Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề đào tạo con người trong triết lý của nho giáo và sự vận dụng của hồ chí minh về xây dựng con người XHCN ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.21 KB, 25 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI TRONG TRIẾT LÝ CỦA
NHO GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Khái quát những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự
1.
phát triển của nó trong quá trình tồn tại
Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo
2.
3.

1
2
2
6


Sự vận dụng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10
22
23


MỞ ĐẦU
Nho giáo là một hình thái ý thức xã hội, đã từng trải qua những bước
thăng trầm trong lịch sử, nó có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống tinh thần của
nhân dân các nước trong “vành đai Nho giáo”. Những tư tưởng Nho giáo đã
từng in đậm trong tâm thức của nhân dân Việt Nam và góp phần tạo nên những
giá trị văn hoá truyền thống, tạo nên nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc Việt Nam,
lưu truyền đến ngày nay. Trong xã hội hiện đại, tuy Nho giáo khơng cịn giữ vai
trị thống trị và chỉ tồn tại với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội và đạo
đức, song những nguyên lý cơ bản của nó vẫn cịn tiếp tục ảnh hưởng, tác động
nhất định đến sự phát triển của các nước nói trên, đặc biệt là vấn đề đào tạo con
người trong triết lý của Nho giáo có giá trị to lớn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản quý báu của nhân dân ta và cũng là tài
sản văn hoá chung của cả nhân loại. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã được Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng triết học Chủ tịch
Hồ Chí Minh là sự phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin và có sự vận dụng
sáng tạo vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam [1, tr.67]. Nội dung tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh được thể hiện trong tồn bộ di sản lý luận của Người mà vấn
đề quan trọng nhất là xây dựng con người.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu: “Vấn đề đào tạo con người trong triết lý
của Nho giáo và sự vận dụng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa rất thiết thực góp phần làm rõ thêm
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, làm giàu thêm giá trị di sản tư
tưởng của Người, đồng thời khẳng định sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh
về vấn đề đào tạo con người trong triết lý Nho giáo, từ đó vận dụng xây dựng
con người mới đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

1


NỘI DUNG
1. Khái quát những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự phát triển
của nó trong q trình tồn tại
“Nho giáo” là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “Nho” theo gốc Hán tự,
“Nho” là chữ “Nhân” đứng cạnh chữ “Nhu” (mềm mỏng). Tư tưởng chính của
Nho là phép đối nhân xử thế ở đời sao cho phù hợp với tôn ti trật tự trong xã hội,
được xuất phát từ thời Tây Chu.
Đến thời Xuân Thu, Khổng tử đã hệ thống những tư tưởng và tri thức
trước đó thành học thuyết, gồm các tác phẩm: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết
sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Các thế hệ học trị tiếp theo đã
dựa vào tư tưởng của Khổng Tử, viết thành sách Luận Ngữ, Đại Học, Trung
Dung, Mạnh Tử (Tứ thư). Tứ thư và Ngũ kinh đã trở thành kinh điển của Đạo
Nho, là con đường mà đi theo đó, nhân loại sẽ đạt tới một xã hội hoà mục, một
thế giới đại đồng như Khổng Tử hằng mơ ước. Người đời sau đã gắn học thuyết
này với tên người sáng lập ra nó là Khổng Tử, cho nên Đạo Nho cịn được gọi là
Đạo Khổng.
Khổng Tử (551 - 479 tr.CN), tên Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ,
trong một gia đình quý tộc bị sa sút. Sinh ra và lớn lên trong thời đại “Vương
đạo suy vi, bá đạo trị vì”, xã hội loạn lạc triền miên, vua quan chém giết lẫn

nhau để tranh hùng, xưng bá; luân thường, đạo lý của xã hội bị đảo lộn, thiện ác
khó phân minh… Vì thế, Khổng Tử muốn đem tài sức của mình để giúp ổn định
xã hội theo kiểu thời Tây Chu. Ông đã đi nhiều nơi và ra sức truyền bá tư tưởng
của mình nhưng vẫn khơng được trọng dụng. Cuối đời, ông quay trở về quê để
dạy học, viết sách và trở thành người khai sáng học thuyết Nho giáo.
Học thuyết của Khổng Tử được khái quát thành hệ thống quan niệm về
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, về lẽ sống và tính cách của
con người. Mục đích của học thuyết này chủ yếu là đề cao “lễ nhạc” và “nhân
nghĩa”, chủ xướng đạo “trung thứ” (hết lịng vì người, điều gì mình muốn đạt
được thì cũng giúp cho người khác đạt được, điều gì mình khơng muốn thì cũng
khơng đem áp đặt cho người khác) và đạo “trung dung” (không thiên lệch). Về
2


chính trị thì chủ trương thi hành “đức trị” và “nhân chính” (chính sách nhân từ).
Về đạo đức thì coi trọng việc giáo dục luân lý cũng như sự tu tâm, dưỡng tính
cho mỗi con người.
Khổng Tử xây dựng hệ thống quan niệm ấy không trên cơ sở từ kinh tế xã hội, mà chỉ dựa vào những quan niệm về bản chất tâm lý - xã hội và quan
niệm về đạo đức của con người. Cái bản chất tâm lý - xã hội và đạo đức đó, theo
Khổng Tử là “nhân”. Do vậy, phạm trù “nhân” vừa là xuất phát điểm, vừa là hạt
nhân tạo nên hệ thống các phạm trù khác, có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong
hệ thống các phạm trù ấy thì ba phạm trù “nhân”, “lễ” và “chính danh” có nội
dung và ý nghĩa quan trọng nhất, tạo nên một triết lý nhân sinh có bản sắc hết
sức độc đáo.
Khổng Tử quan niệm “nhân” là đạo đức hoàn thiện nhất với cốt lõi là lịng
thương u con người; vì thế, ơng ln đề cao “đức nhân”, bản thể hố “đạo
nhân”, coi đó là đạo của trời đất, là bản chất của con người, là gốc rễ nảy sinh
các đức tính tốt khác của con người; trong “Luận ngữ” Khổng Tử đã hơn 100
lần đề cập đến chữ “nhân” … Do vậy, Khổng Tử luôn khuyên con người phấn
đấu để đạt tới đạo nhân, với những nội dung chủ yếu là: coi lợi ích của người

khác như của chính mình; mình muốn lập thân thì phải giúp cho người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp cho người khác thành đạt; tơn trọng và
tuân theo các chuẩn mực của xã hội; thực hiện trọn đạo làm người. Muốn trở
thành người có lịng nhân thì phải thực hiện 5 điều cơ bản: “cung, khoan, tín,
mẫn, huệ”. Như vậy, “Nhân” là kết tinh cao nhất trong triết lý của Khổng Tử, là
cơ sở lý luận cho đường lối “đức trị” của Nho giáo.
Để thi hành tốt đường lối “đức trị”, Khổng Tử chủ trương thi hành “lễ”; bởi
vì, “nhân” được biểu hiện trước hết thơng qua “lễ”, “lễ” là phương tiện để đạt tới
điều “nhân” và là căn nguyên quan trọng nhất tạo nên sự ổn định của xã hội.
Khổng Tử cho rằng, trong xã hội, mỗi người đều có một chức năng, địa vị
trong mối quan hệ nhất định, tương ứng với nó là một danh nhất định; vì thế,
theo ơng, muốn thực hiện đúng lễ thì phải xác định đúng vị trí và danh phận của
mình (chính danh); muốn chính danh thì phải lấy lễ làm chuẩn mực và phải hành
3


động sao cho tương xứng giữa thực với danh. Danh - thực tương xứng với nhau
vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện đúng lễ. Dó đó, chính danh
cũng là con đường để đạt tới điều nhân.
Khổng Tử chia quan hệ của con người trong xã hội thành năm mối quan
hệ (ngũ luân): Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ, Huynh - Đệ, Bằng - Hữu và
quy định những tiêu chuẩn riêng cho từng mối quan hệ: Quân nhân - thần trung,
phụ từ - tử hiếu, phu nghĩa - phụ thính, huynh lương - đệ đễ và bằng hữu phải
thành tín. Trong các quan hệ trên, Khổng Tử rất coi trọng ba mối quan hệ rường
cột là: Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ gọi là tam cương.
Khổng Tử rất quan tâm đào tạo nên mẫu người Quân tử (Quân: cai trị,
Quân tử: người cai trị) để tham gia quản lý điều hành xã hội. Muốn thành quân
tử thì trước hết phải tu thân, vì khơng tu thân thì khơng thể giúp ích cho đời.
Quá trình tu thân phải đạt cho được ba mục đích chính: “Đạt đạo” thơng qua
cách ứng xử “trung dung”, “Đạt đức” thông qua các hành động chuẩn mực và

phải biết “thi”, “thư, “lễ”, “nhạc”. Tu thân xong thì phải hành động để “tề gia”,
“trị quốc”, “bình thiên hạ” theo phương châm: đức trị - người cầm quyền phải
ln nêu gương, cảm hố người dưới bằng đạo đức trong sáng của mình; lễ trị người cầm quyền thực hiện cai trị bằng cách duy trì các chuẩn mực mà con
người phải tuân theo và văn trị - người cầm quyền phải coi trọng văn hiến để thu
phục nhân tâm.
Tuy khơng thành cơng về hoạt động chính trị, nhưng về mặt văn hố giáo
dục, Khổng Tử đã có nhiều cống hiến nên được coi là “Đại sư” đầu tiên của
Trung Quốc. Trong dạy học, Khổng Tử chú trọng cả ba mặt: đạo đức, kiến thức
và thực tiễn; theo ông, đạo đức có tầm quan trọng hàng đầu. Ơng thường khuyên
học trò phải gắn học với hành, phải khiêm tốn và có thái độ thực sự cầu thị trong
học tập.
Tóm lại, học thuyết của Khổng Tử tuy còn mâu thuẫn về thế giới quan và
thừa nhận đường lối chính trị đẳng cấp theo thuyết chính danh, nhưng chứa
đựng triết lý hành động đầy tính nhân văn, nặng đức nhẹ hình, khuyến khích tu
thân để đạt tới một xã hội thái bình thịnh trị. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết
4


của ơng được các thế hệ học trị tiếp tục phát triển. Tiêu biểu trong số họ là
Mạnh Tử.
Tư tưởng của Mạnh Tử tập trung vào những vấn đề triết lý nhân sinh,
trọng tâm là bản thể nhân tính của con người. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con
người là thiện, do trời phú cho và chịu tác động của mơi trường xã hội; vì thế,
ơng ln khuyến khích mọi người tư dưỡng đạo lý để bảo tồn tính thiện.
Trên cơ sở học thuyết về tính thiện, theo Mạnh Tử, để thuận với đạo trời và
hợp với lịng người thì nhà cầm quyền phải thi hành thuyết “nhân chính” để trị
nước theo tinh thần cốt lõi là “trọng nhân” và “trọng dân”. Ông là người đầu tiên
nêu tư tưởng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Mạnh Tử cho rằng, để
nâng cao hiệu quả giáo dục thì phải tn theo chuẩn mực, chuẩn mực đó chính là
đức độ của thánh hiền. Ơng khơng chỉ địi hỏi người học phải chun tâm, từ chí,

khiêm tốn, cầu tiến, khơng được tự thoả mãn…, mà còn đòi hỏi người dạy phải
ln ln tự sửa lấy mình, ln giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình
cong queo thì khơng thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”.
Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng - giai đoạn hình thành Nho
giáo; cịn gọi là Nho giáo ngun thuỷ, hay Nho giáo tiên Tần, và còn được gọi
là học thuyết Khổng - Mạnh. Những công lao của Mạnh Tử thật xứng đáng để
hậu thế phong ông là Á thánh.
Thời cổ đại các vua chúa Trung Quốc không tán thưởng Học thuyết Nho
giáo nguyên thuỷ theo tư tưởng Khổng - Mạnh. Thế nhưng, từ thời Hán trở đi,
Nho giáo được tôn là quốc giáo và trở thành tư tưởng thống trị kéo dài hơn
2.000 năm.
Nho giáo bị biến đổi lần thứ nhất vào thời Hán, gọi là Hán Nho, gắn với
vai trị của Đổng Trọng Thư. Ơng đã khuyếch trương những yếu tố duy tâm
trong học thuyết của Khổng - Mạnh, của phái “Âm dương - Ngũ hành” và các
trường phái khác để nhào nặn nên thứ học thuyết của mình, mang đậm màu sắc
thần bí, duy tâm và khắc nghiệt. Nho giáo qua bàn tay “chế biến” của Đổng
Trọng Thư đã có bước thụt lùi, nghèo nàn, xơ cứng. Nó đã đẻ ra cách học hành
5


thi cử máy móc, thiếu tính sáng tạo; đồng thời, để lại nhiều tấm gương hiếu trung mù quáng (ngu hiếu, ngu trung) sau này.
Thời Tuỳ, Đường, không những Nho giáo mà cả Đạo giáo, Phật giáo đều
được lưu hành và được triều đình ủng hộ. Đến đời Tống thì Nho giáo mới quay
trở lại vị trí là quốc giáo và mang tính độc tơn hơn hết, song nó lại có những
điểm khác biệt căn bản do đã tiếp thu khá nhiều tư tưởng của Đạo giáo và Phật
giáo, nhất là về thế giới quan duy tâm. Nho giáo đã bị biến đổi lần thứ hai vào
đời Tống, gọi là Tống Nho, gắn với vai trò của các bậc danh nho thời đó, tiêu
biểu là Chu Hy. Chu Hy đã đưa các khái niệm “Lý” và “Khí” vào giải thích bản
thể luận một cách cụ thể và chặt chẽ, nhưng đã thủ tiêu mất ý nghĩa có tính biện
chứng trong học thuyết âm- dương. Mặt khác, việc bổ sung khái niệm “tiết liệt”

vào cách ứng xử đã tạo nên sự khác biệt lớn trong quan niệm về đạo đức giữa
Tống Nho với Nho giáo trước đó. Tuy nhiên, Chu Hy cũng có cơng trong việc
giảng giải, chú thích các sách kinh điển của Nho giáo một cách sâu sắc hơn.
Các triều đại Minh, Thanh về sau, mặc dù cũng xuất hiện nhiều nhà nho
nổi tiếng và có bổ sung thêm một số tư tưởng mới vào Nho giáo; song, về căn
bản đều theo những tư tưởng của Tống Nho.
Như vậy, trước yêu cầu củng cố vương quyền và rút kinh nghiệm thất bại
của nhà Tần, các triều đại phong kiến Trung Quốc sau này đã sử dụng Nho giáo
gắn với thi hành pháp trị để thực hiện bá đạo. Thực chất của việc đưa Nho giáo
lên vị trí độc tơn ở đời Hán là để ngăn cấm mọi tự do học thuật và tạo điều kiện
cho việc diễn giải xuyên tạc các quan điểm của Nho giáo theo tư tưởng Pháp
gia, đời Tống lại càng mạo danh Nho giáo để thực hành Pháp gia quyết liệt hơn.
Vì thế, những yếu tố tích cực trong học thuyết Nho giáo thời Khổng - Mạnh
ngày càng bị lu mờ theo thời gian.
2. Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo
Đào tạo con người - giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong triết lý của
Nho giáo. Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo xuất phát từ luận
điểm cho rằng tuy bản chất đơn sơ của mọi người gần giống nhau, song do sự
tác động của môi trường, của điều kiện sống sẽ đem lại lại cho người này tính
6


lành, kẻ kia tính ác. Nội dung đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo
không đi vào các nghề làm ruộng, làm vườn, cầm quân, đánh giặc mà chuyên
dạy cách làm người, dạy đạo lý, dạy nghĩa vụ cuộc đời, dạy tu dưỡng tinh thần,
chau chuốt nhân cách và ít nhiều dạy văn chương, nhạc nghệ.
Chủ trương đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo là bình dân giáo
dục, xóa nạn mũ chữ trong tồn dân.
Nội dung đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo là cho dân không
làm điều ác, không phạm tội. Nếu khơng giáo hóa dân, để dân phạm tội rồi giết,

như vậy tàn ngược. Với quyết định này, thì trước hết phải dạy cho dân biết điều
thiện, ác để mà thực thi.
Về phương pháp đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo chủ trương
trước hết phải dạy những điều đơn giản, sau đó dần dần dạy đến những điều
phức tạp. Trả lời vấn đề học như thế nào và cách học, cách dạy. “Tiên chi dĩ Thi
Thư, nhi đạo chi dĩ hiếu đễ, thuyết chi dĩ nhân nghĩa, quan chi dĩ lễ nhạc, nhiên
hậu thành chi dĩ văn đức”: trước hết dùng những điều đơn giản hàng ngày mà
dạy, rồi lấy hiếu đễ mà dẫn dắt người ta, lấy nhân nghĩa mà giảng dụ, lấy lễ nhạc
khiến người ta xem xét, sau cùng mới lấy văn đức để dạy cho nên người (Khổng
Tử gia ngữ: Đệ tử hạnh, XII), bởi vì “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc”: Thi
làm cho ý chí hứng khởi, lễ sửa sang cho phẩm cách đứng đắn, nhạc điều hồ cho
tính tình hồn hảo (Luận ngữ: Thái bá, VII). Khi dạy điều gì cũng phải khơi dậy
tính năng động tư duy của người học, người học phải cố gắng suy nghĩ để tìm hiểu
vấn đề thì sự học mới vững chắc, ngược lại thì “Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất
phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục giã”: nếu khơng ham
hiểu biết thì khơng dạy cho, khơng nói ra được thì khơng bày cho. Vật có bốn góc,
bảo cho biết một góc mà khơng suy ra được ba góc kia thì khơng dạy nữa.
Theo triết lý của Nho giáo, việc đào tạo con người có hai phần. Phần cơng
truyền nói về ln thường đạo lý để dạy cho mọi người. Phần tâm truyền nói về
những điều cao xa, chỉ dạy riêng cho người có tư chất đặc biệt, người học phải tự
học để hiểu lấy, người dạy không nhất thiết phải giảng giải nhiều. Hơn nữa, con
người ai cũng có sẵn cái tính giống nhau do trời phú cho, nhưng vì tập nhiễm lâu
7


ngày nên khác nhau, chỉ có tính của bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là khơng hề
thay đổi. Thế nhưng, trong xã hội, bậc thượng trí và kẻ hạ ngu ln là số ít, phần
đơng là hạng trung nhân có thể dạy bảo được.
Cũng theo triết lý của Nho giáo, để nâng hiệu quả dạy học thì cả người dạy
lẫn người học đều phải tuân theo chuẩn mực đức độ của thánh hiền. Người dạy

phải ln tự sửa mình, giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình cong queo
thì khơng thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”, càng không được xấu
hổ khi học hỏi người dưới, biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết, như
thế mới là biết…. Người học phải chuyên tâm, từ chí, khiêm tốn, cầu tiến, cần
mẫn, khơng tự thoả mãn, phải quan sát nhiều, nghe nhiều, hỏi nhiều, có tư duy
sáng tạo, ôn cũ biết mới, học đi đôi với hành, hành lễ trước rồi mới học văn.
Triết lý của Nho giáo quan niệm giáo dục không phải là dạy dỗ đến tận
cùng của vấn đề mà phải làm sao dạy ít, người học phải biết nhiều, tức là chỉ
định hướng để người học phát huy được năng lực nội tại của mình. Dạy dỗ
người chỉ thúc đẩy chứ không bức bách, chỉ mở lối soi đường chứ không dẫn dắt
đến kỳ cùng. Nho giáo cũng chủ trương: “Kẻ nào chẳng cố gắng tìm hiểu, ta
chẳng chỉ cho. Kẻ nào chẳng bộc lộ tư tưởng của mình, ta chẳng khai phóng
cho. Kẻ nào, ta nói một mà chẳng suy ra được ba, ta chẳng dạy cho”.
Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo là “trước hết để tu
thân, để gần thì biết thờ cha mẹ cho trọn đạo làm con, xa thì biết thờ đế vương
cho trọn đạo quân thần”, Nho giáo rất quan tâm đến việc áp dụng kiến thức sach
vở vào cuộc sống đời thường của mỗi người. Vấn đề đào tạo con người trong
triết lý của Nho giáo luôn nhắc nhở người học của mình: “ngay như cả thuộc hết
ba trăm thiên Kinh Thi nhưng đi sứ không biết ăn, không biết nói thì việc thuộc
ba trăm thiên Kinh Thi ấy cũng bằng thừa”.
Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo được thực hiện theo
phương châm “tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ là một trong những phạm trù lớn và
cơ bản của Nho giáo. Nội hàm của Lễ phong phú. Lễ là lễ nghi (của các việc
quan, hôn, tang, tế); là quy định của xã hội về cách cư xử, giao tiếp giữa người
với người; là quy định ngơi thứ, vị trí mỗi người trong xã hội; là những chuẩn
8


tắc, quy củ không thái quá, không bất cập… Khổng Tử rất coi trọng lễ, một mặt,
ông bảo vệ các lễ nghi, kỷ cương, luân lý của nhà Chu (Tây chu), mặt khác ông

đề ra những nguyên tắc, nội dung mới hợp lý hóa những tư tưởng đó theo chiều
hướng tiến bộ. Chẳng hạn, ông yêu cầu mọi người khi thực hiện lễ cần phải chú
trọng cả nội dung và hình thức, cần có thái độ thành tâm và kính trọng…
Sau Khổng Tử, lễ được bổ sung thêm nội dung mới, nhưng nhìn chung nội
dung chính của lễ vẫn là luân lý, chuẩn mực, quy phạm của đạo đức phong kiến.
Nho giáo coi việc giáo dục đạo đức là vị trí hàng đầu và đặc biệt quan trọng. Tư
tưởng trên đã chi phối nền giáo dục thời phong kiến ở Trung Quốc cũng như ở
Việt Nam. Lễ được giáo dục sâu sắc đến mức trở thành tiêu chuẩn để đánh giá
hành vi con người, huy động được toàn thể xã hội biết q trọng người có lễ,
khinh ghét người vơ lễ, thậm chí đến mức con người thà chết chứ không bỏ lễ.
Việc đào tạo con người theo lễ mang tính khắt khe đã gị bó, trói buộc con
người, thủ tiêu tính năng động sáng tạo của cá nhân, làm cho con người thụ
động và do đó xã hội trì trệ. Nhưng việc dạy và học theo lễ cũng có mặt tích cực
ở chỗ, nó đã thể hiện sự nghiêm khắc của việc tu dưỡng đạo đức cá nhân, nó là
chất keo gắn bó con người trong xã hội, có vai trị quan trọng trong việc duy trì
ổn định, trật tự của xã hội phong kiến.
Vấn đề đào tạo con người trong triết lý của Nho giáo chú ý giáo dục nhân
cách con người theo các quy phạm đạo đức trong đạo “cương - thường” (tam
cương - ngũ thường), khuyên con người giữ và thực hiện đạo lý, giữ cái danh
trong sáng của mình. Thực hiện giáo dục nhân cách bằng sự gương mẫu, bằng
sự tu thân, cảm hóa người của người cầm quyền - người có nghĩa vụ giáo hóa
dân. Khổng Tử nói: “Bản thân (nhà cầm quyền) ngay thẳng, tuy không ra lệnh,
mọi việc vẫn trôi chảy; bản thân khơng ngay thẳng, dẫu có ra lệnh dân cũng
chẳng theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành. Kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất
cùng - Luận Ngữ. Tử Lộ) [8, tr.102]. Khổng Tử cho rằng, làm chính sự (việc
nước) cũng như giáo dục nếu bản thân mình khơng ngay thẳng thì khơng thể làm
cho người khác ngay thẳng được. Do vậy, việc giáo dục phải dùng nhân cách
của mình để cảm hóa học trị: “Chính trị là ngay thẳng. nếu ngài lấy điều ngay
9



thẳng dẫn dắt mọi người, thì ai lại dám khơng ngay thẳng?” (Chính giả chính dã.
Quân suất dĩ chính, thục cảm bất chính - Luận Ngữ. Nhan Uyên) [8, tr.487].
Nho giáo chủ trương giáo dục “Tứ giáo”: “Phu Tử lấy bốn điều để dạy
người: văn chương, đức hạnh, lòng trung thực và lịng thành tín” (Tử dĩ tứ giáo:
văn, hạnh, trung, tín - Luận Ngữ. Thuật Nhi) [8, tr.361]. Trong “tứ giáo”, Khổng
Tử vẫn coi trọng và lấy đức hạnh là cơ bản. Nội dung giáo dục là Thi, Lễ, Nhạc,
Thư, Dịch và Xuân Thu (Lục Kinh). Mục đích của việc học nội dung trên chính
là để có được lịng nhân (Đức nhân - phẩm chất đạo đức cao quý nhất của con
người mà Nho giáo luôn mong muốn mọi người có được, đặc biệt là người qn
tử). Ơng nói: “Người mà khơng có lịng nhân, dùng lễ sao được? Người mà
khơng có lịng nhân, dùng nhạc sao đươc?” (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân
nhi bất nhân, như nhạc hà?- Luận Ngữ - Bát Dật) [8, tr.239].
Những nội dung giáo dục của Nho giáo nêu trên đã cho thấy việc Nho giáo
đề cao giáo dục đạo đức (dạy đạo làm người) là điều hợp lý và có ý nghĩa khơng
chỉ trước đây mà cịn cho đến ngày nay. Ở đâu và lúc nào, nếu không chú trọng
việc giáo dục đạo đức cho con người là ở đó, khi đó, đạo đức xã hội có vấn đề,
lấy yêu cầu của hiện tại ra mà phê phán người xưa là phi lịch sử.
3. Sự vận dụng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Khác với các nhà triết học của giai cấp phong kiến, tư sản xem nhẹ vai trò
của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức đúng đắn về vai trị và vị trí của
con người trong mối quan hệ giữa con người, đặc biệt vai trò của con người lao
động với tự nhiên, con người với xã hội và con người với con người. người đánh
giá rất cao vai trò nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Con người trong
quan niệm triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ thể của các quá trình xã
hội. Trong mối quan hệ Thiên - Địa - Nhân hay Thiên thời - Địa lợi - Nhân hồ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng cho rằng Nhân hay Nhân hồ là quan trọng
hơn cả. Người nói: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân”, “Trong thế
giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân” [4, tr.97]. Chủ tịch

Hồ Chí Minh phát triển quan niệm “dân vi bản” của các nhà triết học cổ Trung
10


Quốc thành một quan niệm triết học mới cao hơn về nội dung tư tưởng và sự
khái quát:
Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
Người thường nhắc lại một câu ca dao mỗi khi nói đến vai trò của quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng:
Dễ mười lần khơng dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong.
Từ việc tiếp cận con người xã hội theo hai tuyến đối lập thiện - ác, bóc lột bị bóc lột, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng sự khái quát đó lên nghiên cứu con người
nói chung, nghiên cứu bản tính và các năng lực của con người, một phạm trù
triết học nhân văn phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khắc phục được sự
hạn chế do phương pháp duy tâm và siêu hình của các nhà triết học cổ Trung
Quốc khi họ cho rằng: Con người sinh ra vốn thiện (tư tưởng Mạnh Tử) hay Con
người sinh ra vốn ác (tư tưởng Tuân Tử) và đưa ra một nhân sinh quan hoàn toàn
mới. Nhân sinh quan này được Người nói rõ qua bài thơ Nửa đêm trong tập Ngục
trung nhật ký của Người, viết năm 1942-1943:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy sinh ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên [3, tr.178].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản tính con người cũng như các phẩm chất
nhân cách của nó khơng tự nhiên sinh ra, cũng khơng được ai ban cho, mà chỉ
được hình thành trong quá trình con người hoạt động thực tiễn nhận thức và cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo chính con người. Điều kiện, hồn cảnh sống
của con người và hoạt động thực tiễn của con người là yếu tố quyết định sự hình
thành bản bản tính con người. Trong quá trình tác động vào giới tự nhiên và cải

tạo xã hội, tức là trong quá trình hoạt động sống, thực tiễn con người mới bộc lộ
bản tính của mình, theo đó các phẩm chất xã hội của nó cũng biểu hiện ra. Vì
vậy, muốn nghiên cứu, xem xét bản chất của một con người, chúng ta phải
11


nghiên cứu con người đó trong hoạt động thực tiễn, trong q trình vận động
chứ khơng phải trong trạng thái tĩnh, không vận động, không hoạt động.
Ở đây chúng ta gặp một nguyên lý triết học quan trọng của C.Mác khi
C.Mác cho rằng tồn tại xã hội của con người quyết định ý thức của con người.
Tâm lý, tính cách, hành vi, thái độ, tư tưởng, đạo đức của con người bao giờ
cũng bị quy định bởi các điều kiện sống của họ. Giữa C.Mác và Hồ Chí Minh,
hai nhà tư tưởng lớn, tuy cách diễn đạt khác nhau về bản tính con người nhưng
lại thống nhất với nhau về nhân sinh quan và phương pháp luận. Bằng quan
niệm duy vật lịch sử về bản tính con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lại vị
trí của lao động, hoạt động thực tiễn và giáo dục trong sự hình thành các lực
lượng bản chất của con người. Không những thế, Người đã dưa con người vào
mối quan hệ sinh trưởng, sinh thành với giới tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, coi
con người là bộ phận hữu cơ của tự nhiên và xã hội. Con người trong quan niệm
triết học Hồ Chí Minh là con người hồ đồng với thiên nhiên, gắn bó với tự
nhiên, lấy tự nhiên làm tiền đề tồn tại và phát triển của mình. Con người đó
khơng chống lại tự nhiên, khơng bóc lột tự nhiên, tàn phá môi trường sống mà
bồi dưỡng, bồi đắp thêm cho tự nhiên phong phú, đa dạng. Con người u tự
nhiên, giữ gìn và bảo vệ tự nhiên chính là con người đạt đến trình độ con người
nhân văn, tức là ở trình độ phát triển cao nhất của con người. Khơng phải ngẫu
nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động “Tết trồng cây” để làm cho đất nước,
thế giới càng ngày càng xuân.
Từ quan niệm nhân văn về trồng cây để giữ gìn điều kiện sống cho con
người, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng và nâng lên một tầm cao mới của văn hoá
người trồng người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì hạnh phúc mười năm thì phải trồng cây. Vì
hạnh phúc trăm năm thì phải trồng người” [5, tr.145].
“Trồng người” (thụ nhân, chủng nhân) là tư tưởng dùng người của người
xưa vào các mục đích chính trị hay qn sự. Do đó, ý tưởng “trồng người” của
họ khơng có tính nhân văn mà chỉ có tính thực dụng, tính ích kỷ. Cịn tư tưởng
“trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì hồn tồn khác, đó là một tư tưởng
12


lớn và độc đáo về con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ mượn cái ý “trồng
người” của người xưa để biểu đạt một quan niệm duy vật, biện chứng và nhân
văn về giáo dục, xây dựng, phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa.
Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội
chủ nghĩa. Mà con người xã hội chủ nghĩa là con người chưa hề có trong lịch sử
nhân loại, khác về mọi phương diện các kiểu con người trong lịch sử.
Con người mới trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người xã
hội, con người tập thể đối lập với con người ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa dưới chế
độ tư bản; là con người có đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng,
vơ tư, mình vì mọi người, lo trước thiện hạ, vui sau thiên hạ, tận trung với nước,
tận hiếu với dân, có Nhân, có Trí, có Dũng để đấu tranh cho hạnh phúc của nhân
dân, cho dân tộc, cho nhân loại. Để có được con người đó, phải dầy công xây
dựng, dầy công giáo dục; phải trồng, phái vun đắp, bồi bổ các đức tính tốt, loại
bỏ các tính xấu để cho con người ngày mỗi đẹp, tốt mãi, vươn tới những giá trị
Chân, Thiện, Mỹ. Trồng người trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh cịn là việc
cải tạo các nhân tố cũ, các thuộc tính cũ, tạo điều kiện làm nảy nở và phát triển
các nhân tố mới, tích cực, tiến bộ, làm chuyển biến dần về lượng để đến độ nhảy
vọt về chất, trở thành con người mới, con người phát triển toàn diện. Trồng
người, do đó là một sự nghiệp văn hố - văn hố con người. Bởi vì, văn hố,
(Cuntura) theo nghĩa gốc Latinh là vun trồng, chăm bón, bồi đắp... những giá trị
tinh thần của con người. Ở đây chúng ta còn nhận thấy sự thâm thuý và uyên bác

của nhà hiền triết phương Đơng trong Hồ Chí Minh khi Người sử dụng khái
niệm trồng người.
Như vậy, với tư tưởng nhân văn về con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giải quyết vấn đề con người ở cả ba tầm cao văn hoá người: nhân bản, nhân đạo
và nhân văn.
Ở tầm cao nhân bản, là đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh
thần cho con người, để con người được sống và phát triển các năng lực của mình.

13


Ở tầm cao nhân đạo, là giải phóng thân phận nô lệ của con người, đem lại
cho con người sự tự do, trả lại cho con người vị thế của nó trong tự nhiên và xã
hội, để con người tồn tại với tính cách là con người.
Ở tầm cao nhân văn, là chăm lo xây dựng và phát triển con người vươn tới
sự hoàn thiện về thể chất và tinh thần, vươn tới chân, thiện, mỹ.
Ba tầm cao văn hoá này luôn liên hệ, quan hệ xuyên suốt với nhau. Sự hoàn
thiện và phát triển con người ở tầm cao này là điều kiện để con người vươn tới
tầm cao kia và vươn lên mãi mãi mà trong hành động tất yếu phải coi việc giải
phóng con người khỏi thân phận nơ lệ là điều kiện tiên quyết. Đó cũng là nhân
lõi, là đỉnh cao trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, là cái làm cho Người
không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hố lớn mà còn là một hiền
triết, một minh minh triết, minh minh đức của phương Đông và của nhân loại.
Tư tưởng về vai trị con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng
bàn nhiều về vai trò con người và phát huy nhân tố con người trong nhận thức
và cải tạo hiện thực. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Người đã nêu ra
luận điểm: vô luận tất cả đều do người làm ra. Những năm sau này, Người tiếp
tục khẳng định: vấn đề con người là hết sức quan trọng… làm tất cả là do con
người. Đối với mọi lĩnh vực hoạt động, Người đã xem xét vai trò con người
trong mối quan hệ biện chứng với các nhân tố khác và xác định con người là chủ

thể quyết định sự thành bại của lĩnh vực hoạt động.
Khi xem xét vai trò của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đầy đủ,
tồn diện hệ thống các yếu tố cấu thành phẩm chất và năng lực, đức và tài của
con người được biểu hiện trong hoạt động thực tiễn và chỉ rõ vai trị khơng
ngang bằng nhau của từng yếu tố đó. Người khơng bao giờ tuyệt đối hố một
yếu tố nào mà xem thường hoặc loại bỏ các yếu tố khác. Người đã đặc biệt coi
trọng vai trị của nhân tố chính trị - tinh thần, xem đó là động lực to lớn trực tiếp
của con người. Trong “Bài nói chuyện ở lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức”, Người
chỉ rõ: “nói về súng, đạn, xe tăng, máy bay thì có cái ta khơng có. Nhưng tại sao
ta nói ta mạnh hơn ? Vì thế của ta mạnh hơn” [2, tr.90].
14


Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng nhìn nhận vai trị của nhân tố con người một
cách chung chung “cho mọi con người” mà luôn đề cập rất cụ thể tới từng chủ
thể. Trong đó, Người đã chỉ rõ vai trị “là gốc”. Từ khẳng định vai trò con người,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng
phát huy sức mạnh nhân tố con người. Nói tới phát huy sức mạnh của nhân tố
con người tức là nói tới hệ thống các biện pháp rất phong phú, đa dạng để tác
động vào các động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người và mặt khác
là những biện pháp nhằm triệt tiêu các trở lực kìm hãm sự hoạt động đó. Trong hệ
thống các biện pháp tác động vào tính tích cực xã hội của con người, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln coi trọng phải giáo dục tồn diện, trong đó đặt lên hàng đầu là phải
thường xuyên làm tốt việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, mục tiêu lý tưởng chiến
đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đạo đức của người quân nhân cách
mạng. Trong bất cứ điều kiện, hồn cảnh nào thì những nội dung giáo dục này
phải luôn luôn được khơi dậy như là một động lực quan trọng hàng đầu. Hiện nay,
cùng với việc tăng cường giáo dục chính trị, đạo đức cách mạng, chúng ta phải
đấu tranh đẩy lùi được những hiện tượng tiêu cực, suy thối về chính trị tư tưởng,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Một biện pháp quan trọng nữa để phát huy nhân tố con người theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thực sự. Trong điều kiện
hiện nay việc thực hành dân chủ, chống chuyên quyền, độc đoán quan liêu đang
là vấn đề cấp thiết để tích cực hố nhân tố con người trong xã hội. Đồng thời với
thực hành dân chủ, cần phải biết “phép dùng người” một cách vô tư, khoa học.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Mình có quyền dùng người thì phải dùng
những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn, mà kéo vào
chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình”
[6, tr.276]. Động cơ dùng người một cách trong sáng, công tâm, công đức đang
là điều mà chúng ta cần phải xây dựng cho đội ngũ cán bộ, nhất là những người
đứng đầu tổ chức, nắm giữ quyền hành, trọng trách lớn. Làm tốt việc này mới
phát huy được nhân tố con người, tạo sức mạnh to lớn trong giải quyết có chất
lượng và hiệu quả cao các nhiệm vụ.
15


Có thể thấy ở Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có một con người chung chung,
trừu tượng. Đó là con người toàn diện trong một thể thống nhất cả về thể lực,
tâm lực và các mặt khác; Mỗi con người ln có sự thóng nhất giữa các mặt, các
yếu tố song song đi liền với nhau: hay - dở, thiện - ác, hiền - dữ, tốt - xấu, … Là
con người thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Theo Hồ Chí Minh con
người có tốt, có xấu nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình
người” [7, tr.60]. Hồ chí minh xem xét con người được xác định bởi điều kiện
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và con người trong tính đa dạng của nó trong các quan
hệ xã hội, các quan hệ giai cấp, tầng lớp, đồng chí đồng bào, quan hệ nghề
nghệp, giới tính, lứa tuổi… Và quan hệ trong khối thống nhất của cộng đồng dân
tộc và quan hệ quốc tế. Con người của dân tộc Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đó là tồn thể nhân dân lao động, toàn thể dân tộc Việt Nam, là con người
hiện thực, cụ thể gắn với điều kiện lịch sử Việt Nam.
Hồ Chí Minh xem xét bản chất con người mang bản chất xã hội. Để sinh

tồn con người phải lao động sản xuất. Thơng qua q trình lao động sản xuất,
con người xác lập và hình thành các mối quan hệ xã hội, đặc trưng nhất là quan
hệ giữa con người với con người. Hồ Chí Minh quan niệm con người là sản
phẩm của xã hội, con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội từ hẹp đến
rộng và chủ yếu là các quan hệ: anh - em, họ - hàng, bầu - bạn, đồng bào - loài
người. Người chỉ dùng khái niệm con người ở trong một số trường hợp đặc biệt,
như trong bản bổ sung cho Di chúc Hồ Chí Minh viết: “Đầu tiên là công việc đối
với con người” hay trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa Hồ Chí Minh
dùng cụm từ phẩm giá con người, trong lời kêu gọi ở báo Người cùng khổ Hồ
Chí Minh viết sứ mệnh của tờ báo này là giải phóng con người.
Khi được soi sáng bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan niệm của
Hồ Chí Minh về con người đã vượt lên tư duy của các bậc nho sĩ, đó là “con
người được quy định bởi hoàn cảnh sống của họ, do họ tạo ra trong thực tiễn:
Cho nên giải quyết mọi việc xã hội của con người là phải đặt trong mối quan hệ
con người với hồn cảnh đó mà phát huy tính tự giác, năng động của con người
giải quyết. Mọi việc tu dưỡng đạo đức cá nhân cũng như đấu tranh giành lại chủ
16


quyền hay quản lý đất nước đều không đặt trong mối quan hệ với lực lượng siêu
nhiên hoặc phụ thuộc tuyệt đối vào tự nhiên” [4, tr.111].
Với thế giới quan mácxít, tuân thủ quyết định luận duy vật, quan niệm con
người trong Hồ Chí Minh khơng phải là con người chung, phi lịch sử, trừu
tượng, đó là con người của hiện thực, sinh động trong thực tiễn, cụ thể, trước hết
là quản đại quần chúng nhân dân lao động và những quần chúng bị đọa đày đâu
khổ không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi tồn thế giới, khơng phân biệt màu
da và dân tộc. Hồ Chí Minh Người cũng ý thức sâu sắc về sự tương tác biện
chứng giữa hồn cảnh sống và con người của chính con người tạo ra trong quá
trình phát triển của lịch sử xã hội.
Tư tưởng giải phóng con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất rộng lớn và tồn

diện, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng, ở một xã hội thuộc địa, mọi giai tầng, cả dân
tộc, cả sĩ, nông, công, thương, cả đồng bào Lương và đồng bào Giáo... đều bị áp
bức, bóc lột. Với lịng thương u con người, Hồ Chí Minh mong muốn giải
phóng cho tất cả mọi người. Vì vậy, trong khi chú trọng đến những tầng lớp đói
khổ nhất, đơng đảo nhất, đồng thời Người khơng bao giờ quen những giai tầng
khác. Ở Hồ Chí Minh, mọi người dân yêu nước Việt Nam đều có chỗ đứng vững
chắc trong khối đại đoàn kết dân tộc. Đây cũng là cơ sở tạo nên sức mạnh vô
địch của cách mạng Việt Nam. Và điều này lý giải vì sao Hồ Chí Minh ln kêu
gọi đồn kết. Theo Người, có đại đồn kết mới có đại thành cơng.
Giải phóng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, việc giải phóng con người được quan niệm tồn diện là
giải phóng khỏi những tai hoạ do cái đói, cái rét, cái dốt gây ra, tức là giải phóng
con người tồn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hố, cả đời sống vật chất và đời
sống tinh thần. Cho nên, để chống đói, rét, dốt, trước hết phải thoát khỏi nỗi
nhục của người dân mất nước. Theo Hồ Chí Minh, hạnh phúc, tự do, cơm no, áo
ấm, được học hành là mục tiêu của đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Và ngược lại, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội cuối cùng cũng để đi
tới giải phóng con người. Người viết: Đề ra những luận cương dài dằng dặc và
thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ
17


trước vẫn làm thì chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể. Người nhấn mạnh:
Nước độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì. Theo Người, mỗi thành tựu của sự nghiệp đấu tranh, xây
dựng xã hội mới phải là một bước cụ thể nâng cao đời sống của nhân dân. Mọi
hoạt động của Đảng và Chính phủ đều phải thiết thực nhằm vào mục đích phục vụ
nhân dân. Đó là một tiêu chí đánh giá sự đúng, sai của đường lối, chính sách.
Người viết: Tất cả những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời
sống cho nhân dân. Làm gì mà khơng nhằm mục đích ấy là khơng đúng.

Một nét đặc sắc trong tư tưởng giải phóng con người của Hồ Chí Minh là
tự giải phóng, giải phóng bằng sức mạnh của chính mình. Phân tích vai trị của
thuộc địa trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ thuộc địa là nơi
tập trung “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa..., trở thành
nền tảng của lực lượng phản cách mạng”. Điều đó quy định sức mạnh và tính
năng động cách mạng to lớn của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham
khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có
thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hồn tồn” [5, tr.317]. Ở Đơng Dương, Người cũng dự báo một sự bùng nổ tất
yếu, rất quyết liệt, rất mạnh mẽ, khơng gì ngăn cản nổi, đó là cuộc đấu tranh của
nhân dân tự giải phóng. Người nhận định: Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn
bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công
cuộc giải phóng nữa thơi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự giải phóng khác hẳn với tư tưởng cầu viện
của Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu là muốn dựa vào Nhật hoặc Pháp để cứu
nước. Tư tưởng của Hồ Chí Minh cũng không giống tư tưởng trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó, khi nêu lên sự phụ thuộc của cách mạng
18


thuộc địa vào cách mạng ở chính quốc. Mặc dù đánh giá rất cao sức mạnh của
nhân tố thời đại, sức mạnh của đồn kết quốc tế vơ sản, nhưng Hồ Chí Minh
khơng bao giờ ỷ lại, trơng chờ một cách thụ động, sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Người cho rằng: Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình
đã. Vì vậy, trong Cách mạng Tháng Tám, Người kêu gọi: Toàn quốc đồng bào

hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta. Người nhấn mạnh: Mỗi một
người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, tư tưởng tự lực, tự cường của Hồ Chí Minh đã thể
hiện rất rõ ở đường lối toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến với phương
châm lâu dài, dựa vào sức mình là chính và tinh thần “mỗi công dân là một
chiến sĩ, mỗi làng là một chiến hào. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, Người vẫn nhấn mạnh: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn
giúp ta là phụ. Người còn chỉ rõ: Lực lượng nhân dân ta tổ chức nhau lại là
chính. Khơng nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh. Việc cải thiện đời sống cho
nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính. Theo tư tưởng của
Người, cách mạng Việt Nam đã phát huy được nội lực với tính năng động rất to
lớn. Thực tiễn đã cho thấy, bằng sức mạnh của một dân tộc đất không rộng, người
không đơng, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nhưng hồn tồn có thể tiến hành thắng
lợi cơng cuộc đấu tranh tự giải phóng.
Cứu nước, cứu dân nhằm giải phóng con người là mục đích tối cao trong
suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nhằm thực hiện mục
đích ấy, Người cho rằng khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản. Muốn vậy phải lập ra chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân, đó là
Đảng phấn đấu hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành cơng, Đảng ta trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền.
Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải hiểu rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là nhân dân làm chủ. Tức là cán bộ và nhân viên từ cấp trên đến cấp dưới đều là
đầy tớ của nhân dân, đều phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Động cơ giải
phóng triệt để con người ở Hồ Chí Minh hết sức trong sáng. Khi phải đảm nhận
cơng việc đứng đầu Nhà nước, đứng đầu Chính phủ, Người nói: Tơi tuyệt nhiên
19


không ham muốn công danh phú quý chút nào... Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn

toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Người cịn giải thích: Chính phủ Cộng hồ Dân chủ là gì? Là đầy tớ chung của
dân, từ Chủ tịch tồn quốc đến làng. Người cịn khẳng định mục đích xây dựng
chủ nghĩa xã hội là: làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc. Như vậy,
theo Hồ Chí Minh, những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam - Đảng
và chính quyền, bản chất của chế độ và mục đích của xã hội mới đều dựa tren
nền nhân dân, hướng vào mục đích giải phóng nhân dân, giải phóng con người.
Cho đến cuối cuộc đời, trong Di chúc, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định tư
tưởng nền gốc ấy. Đoạn mở đầu Di chúc, Người viết: Đầu tiên là công việc đối
với con người. Tổng kết lại quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người chỉ
tiếc khơng cịn được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa. Trước lúc đi xa, Người vẫn
không nguôi nỗi niềm thương nhớ toàn dân. Đoạn cuối Di chúc, Người viết:
Cuối cùng, tơi để lại mn vàn tình thân u cho tồn dân, toàn Đảng, cho toàn
thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là vì con người, nhằm giải
phóng con người. Đó là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và cũng là lý tưởng
nhân văn của Người. Ở Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
khơng tách rời sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người. Chỉ có thốt khỏi thân
phận nơ lệ, mỗi người mới lấy lại được phẩm giá làm người. Đó cũng là sự
nghiệp đấu tranh vì hồ bình, hữu nghị giữa các dân tộc, nhằm mục tiêu giải
phóng tồn nhân loại. Đó chính là giá trị đích thực của một chủ nghĩa nhân văn
trong hành động, chủ nghĩa nhân văn trong chiến đấu - chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh một con người - một dân tộc - một thời đại một sự nghiệp, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: Trong luận điểm
về cách mạng của Hồ Chí Minh, trung tâm là luận điểm về con người... Mục
tiêu, cứu cánh, phương tiện và động lực đều ở trong mỗi con người... tất cả đều
bắt đầu từ con người và con người làm ra tất cả. Hồ Chí Minh ln qn triệt
20



chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tư
tưởng giải phóng con người của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn cịn ngun giá
trị với tính thời sự nóng hổi, mãi mãi soi sáng con đường đấu tranh vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh của chúng ta.
Tóm lại, với hơn 2500 năm tồn tại và ảnh hưởng, vấn đề đào tạo con
người trong triết lý Nho giáo đã có những đóng góp khơng nhỏ vào kho tàng tư
tưởng giáo dục của thế giới. Ngày nay, nếu biết chắt lọc, tiếp thu và phát triển
những tư tưởng tích cực, tiến bộ của triết lý Nho giáo thì chúng ta có thể có
được những hạt ngọc quý giá, góp vào việc định hướng, xây dựng, phát triển
những nhân cách mới và những mối quan hệ xã hội lành mạnh, nhằm thực hiện
một thế giới hồ bình, phát triển. Trong đó, tiếp thu những hạt nhân tích cực của
triết lý Nho giáo, triệt tiêu những điểm tiêu cực, đưa vào đó những nội dung
mới, chúng ta hồn tồn có thể có những nội dung, biện pháp tích cực trong giáo
dục con người Việt Nam chân, thiện, mỹ đáp ứng với mục tiêu xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

21


KẾT LUẬN
Là một nhà tư tưởng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khơng ngừng học hỏi để trở thành người có học vấn uyên bác, sử dụng thành
thạo nhiều ngôn ngữ để biểu đạt tư tưởng phong phú, đa dạng dưới nhiều hình
thức và thể loại khác nhau, Người đã kế thừa được những “hạt nhân hợp lý”,
những cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc, cái nhân bản của tư tưởng truyền thống Việt
Nam, hiểu biết và tiếp nhận được những tinh hoa trí tuệ của nhân loại và thời
đại, cả phương Đông lẫn phương Tây, trong đó có vấn đề đào tạo con người
trong triết lý Nho giáo, để phát huy tích cực, phục vụ cho lợi ích của cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng của Người đã vượt lên trên tư tưởng của những nhà cách
mạng đương thời, trở thành tư tưởng tiên tiến, giải đáp được những vấn đề cơ

bản và cấp bách của dân tộc, của xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh và thời đại
mới. Tư tưởng của Người đã giữ vai trị quyết định đối với tiến trình cách mạng
Việt Nam trong thế kỷ XX và trở thành di sản vô cùng quý báu của dân tộc ta và
của cả nhân loại.
Con người là tài nguyên lớn nhất của mỗi quốc gia. Bởi, một dân tộc có
cường thịnh, hùng mạnh hay không phụ thuộc vào sự quy tụ sức người, sức của
đại đồn kết dân tộc. Với việc tìm hiểu vấn đề đào tạo con người trong triết lý
Nho giáo và sự vận dụng của Hồ Chí Minh về xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam đã giúp chúng ta hiểu được vị thế, vai trò to lớn của con người
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong cơng cuộc xây dựng, đổi mới đất
nước… Q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người
để xây dựng con người mới có đủ tâm - trí - lực, qua đó góp phần tích cực vào
cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Văn Giàu (2008), “Vĩ đại một con người”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Hội đồng lý luận Trung ương (2011), Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thái Sơn (2016), Tư tưởng về con người và chiến lược “trồng
người”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Kiếm Việt (2004), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Thành Vinh (2006), Tìm hiểu Tư tưởng giáo dục Nho giáo, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23


×