiệu quả dưới sự
quản lý của Nhà nước; các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước
phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, bị phá sản
nếu kinh doanh thua lỗ kéo dài, cần được coi là những nhiệm vụ trọng tâm và ưu

tiên hàng đầu của nỗ lực phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước hiện nay.
Đẩy mạnh công cuộc xố đói giám nghèo.
Giúp người nghèo có các điều kiện cần thiết để có thể từng bước nhập
cuộc vào quỹ đạo thị trường. Đây là một trong những chức năng hoạt động
chính của Nhà nước. Thị trường vận hành dựa trên nguyên tắc tập trung đầu tư
13


theo lợi thế. Vì vậy, người nghèo, vùng nghèo dễ bị đặt ra ngoài lề phát triển. Để
giúp người nghèo thoát nghèo, điều kiện tiên quyết là Nhà nước tạo cho họ có
đủ năng lực tối thiểu để lựa chọn được những cơ hội phát triển mà Nhà nước và
thị trường tạo ra. Đó là cách để Nhà nước định hướng sự phát triển của thị
trường phục vụ tốt hơn cho người nghèo. Đó cũng là cách thức phối hợp giữa
chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường nhằm mục tiêu xây dựng
một xã hội no đủ và công bằng theo định hướng đã chọn.
Thu hẹp bất bình đẳng và tạo lập cơng bằng xã hội.
Đây là một trong những nội dung then chốt của định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thông qua chức năng thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế,
thị trường tạo ra cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ trên, song, tự nó lại khơng
thể giải quyết tốt vấn đề. Trong khi đó, với chức năng chủ động điều tiết các
nguồn lực và của cải xã hội, Nhà nước có điều kiện và trách nhiệm giải quyết
vấn đề này.
Hiện nay, xu hướng gia tăng bất bình đẳng thu nhập - cơ sở kinh tế của
bất bình đẳng xã hội - đang là một thực tế của quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường. Kinh tế tăng trưởng càng nhanh, quá trình hội nhập quốc tế càng được
đẩy mạnh, thì chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng gia tăng. Về
nguyên tắc, xu hướng này lại ngược chiều với định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
là mâu thuẫn nội tại của sự phát triển và phải được giải quyết từng bước vững
chắc trong quá trình phát triển và trên cơ sở của thành tựu phát triển. Nếu không

giải quyết thoả đáng mâu thuẫn này, sự vận động của nền kinh tế có thể dẫn tới
những kết quả trái ngược với mục tiêu đã định.
Kết cấu thượng tầng kiến trúc.
Đối với một nước nghèo đi lên hiện đại trong bối cảnh tồn cầu hố và hội
nhập kinh tế quốc tế như nước ta hiện nay, việc thực hiện định hướng phát triển
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi rất cao tính chủ động và chịu trách nhiệm trước quốc
gia và dân tộc của bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong việc:
Lựa chọn đường lối và chiến lược phát triển.
Tổ chức và dẫn dắt nhân dân hành động.
14


Những lập luận này đều liên quan đến phương thức lãnh đạo của Đảng ,
điều hành và quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự tham gia của nhân dân trong quá
trình hoạch định và thực thi đường lối ,chiến lược và chính sách phát triển nhanh
,hiệu quả và bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có ba vấn đề
lớn cần được giải quyết. Đó là:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị và xã hội trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, điều chỉnh chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường,
thực hiện cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, vai trò và cơ chế để nhân dân làm chủ và tự giác tham gia vào quá
trình phát triển. Đối với nước ta, vai trò và chức năng lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước, sự tham gia làm chủ của nhân dân và các phương thức thực
hiện chúng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chắc chắn sẽ
mang nhiều nội dung mới và việc thực hiện nó địi hỏi phải có những đổi mới cơ
bản và mạnh mẽ hơn trong thời gian tới để thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh, hiệu

quả và bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước
ln ln là lực lượng chính trị quyết định định hướng phát triển và tổ chức
nhân dân thực hiện. Song, do điều kiện đã thay đổi, nên phương thức lãnh đạo
và thực hiện cũng cần phải được đổi mới và điều chỉnh phù hợp. Việc làm rõ sự
đổi mới và điều chỉnh này, xác định vai trò cụ thể của các chủ thể kinh tế và chủ
thể xã hội là rất cần thiết trong thời gian tới.
Trong thời gian tới, cần tập trung làm rõ những vấn để lý luận và thực tiễn
cơ bản của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong một thể thống nhất, để trên cơ sở đó, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, điều chỉnh chức năng của Nhà nước, tạo
lập các thiết chế làm chủ và giám sát của nhân dân.
15


Nếu không giải quyết từng bước những vấn đề nêu trên ở từng giai đoạn
phát triển của đất nước, thì hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, tính tích cực tham gia của các tổ chức xã hội và nhân dân vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu chắc
chắn sẽ bị hạn chế.
2.2. Các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Một là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội Đảng XI khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [3, tr.90]. Vì vậy, để thực hiện được

mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”; giữ vững định
hướng XHCN của nền kinh tế thị trường cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Đảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác
định rõ và đầy đủ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất
là những nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Đổi mới công tác tổ chức và đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh
vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp
uỷ đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà
16


nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn
trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế
thị trường. Vận dụng và phát huy mặt tích cực; hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của
cơ chế thị trường; tạo ra những tiền đề để nền kinh tế phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mơ, định hướng
phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế; đổi mới cơng
tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng của
các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái,
tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế,
chính sách tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức này tham gia có hiệu quả
vào q trình hoạch định, thực thi và giám sát việc thực hiện luật pháp, chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, ngăn ngừa, khắc phục những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Hai là, hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế
và phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Hoàn thiện thể chế về sở hữu
Tiếp tục phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối
17


với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên
nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Đổi mới, hồn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất
đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài
sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thốt,
lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu được
giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên tắc hiệu
quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của Nhà nước.

* Hoàn thiện thể chế về phát triển các thành phần kinh tế
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập
đồn kinh tế và các tổng cơng ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Từng bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu
vực và toàn cầu. Xác định đúng đắn, cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội
đồng quản trị và giám đốc doanh nghiệp đối với vốn và tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công
phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có
quyền chủ động và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị
trường, cung cấp ngày càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là
dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ...
Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng
cốt là hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện Luật
Hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu
mới và các mơ hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi,
có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát triển các trang trại ở nông
thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại [6, tr.389].
18


Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở
thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định
của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đồn kinh tế tư nhân và tư
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và

chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao. Hỗ trợ
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt
trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu
hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên,
công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định
luật pháp về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của người sở hữu (hội đồng quản
trị), quyền và trách nhiệm của người được chủ sở hữu giao quản lý sử dụng các
tài sản để kinh doanh (ban giám đốc); phân phối lợi nhuận tạo ra cho người chủ
sở hữu, người được giao quản lý sử dụng và người lao động.
* Hoàn thiện thể chế về phân phối
Hồn thiện chính sách phân phối thu nhập quốc dân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải đảm bảo giải quyết hài hoà lợi ích
của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, vừa đảm bảo thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội, vì mục tiêu
phát triển con người. Theo đó, tập trung vào hai chính sách chủ yếu.
Thứ nhất, chính sách phân phối tài chính qua ngân sách nhà nước vừa là
phương hướng cơ bản để xử lý hệ thống các lợi ích kinh tế trong phân phối thu
nhập quốc dân, vừa là công cụ quan trọng điều tiết phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Muốn hồn thiện chính sách này, Nhà nước
cần phải chuyển từ chính sách thu hướng vào đảm bảo nguồn thu, sang chính
sách thu hướng vào tăng trưởng. Theo đó, chính sách thu (nhất là chính sách
thuế) phải được nhìn nhận như là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước chứ
19


không đơn thuần là công cụ động viên nguồn thu ngân sách nhà nước; phải phù
hợp với điều kiện Việt Nam đã hội nhập đầy đủ và toàn diện vào nền kinh tế thế
giới; đảm bảo cơng bằng, bình đẳng, thống nhất giữa các thành phần kinh tế, các

loại hình doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự ổn định, minh bạch,
cơng khai... [7, tr.271].
Thứ hai, chính sách tiền lương và thu nhập là bộ phận cấu thành chủ yếu
của lợi ích kinh tế người lao động, là một yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh. Do đó, chúng ta phải từng bước tách chính sách bảo hiểm xã hội và
chính sách ưu đãi người có cơng với nước, để nó độc lập với chính sách tiền
lương. Hồn thiện chính sách tiền lương phải gắn với cải cách kinh tế, thiết lập
đồng bộ các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ, bất động sản… Các thị trường
phải hoạt động “lành mạnh”, có hiệu quả. Nâng mức lương tối thiểu chung đảm
bảo mức sống tối thiểu của người lao động. Điều chỉnh mức lương tối thiểu
vùng đối với khu vực doanh nghiệp, tiến tới thực hiện mức lương tối thiểu thống
nhất giữa các doanh nghiệp theo cam kết quốc tế (WTO). Cần tách rõ tiền lương
của khu vực hành chính (Nhà nước, Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội
và lực lượng vũ trang) do ngân sách Nhà nước đảm bảo với khu vực sự nghiệp;
chống chủ nghĩa bình qn trong chính sách tiền lương, bằng cách: mở rộng
quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa; thu hẹp thang, bảng, bậc
lương; hoàn thiện các chế độ phụ cấp và gộp vào tiền lương.
Ba là, hoàn thiện thể chế bảo đảm phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường.
Sớm hồn thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật
về kinh doanh phù hợp với điều kiện Việt Nam, bảo vệ thị trường nội địa, đồng
thời tuân thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam
tham gia. Đổi mới, hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền,
về ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp; khơng hình sự hố các
tranh chấp dân sự trong hoạt động kinh tế. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy
định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với
20


mơi trường. Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về thị trường, pháp

luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; xây dựng các tổ chức tư vấn có
trình độ cao để giúp doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh ở
trong và ngoài nước. Hình thành đồng bộ một số quỹ hỗ trợ cho kinh doanh.
Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, đồn thể để bảo vệ quyền lợi chính đáng
của cả người kinh doanh và người tiêu dùng.
Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các loại thị trường
hàng hoá, dịch vụ. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời chú trọng mở rộng và
chiếm lĩnh thị trường trong nước, bảo vệ lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu
dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hố, vệ sinh, an tồn thực phẩm.
Tiếp tục hồn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối. Từng bước
mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội trong nước và cam kết quốc tế; phát huy vai trị chủ động điều hành chính
sách, quản lý thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và thanh tra, giám sát của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm kiểm sốt lạm phát, ổn định vĩ mơ và góp
phần tăng trưởng kinh tế; tiếp tục cổ phần hoá và cơ cấu lại các ngân hàng
thương mại; áp dụng các thông lệ và chuẩn mực mới phù hợp với thông lệ quốc
tế và điều kiện Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển an toàn,
bền vững của các ngân hàng trong nước. Hoàn thiện thể chế bảo đảm phát triển
lành mạnh thị trường chứng khốn, tăng tính minh bạch của thị trường; chống
các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường, làm cho thị
trường này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư
phát triển. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm;
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi
thành phần kinh tế trong nước; thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm
phù hợp với điều kiện đất nước và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; bảo vệ lợi
ích của người mua bảo hiểm.
Khẩn trương nghiên cứu, hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đất
đai, bảo đảm hài hồ các lợi ích của Nhà nước, của người giao lại quyền sử dụng
đất và của nhà đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng đất đai có hiệu quả;
21



khắc phục tình trạng sử dụng lãng phí và tham nhũng đất đai. Khuyến khích các
tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất tham gia góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
vào các dự án đầu tư, kinh doanh. Nhà nước tạo lập, quản lý thị trường bất động
sản và chủ động tham gia thị trường với tư cách là chủ sở hữu đất đai và nhiều
tài sản trên đất để phát triển và điều tiết thị trường.
Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; có nhiều hình thức thơng tin giới thiệu các hoạt động và
sản phẩm khoa học, cơng nghệ; hồn thiện các định chế về mua bán các sản
phẩm khoa học, công nghệ trên thị trường.
Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền công phải được
coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp dụng phổ biến cho
các đối tượng lao động. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ
việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển
các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm đi đôi với tăng
cường quản lý của Nhà nước; ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng
tiêu cực khác.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Nước ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nên coi tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa
địi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội ngay trong từng giai đoạn phát
triển và trong từng chính sách kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát
triển xã hội, văn hoá, giáo dục và bảo vệ mơi trường, vì mục tiêu phát triển con
người Việt Nam là những nội dung cấu thành của sự phát triển nhanh, hiệu quả,
hiện đại và bền vững trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa.
22


Tập trung tạo việc làm để thực hiện mục tiêu xố đói, giảm nghèo là giải
pháp tích cực và cơ bản nhất để thực hiện công bằng xã hội. Để tạo việc
làm, cần khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp và
sản xuất - kinh doanh, từ đó thu hút thêm lao động. Khuyến khích phát triển
kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, nhất là ở địa bàn nông thôn, tạo điều kiện cho người dân làm giàu trên
mảnh đất của mình bằng chính sách hỗ trợ của Nhà nước và công nghệ tiên tiến,
với phương châm “làm giàu để xố nghèo”. Khuyến khích người lao động tự tạo
việc làm một cách chính đáng; phát triển lành mạnh các hoạt động dịch vụ việc
làm, dịch vụ lao động...
Tiếp tục thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói, giảm
nghèo theo hướng bền vững. Điểm nổi bật của chiến lược này là Đảng và Nhà
nước ta đã gắn chặt mục tiêu xoá đói, giảm nghèo với chiến lược phát triển, coi
xố đói, giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển, là mục
tiêu xuyên suốt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xố đói, giảm nghèo
vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề, điều kiện và là thước đo phát triển bền vững, là
yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội.
Ở nước ta, trong thời gian qua, cơng tác xố đói, giảm nghèo, tạo việc làm
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, được thế giới đánh giá cao. Song sức
ép về việc làm và xố đói, giảm nghèo cịn rất lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo gia tăng, tỷ
lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới vẫn còn cao. Cho nên, đây vẫn là vấn đề cần nỗ
lực giải quyết trong nền kinh tế thị trường nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cần triển khai đồng bộ và có định hướng cơ bản, lâu dài hơn, bằng một
hệ thống giải pháp tổng thể sau:
Thực hiện nghiêm ngặt chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế
hoạch hoá gia đình; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo mơi trường thuận

lợi để khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, từ đó tạo việc làm, thu hút lao
động, nhất là đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Tăng cường công tác đào
tạo nghề cho lực lượng lao động (đặc biệt là lao động ở nông thôn, nông nghiệp)
23


nhằm xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề phục vụ u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và yêu cầu xuất khẩu lao động.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh
hệ thống bảo hiểm xã hội, triển khai có hiệu quả hình thức bảo hiểm thất nghiệp,
khuyến khích mở rộng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm nhân thọ,
tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân...
Xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội trong tổng thể hệ thống an sinh xã
hội đa tầng, linh hoạt và hỗ trợ lẫn nhau, có khả năng bảo vệ mọi thành viên
trong xã hội, nhất là những nhóm người dễ bị tổn thương và những người có
cơng với nước. Sửa đổi, bổ sung chế độ trợ cấp xã hội theo mức sống tối thiểu
của xã hội trong từng thời kỳ.

24


KẾT LUẬN
Qua hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã hình thành được các thể chế kinh tế
thị trường ban đầu. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng mặc dù đã đạt được một số
kết quả bước đầu đáng khích lệ, song thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Vì vậy, việc hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Mục tiêu của nhiệm vụ này không phải là tạo ra một
nền kinh tế thị trường khác, mà là sử dụng các ưu thế của kinh tế thị trường hiện
có như một “cơng cụ” để phát triển kinh tế đất nước. Định hướng xã hội chủ

nghĩa chính là “kim chỉ nam” để hướng cho nền kinh tế thị trường hoạt động có
hiệu quả, đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để thực hiện thắng lượi nhiệm vụ đó cần nghiên cứu, làm rõ các điều
kiện và các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.

25


×