Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thực trạng và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.82 KB, 25 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


KHÓA LUẬN
Chủ đề: GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC
TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

1
4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA

Chương 1.

1.1.
1.2.
1.3.

Chương 2.



MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ
CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG CƠ CHẾ
KIỂM SỐT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Khái niệm giám sát
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT

9

TRONG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
10

Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một số kiến nghị nâng cao hoạt động giám sát của Mặt

2.2.

4
6

NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
NƯỚC - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt

2.1.

4


11

trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
hiện nay

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

17
22
23


MỞ ĐẦU
1. Lý đo chọn đề tài
Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước là một trong những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn cấp
bách hiện nay. Xuất phát từ vị trí, vai trị tầm quan trọng của nền hành chính nhà
nước và yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước. Mục tiêu của Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước là: Xây dựng một nền hành chính dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng một đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Từ mục tiêu trên có thể thấy rõ: hoàn thiện giám sát của Mặt trận tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước vừa là nội dung của cải cách hành chính, vừa là một trong những biện pháp
pháp lý không thể thiếu nhằm thúc đẩy cải cách nền hành chính theo mục tiêu đã

xác định.
Giám sát hành chính (hay cịn gọi là giám sát hoạt động hành chính của
các cơ quan hành chính nhà nước) bao gồm giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước, các cơ quan tư pháp và giám sát xã hội (giám sát của các tổ chức chính trị xã hội và các cơ quan báo chí v.v...). Mục đích của giám sát hành chính là phát
hiện các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật trong quá trình hoạt động quản
lý của các cơ quan hành chính nhà nước, ngăn ngừa, uốn nắn những sai lầm, lệch
lạc, thực hiện mục tiêu quản lý hành chính nhà nước, góp phần hỗ trợ cho hoạt
động tư pháp và cải cách tư pháp. Với vai trị quan trọng đó, việc nghiên cứu
giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ
chế kiểm sốt quyền lực nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn và cần thiết.
Thực tiễn hoạt động giám sát ở nước ta trong những năm qua đã đạt
được những thành tựu nhất định song cũng cịn khơng ít những vấn đề tồn tại
cần phải được cải cách, về bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, đặc
biệt là tình trạng cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, mất dân chủ hay tình trạng
1


lãng phí, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng. Tình
trạng này có nhiều ngun nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật giám sát
chưa đồng bộ và thiếu cụ thể, thiếu thống nhất, chưa xây dựng được cơ chế giám
sát, tổ chức và hoạt động của cơ quan giám sát, nội dung giám sát và những chế
tài của hoạt động giám sát. Thực tiễn cho thấy, tăng cường hoạt động giám sát
phải đi liền với việc giao quyền giám sát cho ai, cơ quan nào là hợp lý cũng như
nội dung và hiệu lực giám sát phải gắn với việc hoàn thiện pháp luật về giám sát.
Do đó, nghiên cứu vấn đề “Giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước - thực
trạng và một số kiến nghị” làm đề tài khóa luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu các quy phạm pháp luật trực
tiếp điều chỉnh hoạt động giám sát của các chủ thể có quyền giám sát, gồm: Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước.
3. Mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận góp phần làm rõ cơ sở lý luận về giám
sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước, chỉ rõ thực trạng, đề xuất kiến nghị.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của Khóa luận là:
Phân tích cơ sở lý luận về giám sát, về khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ
bản của giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội
trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đánh giá thực trạng giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
2


Đề xuất kiến nghị giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác Lênin, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử và cụ thể. Ngồi ra, Khóa luận cũng sử dụng một
số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như luật học so sánh, xã hội học,
lý thuyết hệ thống.

3



NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
TRONG CƠ CHẾ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm giám sát
Trong điều kiện đổi mới, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước là yếu tố quan trọng bảo đảm bản chất của nhà nước - một nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, nơng dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Hoạt động giám sát rất quan trọng như trên song bản thân khái niệm
giám sát lại có nhiều cách hiểu khác nhau:
Về mặt ngữ nghĩa, từ giám sát được giải thích là “theo dõi, kiểm tra việc
thực thi nhiệm vụ”. Với nghĩa này, thuật ngữ giám sát gần nghĩa với thuật ngữ
kiểm tra, trong đó, kiểm tra là “xem xét thực chất, thực tế” [8, tr. 237].
Nếu nhìn nhận dưới góc độ nhà nước, giám sát lấy đối tượng là việc thực
thi quyền lực nhà nước, gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan nhà nước. Giám sát “là sự theo dõi, kiểm tra đối với việc thực thi quyền
lực nhà nước”. Để đảm bảo quyền lực là thống nhất, việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và cần thiết
phải có sự giám sát việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Giám sát việc
tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước bao gồm hoạt động giám sát của Nhà
nước (của các cơ quan trong bộ máy nhà nước) và giám sát xã hội của các tổ
chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng v.v...
Xem xét hoạt động giám sát như trên cho thấy giám sát đối với việc tổ
chức và hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ là giám sát của các
cơ quan nhà nước mà cịn là giám sát của tồn bộ hệ thống chính trị, và, chỉ khi
nào giám sát được thực hiện trong mối liên hệ mật thiết, hữu cơ với các bộ phận

4


của tồn bộ hệ thống chính trị thì mới có hiệu quả. Mặt khác, giám sát của nhà
nước và giám sát của xã hội đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước có mối liên hệ biện chứng, thống nhất trong một cơ chế giám sát. Mỗi yếu
tố - mắt xích trong cơ chế đó gắn kết với nhau nhằm đạt được mục đích cuối
cùng là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước ta có thể xác
định hoạt động giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước như sau:
Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng
nhân dân);
Giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước;
Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Hoạt động giám sát chỉ có thể đạt được hiệu quả khi đảm bảo được các
điều kiện nhất định về chính trị, tư tưởng, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tổ chức,
tâm lý, văn hóa, trong đó điều kiện về chính trị, pháp luật nói chung và pháp luật
về hoạt động giám sát nói riêng đóng một vai trò hết sức quan trọng [6, tr.80].
Ở nước ta hiện nay, giám sát được thực hiện thông qua những hình thức sau:
- Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đó là hoạt động giám sát do Hội
đồng nhân dân thực hiện theo chức năng và nhiệm vụ được quy định trong Hiến
pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Quy chế hoạt
động của của Hội đồng nhân dân và các văn bản liên quan khác v.v...
- Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện, như giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Giám sát của Thanh tra nhân dân. Đây là tổ chức giám sát mang tính
nhân dân được tổ chức nhằm giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương và hành vi hành chính của các cán bộ, cơng chức trong
các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

- Giám sát thơng qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trực tiếp là
qua việc thực hiện thẩm quyền tài phán của Tịa hành chính đối với quyết định
5


hành chính và hành vi hành chính của cơ quan hành chính hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành, thực hiện.
- Giám sát của các cơ quan báo chí.
- Giám sát của công dân. Hoạt động này chủ yếu được thực hiện thông
qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, thông qua việc thực
hiện quy chế dân chủ ở xã, ở cơ quan, doanh nghiệp.
1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là:
Tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết tồn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
hoạt động có hiệu quả [7, tr.65].
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay có 32 thành viên, trong đó Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận, và có
5 thành viên là các tổ chức chính trị - xã hội, gồm Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,

Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc theo quy định của pháp luật là
hoạt động giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra,
thanh tra của Nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
6


Hoạt động giám sát của Mặt trận được thực hiện theo ba hình thức: động
viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia hoạt động giám sát với cơ
quan nhà nước và trực tiếp giám sát thông qua các hình thức hoạt động như:
tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, kiến
nghị xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Pháp luật
cũng quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức tạo điều kiện
để Mặt trận thực hiện quyền giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì
người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn
theo quy định của pháp luật.
Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định vai trò của Mặt
trận trong lĩnh vực giám sát như sau: “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là giám sát mang tính chất nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát,
kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, góp phần xây dựng, bảo vệ Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” [7, tr.67].
Điều này cho thấy, pháp luật về giám sát đã ghi nhận vai trị giám sát
mang tính xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là nhu cầu cần thiết của hoạt
động kiểm soát quyền lực nhà nước, bên cạnh các hình thức kiểm tra, thanh tra,
giám sát khác của Nhà nước.
Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội
của nhân dân, hoạt động giám sát được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản sau:

Động viên nhân dân thực hiện giám sát. Thông qua hoạt động hàng ngày
của Mặt trận để tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận
kiến nghị với cơ quan nhà nước hữu quan biểu dương, khen thưởng người tốt,
việc tốt, kiến nghị xem xét giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp
luật. Đây là một hình thức giám sát được Mặt trận Tổ quốc thực hiện một cách
thường xuyên và phổ biến. Hình thức này được cụ thể hóa dưới các hoạt động
như đóng góp ý kiến xây dựng các văn bản pháp luật do Ủy ban nhân dân các
cấp ban hành, giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo.
7


Tham gia một số hoạt động của các cơ quan nhà nước như tham dự các
phiên họp, các Hội nghị của Ủy ban nhân dân các cấp. Đây là một hình thức
giám sát rất hữu hiệu. Điều 125 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa
phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự
Hội nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thơng báo tình hình mọi mặt của
địa phương cho Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến và
các kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh ở địa phương [5, tr.80].
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hoạt động giám sát thơng qua hình
thức tổ chức tiếp xúc của các đại biểu dân cử với cử tri. Qua hình thức này, Mặt
trận nắm được tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của nhân dân đối với hoạt
động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát thông qua dư luận xã hội, các
phương tiện thơng tin đại chúng: báo chí, truyền thơng, điều tra xã hội học, lấy ý
kiến của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc giám sát thơng qua hình thức tư vấn, phản biện xã hội.
Đây là một hình thức giám sát mang tính dân chủ cao. Thơng qua hình thức tư
vấn xã hội, phản biện xã hội nhiều hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương như các cơng trình, các quy hoạch đã thu hút được nhiều ý kiến tư
vấn, phản biện từ phía các tổ chức tư vấn tư nhân, tư vấn của các hội nghề
nghiệp v.v... Đây là hình thức giám sát trước, nhằm ngăn ngừa các hoạt động của
cơ quan hành chính địa phương có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Quy định nêu trên đã cho thấy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hoạt
động giám sát thông qua ba hoạt động chính: động viên nhân dân, tham gia giám
sát cùng cơ quan nhà nước và tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên
của Mặt trận Tổ quốc nhằm kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ba
8


hoạt động nêu trên thì mới chỉ có một hoạt động mang tính tự thân đó là động
viên nhân dân cịn hai hoạt động cịn lại thì mới Mặt trận Tổ quốc mới chỉ đóng
vai trị là cơ quan phối hợp, là bộ phận gián tiếp thực hiện giám sát chứ chưa thể
hiện được hết vai trò giám sát của mình một cách chủ động và độc lập với các
chủ thể giám sát khác. Như vậy, mặc dù phạm vi giám sát rộng như quy định tại
khoản 2 của Điều 1, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, song luật chưa thực sự tạo
ra cơ sở pháp lý cụ thể cho Mặt trận thực hiện chức năng giám sát của mình.
1.3. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, gồm
thể chế pháp lý và các thiết chế có mối quan hệ tác động qua lại, vận động nhịp
nhàng, ăn khớp cùng hướng đến việc mục tiêu của hoạt động kiểm soát quyền
lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng và hiệu quả.
Hiện nay, kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta được thực hiện thông qua hai
cơ chế là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước (các
cơ quan nhà nước vận hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình tự kiểm

sốt lẫn nhau: cơ quan thực hiện quyền lập pháp - Quốc hội, cơ quan thực hiện
quyền hành pháp - Chính phủ, cơ quan thực hiện quyền tư pháp - Tòa án nhân
dân) được gọi là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà
nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngồi nhà nước. Cơ chế kiểm
sốt quyền lực nhà nước bên ngoài bao gồm giám sát của Đảng cầm quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và giám sát trực tiếp
của các cá nhân.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là
một trong những hình thức của cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước. Đó là hoạt
động theo dõi, quan sát, xem xét của Mặt trận Tổ quốc và Cơng đồn, Hội Nơng
dân, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh nhằm tác động, định hướng các đối tượng bị giám sát thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Khác với cơ chế kiểm soát
9


quyền lực bên trong bộ máy nhà nước, hậu quả pháp lý trong cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền từ bên ngồi khơng có tính cưỡng chế nhà nước mà kết quả
kiểm soát được thể hiện dưới dạng kiến nghị hoặc thông qua dư luận xã hội, gửi
“thông điệp” đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để xử lý đối với cán
bộ, công chức, viên chức, các cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ
phận của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, hướng đến mục tiêu bảo
đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả, ngăn ngừa
và hạn chế tình trạnh lạm quyền, tham nhũng quyền lực nhà nước. Cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, phải bảo đảm sự kết hợp giữa
các hình thức giám sát của Nhà nước (giám sát Quốc hội, Hội đồng nhân dân),
hoạt động kiểm tra, thanh tra của Nhà nước với các hình thức giám sát của Mặt

trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Do vậy, mơ hình giám sát của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải bảo đảm các thiết chế giám
sát không bị phụ thuộc vào đối tượng chịu sự giám sát. Pháp luật phải bảo đảm
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khơng bị lệ thuộc vào chính
đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Ngoài ra, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thể hiện được hết vai trị giám sát của
mình một cách chủ động và độc lập với các chủ thể giám sát khác. Các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và người có thẩm quyền phải có trách
nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát; trao đổi
những vấn đề liên quan theo đề nghị của chủ thể giám sát; góp ý vào dự thảo
báo cáo giám sát khi được chủ thể giám sát đề nghị. Cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền phải tổ chức thực hiện và trả lời kiến nghị giám sát bằng văn bản
cho chủ thể giám sát của Nhân dân theo quy định.

10


Chương 2. GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRONG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước
ở Việt Nam hiện nay
Thời gian qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy
vai trò bảo đảm quyền làm chủ, quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội đối với bộ máy nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011 khẳng
định: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản
biện xã hội”. Nghị quyết Đại hội XI (năm 2011) của Đảng khẳng định: “Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân… thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện
xã hội” [3, tr.101]. Gần đây, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 217 về ban hành
quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn
thể chính trị - xã hội; Quyết định 218-QĐ/TW về ban hành Quy định việc Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Nghị quyết đại Đại hội XII (năm
2016) của Đảng ta khẳng định cần phải “tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa
giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân” [4, tr.106].
Pháp luật xác định địa vị pháp lý Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội trong thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với bộ máy nhà nước với các
hình thức và phương pháp giám sát phù hợp với địa vị pháp lý của mỗi thiết chế.
Trên thực tế, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp và
tham gia các hoạt động giám sát với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp;
thường xuyên “cử đại diện tham gia các đoàn giám sát do Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng
nhân dân tiến hành đã giúp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phát hiện và kiến nghị cơ
11


quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật
trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước”. Hoạt động phối hợp này đã
tạo ra bầu khơng khí cởi mở và tạo ra sự đồng thuận giữa chủ thể và các đối
tượng giám sát trong việc tìm kiếm giải pháp để giải quyết những kiến nghị về
giám sát.
Kết quả tổng hợp năm 2010, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội đã tổ chức 11.294 cuộc giám sát; các tổ chức chính trị - xã hội giám sát
325 cuộc. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề kinh tế, xã hội của đất
nước, những vấn đề dư luận quan tâm và có liên quan trực tiếp tới quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân như: tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại tố cáo; bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện

các quy định của pháp luật về bảo vệ mơi trường của chính quyền, doanh
nghiệp; thực hiện công khai các kết luận thanh tra; giám sát thông qua điều tra
xã hội học về “Tham nhũng vặt” trong quản lý nhà nước về đất đai và xử lý vi
phạm trật tự an tồn giao thơng đường bộ; việc thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn; thực hiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn chịu ảnh hưởng
của đại dịch covid-19…
Sau giám sát Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều đánh
giá trung thực, khách quan những ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế, khó khăn,
vướng mắc để kiến nghị tới cấp ủy, chính quyền, các cơ quan liên quan xử lý,
giải quyết. Trong 5 năm (2015-2020) đã kiến nghị trên 31.000 ý kiến, nhìn
chung các đối tượng được giám sát đồng tình với kết quả giám sát và tiếp thu
các kiến nghị để điều chỉnh những tồn tại, hạn chế. Cấp ủy, Ủ ban nhân dân các
cấp và các cơ quan, đơn vị liên quan cũng nghiêm túc xem xét các kiến nghị
từng bước tiếp thu, điều chỉnh cơ chế, chính sách, đưa ra nhiều biện pháp khắc
phục hạn chế, khó khăn, vướng mắc.
Hoạt động phản biện xã hội đã từng bước được triển khai thực hiện có
hiệu quả, trong 2 năm 2019, 2020 Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp đã chủ trì, phối hợp với các đồn thể chính trị - xã hội và Hội đồng
tư vấn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức phản biện 116 dự thảo
12


văn bản với 1.138 ý kiến phản biện. Nội dung phản biện quan trọng đã thực hiện
gồm dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ
2020-2025; Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứu XIII
Năm 2020, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức
được 8.788 cuộc tiếp xúc cử tri, có 12.307 lượt đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp tham dự, có 923.668 lượt cử tri tham dự, tổng số có 96.766 ý kiến với
82.028 vấn đề cử tri đặt ra, xoay quanh các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an
ninh - quốc phòng… Hầu hết các ý kiến cử tri đặt ra đã được các Thường trực

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dâncác cấp, các ngành có liên quan trả lời thỏa
đáng cho cử tri (tỷ lệ ý kiến cử tri đặt ra được giải quyết đạt 97%) [6, tr.78].
Bên cạnh những kết quả trên đây, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm soát quản lý nhà nước tồn tại những bất
cập, hạn chế sau:
Chưa có sự phối hợp giữa giám sát của nhân dân đại diện là Mặt trận Tổ
quốc với giám sát của cơ quan mang tính quản lý nhà nước. Các chủ thể trong
tiến hành giám sát còn rời rạc, thiếu đồng bộ, hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ
quốc cũng như của hệ thống giám sát chưa cao. Việc phối hợp giải quyết kiến
nghị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ, ngành nhìn
chung chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân; vẫn cịn tình trạng
một số kiến nghị giám sát giải quyết kéo dài, khơng dứt điểm, có sự đùn đẩy, né
tránh của các cơ quan chức năng. Tương tự, trách nhiệm của một số cơ quan nhà
nước trong việc xử lý hậu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa xác định cụ thể, rõ ràng. Bên cạnh đó việc theo
dõi sau giám sát cịn bng lỏng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết kiến
nghị. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động giám sát và uy tín của các
đồn giám sát.
Pháp luật chưa tạo ra cơ chế công khai cung cấp thông tin trong hoạt động
giám sát, chưa xác định rõ trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan, người có
thẩm quyền trong việc tiếp nhận giải quyết kiến nghị giám sát. Do vậy, một số
13


kiến nghị, phản ánh về kết quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc gửi đến
cơ quan nhà nước chưa kịp thời xử lý, hoặc chưa được giải quyết thấu đáo. Trên
thực tế, việc giải quyết, trả lời ý kiến của một số bộ, ngành, các cơ quan chức
năng cịn hình thức.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc phần nhiều mới được thể hiện qua các phát
hiện, nêu ý kiến tại các kỳ họp, phiên họp của các cơ quan, tổ chức thuộc đối

tượng giám sát, chưa có những phương thức giám sát đúng nghĩa và giám sát hầu
như mới chủ yếu ở cấp cơ sở. Nhiều đề xuất, kiến nghị của Mặt trận chưa được cơ
quan nhà nước, chính quyền các cấp xem xét, giải quyết và trả lời, mặc dù một số
lĩnh vực đã có quy định của pháp luật. Ở nhiều địa phương, Mặt trận Tổ quốc
chưa tiến hành thường xuyên các hoạt động giám sát theo chuyên đề; việc tổ chức
giám sát còn dựa nhiều vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát. Ở một số
nơi, việc theo dõi sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc cịn bị bng lỏng, thiếu sự
kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị. Công tác giám sát việc ban hành văn
bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh ít được quan tâm; giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của Mặt trận Tổ quốc hiệu quả chưa cao.
Mặt trận Tổ quốc sử dụng hình thức giám sát thơng qua hoạt động Thanh
tra Nhân dân vẫn còn hạn chế. Pháp luật quy định Ban Thanh tra Nhân dân là
một thiết chế bán chuyên trách thực hiện giám sát mang tính xã hội. Tuy nhiên,
địa vị pháp lý cũng như thiết kế mơ hình hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân
lại cùng một đạo luật với Thanh tra Nhà nước - Luật Thanh tra năm 2010. Điều
đó cho thấy đang có sự lúng túng, khó khăn trong việc tìm kiếm mơ hình phù
hợp bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát của thiết chế này. Thêm vào đó, tuy là
cùng được quy định trong một văn bản luật nhưng khơng hề có sự liên hệ, hỗ trợ
nhau giữa Thanh tra Nhà nước và Thanh tra Nhân dân ở cấp chính quyền cơ sở
và các cơ quan nhà nước trong việc xử lý kết quả giám sát của Ban Thanh tra
Nhân dân. Như vậy, có ý kiến cho rằng “việc quy định về Thanh tra Nhân dân
trong Luật Thanh tra là chưa hợp lý, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hoạt động
giám sát của tổ chức do nhân dân bầu ra với hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ
quan nhà nước” [1, tr.90].
14


Mơ hình hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội chưa độc lập với các cơ quan nhà nước. Các thiết chế này vẫn lệ thuộc
vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Về cơ bản,

nguồn kinh phí để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
nhiệm vụ giám sát chưa có nguồn độc lập, cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước
đối với Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội cịn bất cập; một số quy
định về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý tài chính, tài sản đối với tổ chức
cơng đồn chưa phù hợp.
Trên thực tế, kinh phí, cơ sở vật chất để phục vụ hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các cơ quan nhà nước
chủ yếu phụ thuộc vào cơ quan nhà nước và chủ doanh nghiệp cho nên tính độc
lập khách quan trong kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Trên thực tế, Mặt trận Tổ
quốc các cấp mới chỉ đóng vai trị là cơ quan phối hợp, là cơ quan tham gia thực
hiện giám sát chứ chưa thể hiện được hết vai trị giám sát của mình một cách chủ
động với các chủ thể kiểm soát quản lý nhà nước khác.
Mặt trận Tổ quốc các cấp sử dụng các hình thức giám sát đối với các đối
tượng giám sát chưa đa dạng và đồng bộ. Pháp luật quy định bốn hình thức giám
sát cơ bản của Mặt trận Tổ quốc là: nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có
thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
tổ chức đồn giám sát; thơng qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân được
thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; tham gia giám sát với cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên ở các cấp, Mặt trận Tổ quốc địa phương
và kể cả Trung ương mới chỉ chú trọng vào hình thức giám sát tổ chức đồn
giám sát mà chưa quan tâm thích đáng các hình thức giám sát khác. Trong đó, sử
dụng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản, giám sát văn bản của cơ quan có
thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
chưa được quan tâm đúng mức. Như vậy, việc sử dụng hình thức giám sát nào
đối với từng nội dung giám chưa được Mặt trận Tổ quốc tính tốn hiệu quả. Trên
thực tế, sử dụng hình thức giám sát như tổ chức các đồn giám sát lại gặp khơng
ít khó khăn như: việc tổ chức phức tạp, đòi hỏi nhiều nhân sự tham gia; tốn kém
15



về kinh phí, phương tiện, việc bố trí thời gian…. Vai trò giám sát của các tổ chức
thành viên của Mặt trận đối với bộ máy nhà nước rất mờ nhạt, chủ yếu là một số
quy định về trách nhiệm của các tổ chức này trong việc động viên đoàn viên, hội
viên và nhân dân tham gia giám sát một số lĩnh vực quản lý hành chính liên
quan đến chức năng của tổ chức đó.
Hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội cịn nhiều bất cập và
chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể, nội dung giám sát của Cơng đồn rộng, thiếu cụ
thể hóa những nhiệm vụ giám sát theo chức năng của Cơng đồn. Trong khi đó
chưa có chế tài trong thi hành kết luận giám sát nên hiệu quả giám sát đang bị
hạn chế. Công tác kiểm tra, tham gia, giám sát của Cơng đồn ở một số nơi cịn
hình thức. Tương tự, Hội Nông dân thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với các cơ
quan nhà nước cịn bất cập. Đó là, “một số nơi công tác kiểm tra, giám sát chưa
được thường xuyên; nội dung kiểm tra, giám sát còn sơ sài, thiếu cụ thể; việc
triển khai thực hiện Quyết định 217 và Quyết định 218 của Bộ Chính trị cịn
chậm”. Đoàn Thanh niên Cộng sản triển khai thực hiện Hướng dẫn 47 của Ban
Bí thư Trung ương Đồn (Hướng dẫn số 47 HD/TWĐTN-BKT về hướng dẫn
thực hiện quy chế giám sát và phản biện xã hội) ở cơ sở còn hạn chế, thụ động.
Một số tổ chức Đoàn chưa thực sự quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát. Vì
vậy, việc tham mưu đề xuất nội dung kiểm tra ở một số đơn vị chưa sâu. Trong
khi đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ ở một số địa phương thực hiện nhiệm vụ giám sát
cịn “lúng túng, chưa tích cực thúc đẩy việc thực hiện các chủ trương chính sách
liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới. Việc mở rộng tính liên hiệp của tổ chức
Hội cịn hạn chế”. Hoạt động của Hội Cựu Chiến binh trong giám sát còn thiếu
chiều sâu; việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội
viên khi bị vi phạm chưa mạnh; việc phát hiện, đề xuất xử lý vi phạm các chính
sách, pháp luật sau chiến tranh (thương binh giả, bệnh binh giả, hưởng chế độ
khác không đúng…) của các tổ chức, cá nhân còn chưa kịp thời.
Việc giải quyết, trả lời ý kiến của một số bộ, ngành, các cơ quan chức
năng cịn hình thức trong khi chưa có cơ chế áp dụng biện pháp chế tài thích hợp
16



đối với các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong việc không hoặc
chậm tiếp nhận và xử lý kết quả giám sát do Mặt trận Tổ quốc kiến nghị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp chủ
yếu cử đại diện tham gia các đoàn giám sát do các cơ quan nhà nước tổ chức,
chưa chủ trì tổ chức được nhiều các hoạt động giám sát độc lập. Nhiều lĩnh vực
hoạt động giám sát tuy có cơ chế đầy đủ, rõ ràng, hoặc pháp luật quy định cụ thể
trình tự, thủ tục thực hiện, nhưng việc xem xét, xử lý của cơ quan chủ quản
không thực hiện đúng các quy định về thời hiệu giải quyết vụ việc, làm cho hoạt
động giám sát trong nhiều trường hợp không được giải quyết kịp thời và dứt
điểm, gây bức xúc cho cơng dân và khó khăn cho cán bộ Mặt trận thực thi cơng
việc giám sát. Bên cạnh đó, các thơng tin về chính sách đầu tư của Nhà nước
hầu như chưa được công khai, minh bạch để nhân dân thấy được lợi ích và trách
nhiệm của mình, cũng là trở ngại lớn cho hoạt động giám sát của Mặt trận và dễ
phát sinh các “điểm nóng” về khiếu kiện.
2.2. Một số kiến nghị nâng cao hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, thể chế hóa một cách đồng bộ, kịp thời, chính xác đường lối,
chủ trương của Đảng về hoạt động giám sát
Tăng cường hoạt động giám sát là một quan điểm đã được Đảng khẳng
định trong thực tiễn lãnh đạo của mình. Quan điểm này ngày càng được tăng
cường và khẳng định một cách cụ thể hơn kể từ Đại hội Đảng lần thứ IX đến
nay. Đại hội Đảng lần thứ X, hoạt động giám sát đã được Đảng xác định về vai
trò và tầm quan trọng ở một tầm cao mới. Mục tiêu của Đảng trong những năm
tới là: “Xây dựng và hồn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp
pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [2, tr.45].
Đây là một yêu cầu lớn đặt ra đối với công tác xây dựng pháp luật. Quán triệt
quan điểm này, cần xác định vai trò của các chủ thể thực hiện chức năng giám

sát và kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của
cơ quan công quyền để từ đó có chương trình xây dựng pháp luật phù hợp. Do
17


đó, việc xây dựng pháp luật về hoạt động giám sát trong thời gian tới cần có
những quy định cụ thể hóa về vai trị giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể nhân dân, quy trình giám sát của Hội đồng nhân dân, thẩm quyền xét xử các
khiếu kiện hành chính của Tịa án, vai trị giám sát của các cơ quan báo chí trung
ương và địa phương. Bên cạnh đó, cần có những quy định pháp luật cụ thể nhằm
“cơng khai hóa các chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám
sát, kiểm tra. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và nhân
dân tham gia giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”. Đây là
những vấn đề có ý nghĩa thiết thực và cấp bách trong việc hoàn thiện pháp luật
về hoạt động giám sát hiện nay.
Hai là, hoàn thiện những quy định pháp luật về giám sát do Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện
Cần rà soát các quy định pháp luật về giám sát do Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện để khắc phục được tình
trạng quy định chồng chéo, khơng đồng bộ và thiếu thống nhất. Hiện nay, các
quy định này có nguồn ở những văn bản quy phạm pháp luật như Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Luật Cơng đồn, Bộ luật lao động, Luật Khiếu nại tố cáo,
Pháp lệnh luật sư và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện các
Luật, Pháp lệnh trên. Trong thời gian tới, cần bổ sung các quy định về giám sát
trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định đầy đủ, cụ thể về
thẩm quyền, nội dung giám sát, trình tự, thủ tục thực hiện việc giám sát, trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện quyền giám
sát, hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát do Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị xã hội thực hiện. Cũng cần bổ sung vào Luật các quy định cụ thể về
tiêu chuẩn cán bộ làm việc tại Mặt trận Tổ quốc theo hướng trẻ hóa đội ngũ cán

bộ, đồng thời quy định các tiêu chuẩn về trình độ, về kỹ năng và đạo đức.
Cần tách Luật Thanh tra thành Luật Thanh tra Chính phủ và Luật Giám
sát nhân dân. Luật Giám sát nhân dân sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng quy định cụ
thể về nội dung, phạm vi, thẩm quyền và đối tượng giám sát do Ban Thanh tra
nhân dân thực hiện. Đồng thời, Luật Giám sát nhân dân cũng cần quy định rõ
18


ràng tạo cơ chế pháp lý để từng cá nhân cơng dân có thể trực tiếp thực hiện hoạt
động giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước. Luật cần quy định nội dung
và đối tượng giám sát cụ thể bao nhiêu thì mức độ phát triển của các tổ chức
giám sát nhân dân tự phát sẽ hạn chế đi, đảm bảo được sự phối hợp của chính
quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động
giám sát. Bên cạnh đó, cần rà soát những quy định trong Quy chế dân chủ cở sở
để tiến hành pháp điển hoá, ban hành Luật Thực hiện dân chủ cơ sở trong đó
quy định rõ ràng, cụ thể từng hình thức giám sát của nhân dân. Luật Thực hiện
dân chủ cơ sở cần chú trọng tới hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát thông
qua hình thức lấy ý kiến của nhân dân, chú trọng tới hình thức lấy ý kiến mang
tính quyết định của nhân dân, coi đây là một trong những hình thức để nhân dân
thực hiện quyền giám sát hữu hiệu nên cần có quy định mang tính khả thi, đảm
bảo cho nhân dân dễ thực hiện.
Ba là, ban hành các văn bản hướng dẫn quy định về hoạt động giám
sát, xây dựng cơ chế hoạt động
Tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn quy định về hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội của Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam năm 2015 theo hướng: bổ sung các biện pháp theo dõi quá trình tiếp
nhận và trả lời việc tiếp nhận kiến nghị của cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền đối với các kiến nghị giám sát; bổ sung các chế tài đối với trường hợp
không tiếp nhận, hoặc tiếp nhận nhưng trả lời không đúng thời gian luật định
của cơ quan, người có thẩm quyền đối với kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Xây dựng cơ chế công khai về việc tiếp thu, điều chỉnh, sửa đổi bổ sung
của cơ quan và người có thẩm quyền đối với các kiến nghị giám sát của nhân
dân, kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan Mặt trận Tổ quốc với các tổ
chức của Đảng, cơ quan nhà nước; cần coi giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội là một nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức và hoạt
19


động của bộ máy nhà nước. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các cơ quan nhà nước
phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của cơ chế kiểm soát quản lý nhà nước
hiện nay.
Xây dựng cơ chế hoạt động, huy động và phát huy tiềm năng của các
thành viên rộng lớn của Mặt trận Tổ quốc trong hoạt động giám sát, tham mưu ý
kiến của các cá nhân tiêu biểu, phát huy ưu thế của các chuyên gia, các Hội đồng
tư vấn của Mặt trận Tổ quốc; huy động mang lưới cộng tác viên, các đoàn viên,
hội viên là các nhà khoa học trên các lĩnh vực để tham gia hoạt động giám sát
của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội; tăng cường xây dựng, mở
rộng đội ngũ cộng tác viên có sức khỏe, nhiệt tình, trách nhiệm với từng cơng
việc, sự kiện được giao là một yêu cầu tất yếu và lâu dài trong xu hướng thực
hiện chủ trương tinh giảm biên chế của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, đổi mới phương thức, hình thức hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới phương thức hoạt động giám sát: Khác với hoạt động giám sát
của các cơ quan nhà nước, giám sát của Mặt trận Tổ quốc có tính xã hội. Do vậy,
để đạt hiệu quả cao cần xây dựng cơ chế tiếp thu, giải trình những kiến nghị của

Mặt trận Tổ quốc trong hoạt động giám sát. Theo đó, khi lập chương trình, kế
hoạch và lựa chọn nội dung giám sát cần phải quy định rõ trách nhiệm, quyền
hạn của chủ thể giám sát cũng như nghĩa vụ của đối tượng bị giám sát; xác định
rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung và đối
tượng chịu sự giám sát phải trả lời bằng văn bản trong thời gian nhất định về
kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc; xác định trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan nhà nước trả lời kiến nghị giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian quy định.
Đổi mới hình thức giám sát: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015
quy định bốn hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Tuy nhiên, trên thực tế
hoạt động giám sát Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa sử dụng tốt và đồng bộ các
20


hình thức giám sát, chủ yếu là tổ chức các đồn giám sát trong khi hình thức
giám sát này cần phải phải bố trí lực lượng, thời gian, kinh phí để tổ chức thực
hiện giám sát mới đạt hiệu quả cao. Do vậy, căn cứ vào nội dung giám sát được
xác định Mặt trận Tổ quốc các cấp cần phối, kết hợp nhiều hình thức giám sát
trong đó chú trọng việc cử cán bộ, chuyên gia tham gia các đoàn giám sát của các
cơ quan nhà nước, hay nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trên cơ sở ý kiến của người dân, doanh nghiệp liên quan đến chủ trương,
chính sách lớn. Cùng với việc lựa chọn và phối hợp sử dụng các hình thức giám
sát theo quy định của pháp luật, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần hoàn thiện cơ chế
tiếp nhận và xử lý thông tin từ các tầng lớp nhân dân, từ xã hội thông qua các
phương tiện truyền thông, báo chí để kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân trên cơ sở đó có kiến nghị giám sát phù hợp, đúng đắn.
Thực hiện tốt nguyên tắc cơng khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bởi vì, cơng khai, minh bạch là biện
pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các hành vi tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch
làm suy giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; là điều kiện cần để thực

hiện nhiệm vụ giám sát có hiệu quả. Cơng khai, minh bạch địi hỏi các các chủ
thể giám sát Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải được thơng
tin đầy đủ, kịp thời, chính xác nội dung và đối tượng cần phải giám sát.

21


KẾT LUẬN
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay,
hoạt động giám sát là một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cấp bách. Tăng
cường hoạt động giám sát nhằm mục đích đảm bảo cho quyền lực nhà nước
thống nhất thuộc về nhân dân. Mỗi loại hình giám sát có ưu thế mạnh riêng, bổ
sung cho nhau, đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước được tiến hành một cách thường xuyên, kịp thời và đẩy đủ.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát ở nước ta đã được khẳng định
và thu được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, những kết quả của hoạt động
giám sát chưa tương xứng với mục đích và tầm quan trọng của nó. Do đó, để
khắc phục tình trạng đó cần thực hiện đồng bộ các giải pháp mà một trong
những giải pháp mang tính cấp bách đối với đặt ra đối với hoạt động giám sát là
việc hoàn thiện pháp luật về giám sát. Hệ thống pháp luật này phải đảm bảo tính
động bộ, toàn diện, cụ thể, thống nhất, khả thi và phải dễ thực hiện trong thực tế.
Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về giám sát phải được thực hiện dưới sự
lãnh đạo của Đảng thể hiện đậm nét mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Bên cạnh đó, cần phát huy dân chủ trong các quy định pháp luật nhằm bảo
đảm và thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt động giám sát.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Minh, Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 17/2021.
7. Quốc hội (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.
8. Trung tâm ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994.

23


×