Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Mối liên quan giữa các vị trí di căn xa thường gặp và một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.78 KB, 9 trang )

NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Mối liên quan giữa các vị trí di căn xa thường gặp
và một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ
Phạm Văn Luận, Nguyễn Đình Tiến, Nguyễn Minh Hải, Thi Thị Duyên, Nguyễn Xuân Dũng
Khoa Nội Hô hấp, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

TÓM TẮT:
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa các vị trí
di căn xa thường gặp với một số đặc điểm lâm sàng,
cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế
bào nhỏ (UTPKTBN).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang 572 bệnh nhân
UTPKTBN có di căn xa vào thời điểm chẩn đoán
trong thời gian từ năm 2014 – 2020.
Kết quả: Di căn xương gặp ở 47,4% bệnh nhân,
di căn màng phổi chiếm 30,1%, di căn phổi đối
diện 28,5%, di căn não 27,1%, tỷ lệ di căn gan và
tuyến thượng thận lần lượt là 8,2% và 8%. Tỷ lệ di
căn xương cao hơn ở bệnh nhân mang đột biến gen
EGFR(53,8%) và ở nhóm bệnh nhân này nguy cơ
có di căn xương cao gấp 1,5 lần bệnh nhân khơng
có đột biến gen EGFR (p<0,05). Tỷ lệ di căn tuyến
thượng thận lại cao hơn ở nhóm khơng có đột biến
gen EGFR(p<0,05). Nam giới và hút thuốc lá có tỷ
lệ cao di căn tuyến thượng thận với 10,2% (p<0,05)
và nguy cơ di căn tuyến thượng thận của nam giới
cao gấp 12,2 lần so với nữ giới; trong khi nữ giới gặp
di căn màng phổi cao hơn nam giới: 43,5% so với


26,1% (p<0,05).

Kết luận: Di căn xương thường gặp nhất ở bệnh
nhân UTPKTBN, nguy cơ di căn xương cao hơn
ở nhóm có đột biến gen EGFR dương tính. Bệnh
nhân nam giới và khơng có đột biến gen EGFR là
những yếu tố cao có nguy cơ di căn tuyến thượng
thận, trong khi đó, nữ giới có tần suất di căn màng
phổi cao hơn.
Từ khóa: UTPKTBN có di căn xa, đột biến gen
EGFR.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi không tế bào (UTPKTBN)
chiếm khoảng 85% số lượng bệnh nhân được chẩn
đốn ung thư phổi, trong đó khoảng 30 – 40% bệnh
nhân nhập viện khi đã ở giai đoạn di căn xa của
bệnh[1]. Những bệnh nhân này có tiên lượng rất
xấu, thời gian sống thêm thường ngắn, thể trạng yếu
do triệu chứng tại cơ quan hô hấp hoặc các cơ quan
có ung thư di căn gây nên. UTPKTBN có thể di căn
tới bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, tuy nhiên có một
số vị trí thường gặp nhất là não, xương, gan, tuyến
thượng thận 2 bên, phổi đối diện và màng phổi[2].
Một số nghiên cứu chỉ ra, ở bệnh nhân UTPKTBN
nói chung, tỷ lệ di căn não khoảng 30 – 50%, di căn
Ngày nhận bài: 07/09/2020
Ngày phản biện: 02/10/2020
Ngày chấp nhận đăng: 12/10/2020


TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

97


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

xương khoảng 30 – 40%[3-5]. Về mối liên quan
giữa các vị trí di căn xa ở bệnh nhân UTPKTBN với
một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đặc biệt
là đột biến gen EGFR đã được đề cập đến trong
các nghiên cứu gần đây, họ cho rằng sự xuất hiện
đột biến gen EGFR có thể là một trong các yếu tố
làm tăng nguy cơ di căn đến não, xương[4-7]. Tuy
nhiên, đây là vấn đề còn nhiều bàn cãi khi cũng có
nghiên cứu khơng thấy mối liên quan này[3],[8].
Các vị trí di căn khác như thượng thận, gan, phổi
đối diện hay màng phổi cịn ít được đề cập. Vì vậy,
mục tiêu nghiên cứu của chúng tơi là đánh giá mối
liên quan giữa các vị trí di căn xa thường gặp với một
số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân
UTPKTBN.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
572 bệnh nhân chẩn đoán xác định là
UTPKTBN giai đoạn IV khi mới vào viện lần đầu,
điều trị tại Khoa Nội Hô hấp - Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 từ năm tháng 8 năm 2014 đến
tháng 8 năm 2020. Thời điểm bệnh nhân được

lựa chọn vào nghiên cứu cùng thời điểm làm xét
nghiệm đột biến gen EGFR.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả, cắt ngang.
Các bước tiến hành
- Thu thập các triệu chứng về tiền sử, cơ năng,

thực thể, đánh giá toàn trạng.
- Chụp CT ngực lấy đến ½ trên ổ bụng, sinh
thiết u phổi qua nội soi phế quản hoặc sinh thiết u
phổi dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính ngực hoặc
chọc hút dịch màng phổi làm Cell-bloc.
- Chụp MRI sọ não, xạ hình xương.
- Xét nghiệm đột biến gen EGFR.
Phương pháp đánh giá:
- Đánh giá di căn não bằng MRI sọ não theo tiêu
chuẩn Kondziolka D (2007).
- Đánh giá di căn xương khi có tăng hoạt tính
phóng xạ ở xương trên hình ảnh xạ hình xương, với
điều kiện đã loại trừ yếu tố nhiễu (gãy xương, mổ
cũ…).
- Hội chẩn cùng với các bác sỹ chẩn đốn hình
ảnh khi đánh giá di căn hạch rốn phổi, trung thất và
di căn phổi đối diện, di căn gan, tuyến thượng thận
bằng CT ngực, ½ trên ổ bụng.
- Đánh giá giai đoạn bệnh theo phân loại giai
đoạn UTPKTBN phiên bản 7, 2010.
- Xét nghiệm đột biến gen EGFR bằng phương
pháp kẹp peptide trên hệ thống ABI 7500 FAST.

Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0.
Yếu tố nguy cơ được đánh giá bằng phương trình
hồi quy Logistic cho biến nhị phân.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của
nhóm bệnh nhân nghiên cứu:

Bảng 1. Một số đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu:
Đặc điểm
Tuổi trung bình
≥60
40 – 59
< 40
Giới

98

Nam
Nữ

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

Số lượng (n=572)
63,57±10,53 (29 - 95 )
387
177
8
441

131

Tỷ lệ (%)
67,7
30,9
1,4
77,1
22,9


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Hút thuốc


Khơng
Số bao- năm

374

65,4

198

34,6
25,38 ±6,65

Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 63,57 tuổi, thấp nhất 29 tuổi, cao nhất 95 tuổi, trong đó
đa số (67,7%) có độ tuổi trên 60 với. Tỷ lệ nam/nữ khoảng 3,5/1. 65,4 % bệnh nhân có tiền sử hút thuốc
với trung bình 25,38 bao- năm.

Bảng 2. Kết quả phân týp mô bệnh học và đặc điểm đột biến gen EGFR
Mô bệnh học
Ung thư biểu mô tuyến
Ung thư biểu mô vảy
Ung thư biểu mô tế bào lớn
UTPKTBN chưa phân týp
Ung thư biểu mô tuyến-vảy
Tỷ lệ đột biến gen EGFR

Số lượng
458
18
7
88
1

Tỷ lệ (%)
80,1
3,1
1,2
15,4
0,2

Dương tính
Âm tính

238

41,6


334

58,4

Tổng

572

100%

2
138
93
3
2
238

0,8
58
39,1
1,3
0,8
100%

Vị trí đột biến gen
exon 18
exon 19
exon 21
exon 20-21
exon 20

Tổng

Týp ung thư biểu mô tuyến chiếm chủ yếu với
80%, trong khi đó các týp mơ bệnh học khác chiếm
tỷ lệ thấp. Đột biến gen EGFR dương tính gặp ở
41,6% bệnh nhân, chủ yếu đột biến xảy ra tại exon
19 với 58%, exon 21 (L858R) là 39,1%,3 trường

hợp xảy ra đột biến kép tại exon 20 (T790M) và
exon 21, ở exon 18 và 20, mỗi vị trí có 2 bệnh nhân
mang đột biến gen EGFR.
Đặc điểm di căn xa ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tỷ lệ các vị trí di căn xa thường gặp

Bảng 3. Tỷ lệ các vị trí di căn xa thường gặp
Vị trí di căn xa

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Di căn xương

271

47,4

Di căn màng phổi

172


30,1

Di căn phổi đối diện

163

28,5

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

99


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Di căn não

155

27,1

Di căn gan

47

8,2

Di căn tuyến thượng thận


46

8

Di căn xương chiếm 47,4%, tiếp theo là di căn màng phổi với 30,1%, di căn phổi đối diện chiếm 28,5%,di
căn não 27,1%, trong khi đó, tỷ lệ di căn gan và tuyến thượng thận thấp nhất, lần lượt là 8,2% và 8%.
Mối liên quan giữa một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng và vị trí di căn
Bảng 4,5. Một số yếu tố liên quan với di căn xương
Yếu tố

Giới

Hút thuốc

Vị trí u

Mơ bệnh học

Đột biến gen

nam

nữ



khơng

Phải


trái

Tuyến

Khơng
tuyến



khơng



46,7

49,6

46,5

49

49,9

43,9

48

44,7

53,8


42,8

Khơng

53,3

50,4

53,5

51

50,1

56,1

52

55,3

46,2

57,2

Di căn xương

P

>0,05


>0,05

>0,05

B

p

OR

Giới

,025

,935

Hút thuốc

-,020

Vị trí u

>0,05

=0,01

95% C.I.for EXP(B)
Lower


Upper

1,025

,567

1,852

,940

,980

,583

1,648

-,210

,226

,811

,577

1,139

Mơ bệnh học

,054


,801

1,055

,694

1,605

Đột biến gen

,428

,015

1,535

1,087

2,167

Ở bệnh nhân có đột biến gen EGFR tỷ lệ di căn xương là53,8%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bệnh
nhân khơng có đột biến gen EGFR (p=0,01). Bệnh nhân có đột biến gen EGFR, nguy cơ xuất hiện di căn
xương cao gấp 1,5 lần bệnh nhân khơng có đột biến gen EGFR (p=0,015, khoảng tin cậy 95%: 1,087 –
2,167). Không thấy mối liên quan giữa di căn xương với các đặc điểm khác.
Bảng 6. Một số yếu tố liên quan với di căn não
Giới

Yếu tố

Hút thuốc


Vị trí u

Mơ bệnh học

Đột biến gen

nam

nữ



khơng

Phải

Trái

Tuyến

Khơng
tuyến



khơng




28,3

22,9

27,8

25,8

25,5

29,6

27,5

25,4

25,6

28,1

Khơng

71,7

77,1

72,2

74,2


74,5

70,4

72,5

74,6

74,4

71,9

Di căn não

P

>0,05

>0,05

100

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

>0,05

>0,05

>0,05



NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Khơng thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các đặc điểm lâm sàng, cận liên quan với tình trạng
di căn não.
Bảng 7,8. Một số yếu tố liên quan với di căn tuyến thượng thận 2 bên
Giới

Yếu tố

Hút thuốc

Vị trí u

Mơ bệnh học

Đột biến gen

thượng thận

nam

nữ



khơng

Phải


Trái

Tuyến

Khơng
tuyến



khơng



10,2

0,8

10,2

4

7,0

9,6

7,2

11,4

3,4


11,4

Khơng

89,8

99,2

89,8

96

93

90,4

92,8

88,6

96,6

88,6

P

<0,05

<0,05


>0,05

B

p

OR

Giới

2,502

,021

Hút thuốc

-,069

Vị trí u

>0,05

<0,05

95% C.I.for EXP(B)
Lower

Upper


12,202

1,456

102,228

,876

,933

,394

2,213

,250

,428

1,284

,692

2,383

Đột biến gen

-1,063

,008


,345

,157

,762

Mơ bệnh học

-,330

,352

,719

,359

1,440

Có mối liên quan giữa giới tính, tiền sử hút thuốc và tình trạng đột biến gen EGFR với di căn tuyến
thượng thận. Trong đó, nhóm bệnh nhân nam giới có nguy cơ xuất hiện di căn tuyến thượng thận cao gấp
12,2 lần so với nữ giới (p=0,021, khoảng tin cậy 95%: 1,456 – 102,228), cịn bệnh nhân có đột biến gen
EGFR dương tính có tỷ lệ di căn tuyến thượng thận thấp hơn nhóm cịn lại(p=0,008).
Bảng 9,10. Một số yếu tố liên quan với di căn màng phổi
Giới

Yếu tố

Hút thuốc

Vị trí u


Mơ bệnh học

Đột biến gen

màng phổi

Nam

nữ



khơng

Phải

trái

Tuyến

Khơng
tuyến



khơng




26,1

43,5

27

35,9

29

31,3

29,7

31,6

33,6

27,5

Khơng

73,9

56,5

73

64,1


71

68,7

70,3

68,4

66,4

72,5

P

<0,05

<0,05

>0,05

>0,05

>0,05

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

101


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG


Giới
Hút thuốc
Vị trí u
Đột biến gen
Mơ bệnh học

B

p.

OR

-,997
,281
,126
,165
-,151

,004
,373
,507
,390
,516

,369
1,324
1,134
1,180
,860


Giới tính có liên quan đến tình trạng di căn màng
phổi ở bệnh nhân UTPKTBN với p< 0,05, trong đó
nữ giới có nguy cơ di căn màng phổi cao hơn nam
giới p= 0,004, khoảng tin cậy 95%: 0,188 – 0,723.
Khi đánh giá các đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng liên quan đến di căn gan và phổi đối diện,
chúng tôi khơng thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nhóm có đặc điểm lâm sàng khác
nhau liên quan đến tình trạng di căn phổi đối diện
và di căn gan ở bệnh nhân UTPKTBN.

BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tơi, tuổi trung bình
của bệnh nhân là 63,57 tuổi, thấp nhất 29 tuổi, cao
nhất 95 tuổi, tuổi hay gặp nhất là bệnh nhân có độ
tuổi trên 60 với 67,7%. Phần lớn bệnh nhân có tiền
sử hút thuốc chiếm 64,1%, với trung bình 25,38
bao – năm. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trong nước và trên Thế giới, tuổi càng cao nguy cơ
mắc ung thư phổi càng tăng, cũng như đa số bệnh
nhân ung thư phổi nói chung và UTPKTBN nói
riêng có liên quan đến tiền sử hút thuốc[1-3]. Tuy
nhiên, kết quả này cũng cho thấy xu hướng trẻ hóa
độ tuổi bệnh nhân ung thư phổi với 8 bệnh nhân
chiếm 1,4% số bệnh nhân có độ tuổi dưới 40.
Phân tích đặc điểm mơ bệnh học chúng tơi thấy
nhóm mô bệnh học gặp nhiều nhất là ung thư biểu
mô tuyến chiếm tỷ lệ 80,1%, tỷ lệ các týp ung thư
khác rất thấp: biểu mô vảy 3,1%, tế bào lớn 1,2%,

ung thư biểu mô tuyến-vảy 0,2%, UTPKTBN chưa
phân týp 15,4%. Kết quả này tương tự với các nghiên

102

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020

95% C.I.for EXP(B)
Lower
Upper
,188
,723
,713
2,459
,782
1,643
,809
1,720
,546
1,355

cứu hiện nay, khi týp biểu mô tuyến đang ngày càng
chiếm ưu thế ở bệnh nhân UTPKTBN. Nghiên cứu
của Tamura và cs năm 2014 thấy týp biểu mô tuyến
chiếm 74,5%, biểu mô vảy 22,2%[3]. Kết quả trong
nghiên cứu này tỷ lệ ung thư biểu mơ vảy thấp có
thể được lý giải do một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân
ở dạng UTPKTBN chưa phân týp tế bào.
Về đột biến gen EGFR, tỷ lệ bệnh nhân có đột
biến gen EGFR dương tính là 41,6%, chủ yếu đột

biến xảy ra tại exon 19 với 58%, exon 21 (L858R)
là 39,1%. Có 3 trường hợp xảy ra đột biến kép tại
exon 20 (T790M) và exon 21, còn ở exon 18 và 20,
mỗi vị trí có 2 bệnh nhân mang đột biến gen EGFR.
Các nghiên cứu về tỷ lệ đột biến gen EGFR hiện nay
cho thấy, ở người châu Á có khoảng 30 – 50% bệnh
nhân xuất hiện đột biến gen này và đột biến gen
EGFR xảy ra chủ yếu là đột biến xóa đoạn ở exon 19
và đột biến điểm L858R ở exon 21[9].
Ung thư phổi hay UTPKTBN có thể di căn đến
bất cứ vị trí nào trên cơ thể người bệnh, trong đó các
vị trí di căn xa thường gặp là xương, não, phổi đối
diện, màng phổi, tuyến thượng thận 2 bên và gan.
Trong nghiên cứu này chúng tơi thấy, vị trí di căn
xa chiếm tỷ lệ nhiều nhất là di căn xương với 47,4%,
tiếp theo là di căn màng phổi chiếm 30,1%, di căn
phổi đối diện 28,5%,di căn não 27,1%, trong khi đó,
tỷ lệ di căn gan và tuyến thượng thận thấp, lần lượt là
8,2% và 8%. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy,
tỷ lệ di căn não ở bệnh nhân UTPKTBN chiếm
khoảng 10 – 15% ở thời điểm được chẩn đoán và
khoảng 40 – 50% khi bệnh tiến triển[10], di căn


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

xương chiếm tỷ lệ khoảng từ 13 – 40% các trường
hợp[6]. Trong nghiên cứu của mình, Tamura và
cộng sự thấy tỷ lệ các vị trí di căn lần lượt là di căn
màng phổi màng ngoài tim 38,3%, xương 34,3%,

phổi 32,1%, não 28,4%, thượng thận 16,8% và gan
13,4%[3].
Về vấn đề đánh giá mối liên quan giữa các vị trí
di căn xa với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng, chúng tơi đi phân tích đa biến giữa các vị trí di
căn này với các yếu tố giới tính, tiền sử hút thuốc,
phân loại mơ bệnh học, vị trí khối u bên phải, bên
trái và theo tình trạng đột biến gen EGFR.
Với di căn xương, chúng tôi cho thấy, ở bệnh
nhân di căn xương, tỷ lệ đột biến gen EGFR là
53,8%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
khơng có đột biến gen EGFR (p<0,05). Tiếp tục
phân tích bằng phương trình hồi quy tuyến tính,
chúng tơi thấy rằng, bệnh nhân có đột biến gen
EGFR nguy cơ xuất hiện di căn xương cao gấp 1,5
lần bệnh nhân khơng có đột biến gen EGFR với
p=0,015, khoảng tin cậy 95%: 1,087 – 2,167. Chúng
tơi khơng thấy có mối liên quan giữa các yếu tố lâm
sàng, cân lâm sàng khác với tình trạng di căn xương.
Kết quả này tương tự kết quả của Kuijpers và cộng
sự, ở bệnh nhân đột biến gen EGFR dương tính,
tỷ lệ di căn xương là 53,8%, OR 2,55 (khoảng tin
cậy 95%: 1,80 – 3,62)[8]. Về di căn não, chúng tơi
khơng thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các yếu tố được khảo sát đối với nguy cơ di căn não
ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Ở bệnh nhân có
đột biến gen EGFR dương tính, tỷ lệ có di căn não
là 25,6%, thấp hơn so với nhóm bệnh nhân khơng
có đột biến gen EGFR (28,1%). Kết quả này tương
tự kết quả nghiên cứu của Tamura và cs khi khơng

thấy có mối liên quan nào đến khả năng di căn não
ở bệnh nhân UTPKTBN[3]. Trong nghiên cứu của
mình Kuijpers và cộng sự cũng thấy ở bệnh nhân
có đột biến gen EGFR, tỷ lệ di căn não thấp hơn
nhóm khơng có đột biến gen EGFR (12,5% so với

22%)[8]. Ngược lại, Mitra và Shin báo cáo rằng đột
biến gen EGFR làm tăng nguy cơ di căn não ở nhóm
bệnh nhân UTPKTBN [5],[7].
Về di căn tuyến thượng thận 2 bên, giới tính,
tiền sử hút thuốc và đột biến gen EGFR có liên
quan đến tình trạng di căn tuyến thượng thận với
p< 0,05. Trong đó, nam giới có tỷ lệ di căn tuyến
thượng thận 10,2% cao hơn nữ giới (0,8%), người
có tiền sử hút thuốc có di căn tuyến thượng thận
cao hơn người khơng có tiền sử hút thuốc với tỷ
lệ lần lượt là 10,2% và 4%, ngược lại, bệnh nhân có
đột biến gen EGFR dương tính, tỷ lệ bệnh nhân
có di căn tuyến thượng thận là 3,4% thấp hơn so
với nhóm khơng có đột biến gen 11,4%( p<0,05).
Đặc biệt khi phân tích bằng hồi quy logistic chúng
tơi thấy, giới tính nam có nguy cơ xuất hiện di căn
tuyến thượng thận cao gấp 12,2 lần so với nữ giới
(p=0,021, khoảng tin cậy 95%: 1,456 – 102,228).
Kết quả trong nghiên cứu này tương tự nghiên cứu
của Kuijpers và cộng sự, ở bệnh nhân có đột biến
gen EGFR dương tính, tỷ lệ di căn tuyến thượng
thận là 7,5%, thấp hơn so với bệnh nhân khơng có
đột biến gen EGFR[8], nhưng chúng tôi chưa thấy
vấn đề liên quan giữa di căn tuyến thượng thận với

các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng khác được nói
đến trong các nghiên cứu trước đây.
Di căn màng phổi hoặc di căn gây tràn dịch
màng phổi ác tính cũng chiếm một tỷ lệ cao ở
bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn di căn xa. Chúng
tôi thấy giới tính và tiền sử hút thuốc có liên quan
đến tình trạng di căn màng phổi ở bệnh nhân
UTPKTBN trong nghiên cứu này, trong đó nữ giới
có tỷ lệ di căn màng phổi(43,5%) cao hơn nam giới
(26,1%), người khơng có tiền sử hút thuốc có tỷ lệ
di căn màng phổi (35,9%) cao hơn người hút thuốc
(27%) với p< 0,05. Tuy nhiên, khi phân tích logistic
chỉ thấy mối liên quan về giới tính đối với di căn
màng phổi(p=0,004). Cũng trong nghiên cứu này
chúng tôi thấy, tỷ lệ đột biến gen EGFR ở nhóm di
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

103


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

căn màng phổi là 33,6% cao hơn so với nhóm khơng
có di căn màng phổi (27,5%), nhưng sự khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu của
Kuijpers và cộng sự, tác giả thấy cũng rằng, ở bệnh
nhân có đột biến gen EGFR dương tính, tỷ lệ di căn
màng phổi là 37,5% cao hơn nhóm cịn lại chiếm tỷ
lệ 24,1%[8]. Tuy nhiên chúng tôi chưa thấy có tác
giả nào phân tích về mối liên quan giữa giới tính với

tỷ lệ di căn màng phổi. Có thể giải thích rằng, nữ
giới có di căn màng phổi nhiều hơn cũng liên quan
đến đột biến gen EGFR thường chiếm tỷ lệ cao hơn
ở giới tính này.

KẾT LUẬN
Đánh giá mối liên quan giữa các vị trí di căn xa
thường gặp với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm

sàng ở 572 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào
nhỏ giai đoạn IV chúng tôi thấy: Di căn xương gặp
ở 47,4% bệnh nhân, di căn màng phổi chiếm 30,1%,
di căn phổi đối diện 28,5%,di căn não 27,1%, tỷ lệ
di căn gan và tuyến thượng thận lần lượt là 8,2%
và 8%. Tỷ lệ di căn xương cao hơn ở bệnh nhân có
đột biến gen EGFR: 53,8% và ở bệnh nhân có đột
biến gen EGFR nguy cơ xuất hiện di căn xương
cao gấp 1,5 lần bệnh nhân khơng có đột biến gen
EGFR (p<0,05), nhưng tỷ lệ di căn tuyến thượng
thận lại cao hơn ở nhóm khơng có đột biến gen
EGFR(p<0,05). Nam giới và hút thuốc lá có tỷ lệ
cao di căn tuyến thượng thận (p<0,05), trong đó,
nguy cơ di căn tuyến thượng thận của nam giới cao
gấp 12,2 lần so với nữ giới; trong khi nữ giới gặp di
căn màng phổi cao hơn nam giới (p<0,05).

ABSTRACT
Relationship between commont distant metasetasis with some characteristics of clinical and paraclinical in non-small cell lung cancer patients
Purpose: To evaluate the relationship between commont distant metastasis with someclinical and
paraclinical characteristics in non-small cell lung cancer patients. Patients and methods: describe, crosssection 572 non-small cell lung cancer patients who have metastase at initial diagnosis in the period of

6 years from 2014 to 2020. Result: Bone metastase was 47.4%, pleural metastase: 30.1%, other lung
metastase: 28.5%, brain metastase: 27.1%, liver and adrenal grands metastase were 8.2% and 8%,
respectively. The ratio of bone metastase was higher in the patients who have EGFR mutations, because
it accouted for 53.8% (p<0.05) and in patients EGFR mutations positive, the risk of bone metastase was
1.5 time higher than patients EGFR negative. The percentage of adrenal grands metastase was higher in
patients EGFR negative(p<0.05). Furthermore, adrenal grands metastase was met in male and smoker
with 10.2%(p<0.05) and malewas a risk factor to increase 12.2 time of adrenal grands compare female.
Female has pleural metastase (43.5%) more than male(26.1%) (p<0.05).
Conclusion: Bone metastase was the most common of distand metastasis in non-small cell lung cancer
and it was higher than in patients with EGFR mutations. Maleand EGFR mutations negativecan to raise the
risk of adrenal grandsmetastase, whereas, female has a higher rate of pleural metastase than male.
Key word: metastase in non-small cell lung cancer, EGFR mutations.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NCCN Guideline Insights, Non – Small Cell Lung Cancer, version 3.2020, feature updates to the
NCCN Guidelines.

104

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/2020


NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

2. D.Plancard, S.Popat, K.Kerr et al (2018), Metastatic non-small cell lung cancer: ESMO clinical
practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up, Annals of Oncology 29 (Supplement 4): iv 192
– iv237.
3. Tomohiro Tamura, Koichi Kurishima, Kensuke Nakazawa et el (2015), Speccific organ metastase
and survival in metastatic non-small cell lung cancer, Molecular and clinical oncology, volume 3, pp217 – 221.
4. Wenting Ni, Wenxing Chen, Yin Lu (2018), Emerging finding into molecular mechanism of brain
metastase, Cancer Medicine, volume 7, pp 3820 – 3833.

5. Dong-Yeop Shin, Im Il Na, Cheol Hyeon Kim et al (2014), EGFR mutation and Brain metastasis in
Pulmonary Aenocarcinomas, J Thorac Oncol, 9: 195 -199.
6. Gustavo Telles da Silva, Anke Bergmann, Luiz Claudio Santos Thuler (2019), Incidence and risk
factor for bone metastasis in non-small cell lung cancer, Asian Pac J cancer Prev, volume 20 (1), pp 45 – 51.
7. Devarati Mitra, Yu-Hui Chen, Richard Li et al (2019), EGFR mutant locally advanced non-small cell
lung cancer is at increased risk of brain metastasis, Clinical and Translational Radiation Oncology, volume
18, pp 32 – 38.
8. C.C.H.J. Kuilpers, L.E.L. Hendriks, J.L. Derks et al (2018), Association of molecular status and
metastatic organs at diagnosis in patients with stage IV non Squamous non-small cell lung cncer, Lung
cancer, volume 121, pp 76 – 81.
9. Yuankai Shi, Joseph Siu-Kie Au, Sumitra Thongprasert, et all (2014),A Prospective, Molecular
Epidemiology Study of EGFR mutations in Asian patients with Advanced Non – Small Cell Lung Cancer
of Adenocarcinoma hiaatology (PIONEER), Journal of Thoracic Oncology, 9 (2): 154-162.
10. Masaki Hanibuchi, Sun-Jin Kim, Isaiah J. Fidler et al (2014), The molecular biology of lung cancer
brain metastasis: an overview of current comprehensions and future perspective, The Journal of medicine
Investigation, volume 61, pp 241 – 253.

TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 19+20/20200

105



×