Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.7 KB, 18 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG
TRƯỜNG MẦM NON XÃ NGHĨA MINH

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi ở
trường mầm non”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển tình cảm và kỹ năng
xã hội.

HỒ SƠ SÁNG KIẾN

3. Thời gian áp dụng sáng kiến:

Từ ngày
năm 2019
thánglàm
7 năm
2020
“Một26sốtháng
biện8pháp
giúpđến
trẻngày
3 – 44tuổi
quen
với các
4. Tác giả:

tác phẩm văn học ”



Họ và tên: Phạm Thị Lan
Năm sinh: 1982

Nơi thường trú: Nghĩa Minh – Nghĩa Hưng – Nam Định
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ cơng tác: Giáo viên 4 tuổi
Tác giả:Mầm
Dương
Hiền
Nơi làm việc: Trường
nonThị
Nghĩa
Minh
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
Điện thoại:0392557251
Giáo
viên
Tỷ lệ đóng gópChức
tạo ravụ:
sáng
kiến:
85%
Nơi sáng
cơngkiến:
tác: Trường mầm non xã Nghĩa Minh
5. Đơn vị áp dụng
Tên đơn vị: Trường Mầm non Nghĩa Minh
Địa chỉ: Nghĩa Minh – Nghĩa Hưng – Nam Định
Điện thoại: 094416938

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

Nghĩa Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2021


2
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
THÔNG TIN CHUNG

1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi làm quen với các
tác phẩm văn học.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển ngôn ngữ
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 11 tháng 9 năm 2020 đến ngày 23 tháng 4 năm 2021
4. Tác giả:
Họ và tên: Dương Thị Hiền
Năm sinh: 1985
Nơi thường trú: Nghĩa Minh – Nghĩa Hưng – Nam Định
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ công tác: Giáo viên 3 tuổi
Nơi làm việc: Trường Mầm non xã Nghĩa Minh
Điện thoại: 03503711082
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 85%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Mầm non xã Nghĩa Minh
Địa chỉ: Nghĩa Minh – Nghĩa Hưng – Nam Định
Điện thoại: 0944169382

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN



3

Như chúng ta đã biết, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên đặt nền móng
vững chắc giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Giáo dục mầm non
giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, kỹ năng xã hội. Hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người. Với trẻ ở lứa tuổi mầm
non các hoạt động học tập và hoạt động vui chơi tác động đến quá trình phát
triển của trẻ.
Một trong những hoạt động có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của
trẻ em đó là hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học. Văn học khơng
những giúp trẻ hồn thiện ngơn ngữ, tăng cường vốn giao tiếp mà còn giúp trẻ
trau dồi tình u thương.  Văn học ln gần gũi, gắn bó với trẻ thơ, từ khi cất
tiếng khóc chào đời trẻ đã được đắm chìm trong những lời ru “Ầu ơ” của bà, của
mẹ. Và đó cũng là cánh cửa đầu tiên mở ra chân trời nhận thức cho trẻ.
Việc tiếp xúc với các tác phẩm văn học như: Thơ, truyện kể, ca dao, hò
vè…sẽ cung cấp cho trẻ một vốn từ ngữ khổng lồ và một tâm hồn yêu thiên
nhiên, cây cỏ, hoa lá…và tình yêu thương với những người xung quanh.
Là một giáo viên mầm non phụ trách nhóm lớp 3 - 4 tuổi, bản thân tôi
nhận thấy ở lứa tuổi này trẻ có sự nhanh nhẹn, hoạt bát và ham học hỏi. Chính vì
thế, bằng tâm huyết của mình tơi ln mong muốn được truyền đạt tới trẻ tình
yêu đối với các tác phẩm văn học, thơ ca. Tơi đã ln trăn trở để tìm ra “Một số
biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học”.
Để đạt được mục tiêu đó cần tạo được những ấn tượng ban đầu cho trẻ đối
với các tác phẩm văn học. Những hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm văn
học luôn giàu giá trị nhân văn, kết hợp với những vần điệu, nhạc điệu của tác
phẩm sẽ luôn in sâu trong tâm hồn trẻ. Điều quan trọng là cô giáo và cha mẹ
phải biết quan tâm tới sở thích của trẻ, gây hứng thú cho trẻ, hướng trẻ có tình
u mến đối với các tác phẩm văn học.

Chính vì lẽ đó việc cho trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 3 - 4 tuổi
làm quen với các tác phẩm văn học là hết sức quan trọng và cần thiết. Thông qua
văn học giúp cho trẻ nhận biết được thế giới xung quanh, mở rộng vốn hiểu biết
của trẻ đối với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh thơng qua đó trẻ biết tích


4

lũy được những kinh nghiệm sống. Giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển, làm
phong phú thêm vốn từ của trẻ, trẻ biết sử dụng các từ ngữ chính xác biểu cảm
hơn.
II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT
1. Mơ tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

Qua quá trình thực hiện cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở những
năm học trước, giáo viên đã có sự chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy,
thực hiện hoạt động giảng dạy dưới nhiều hình thức cho trẻ để trẻ dễ cảm thụ tác
phẩm văn học. Song việc dạy trẻ làm quen văn học cịn có nhiều hạn chế. Năm
học 2020 – 2021 tôi được BGH nhà trường phân cơng phụ trách nhóm lớp mẫu
giáo 3 – 4 tuổi. Thời gian đầu, khi giảng dạy tôi khảo sát trẻ trên nhóm lớp và
nhận thấy:
- Trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng với hoạt động, dẫn đến giờ học trẻ ít
tập trung chú ý, hiệu quả trên giờ học chưa cao
- Trẻ cịn hiếu động. Nhiều trẻ nói ngọng, nói chưa rõ như: Quang Hào,
Xn Trí, Minh Anh…
Thời gian đầu, khi giảng dạy tôi trực tiếp khảo sát trẻ trên nhóm lớp và
nhận thấy:
- Hứng thú: 55%
- Hiểu nội dung: 60%
- Thuộc tác phẩm: 60%

- Đọc diễn cảm: 50%
- Hứng thú: 65%
- Hiểu nội dung: 40%
- Kể diễn cảm: 20%
Từ khảo sát thực tế trên tôi đã nghiên cứu và tìm ra một số giải pháp cụ
thể. Trong quá trình bắt đầu thực hiện trên lớp tơi thấy có một vài thuận lợi và
khó khăn sau:
a. Thuận lợi :


5

- Được ban giám hiệu nhà trường luôn đi sâu đi sát trong việc chỉ đạo
chuyên môn, quan tâm đến cơ sở vật chất nhóm lớp, mua sắm đồ dùng dạy học
đầy đủ. Môi trường học tập cho trẻ ở trong lớp cũng như mơi trường ngồi lớp
học ln được đổi mới tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp trẻ lĩnh hội kiến thức.
- Giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, mến trẻ quan tâm
chăm sóc và giáo dục trẻ .
- Giáo viên của lớp đều có trình độ trên chuẩn, có lịng nhiệt tình, tâm
huyết với nghề, ln có tinh thần tự học tập, học hỏi bạn bè đồng nghiệp để
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Trẻ đi học chuyên cần, tích cực tham gia vào các hoạt động. Hầu hết các
cháu đều ngoan ngoãn, ham học hỏi, thích tìm tịi khám phá.
- Trẻ được tham gia nhiều hoạt động trải nghiệm của nhóm lớp và nhà
trường tổ chức: Các buổi giao lưu giữa các khối lớp, các hội thi: “Bé kể
chuyện, hát hay”,...
- Các bậc phụ huynh ln có sự quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục
trẻ, ln tham gia ủng hộ các phong trào của lớp. Vì vậy, giáo viên có thể xây
dựng được những giờ học hay, chất lượng.
b. Khó khăn:

Bên cạnh những thuận lợi trên chúng tơi cũng cịn gặp khơng ít khó khăn
đó là :
- Lớp học cịn chật gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động trong lớp
học.
- Khả năng nhận thức của trẻ không đồng đều. Một số trẻ còn nhút nhát,
chưa tự tin tham gia vào hoạt động.
- Trẻ mới từ độ tuổi nhà trẻ lên, nên kĩ năng phát âm còn nhiều hạn chế:
Nói ngọng, nói nhỏ...
- Đồ dùng, đồ chơi, sách truyện chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, vui
chơi của trẻ.
- Đồ dùng trực quan cịn ít, chưa đẹp, chưa hấp dẫn.


6

- Một số bậc phụ huynh chưa thực sự hiểu về trách nhiệm của gia đình
trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ cũng như chương trình chăm sóc trẻ ở lứa tuổi
mầm non. Do vậy chưa có biện pháp phối kết hợp giữa cha mẹ và cô giáo để đạt
hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Từ thực trạng trên tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp vào thực
tiễn:
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tôi đã thực hiện các biện pháp để giải
quyết vấn đề như sau:
2.1. Biện pháp 1: Xây dựng mơi trường trong và ngồi lớp học:
Tơi nhận thấy việc xây dựng mơi trường trong và ngồi lớp học để trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học là vô cùng cần thiết. Nếu tạo được môi trường
học tập thuận lợi cho trẻ sẽ giúp trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt
động làm quen văn học. Tôi đã lựa chọn một số giải pháp như:
- Đầu năm học, khi bắt tay vào trang trí mơi trường lớp học tơi đã chọn

một góc nổi bật trong lớp để làm góc sách truyện. Ở góc này, tơi lên ý tưởng sẽ
phải thật bắt mắt với những đồ dùng như: Tủ giá sách, giá treo sách, bàn xoay
tròn… Chú ý những màu sắc tươi sáng, hình ảnh trang trí ngộ nghĩnh, bắt mắt.
- Các đồ dùng được thiết kế ngang tầm với trẻ để trẻ dễ tìm, dễ lấy và dễ
cất.
- Tận dụng nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm bàn, gối ngồi,
thảm cho trẻ ngồi đọc sách truyện.

Góc sách truyện trong lớp học 3 tuổi C


7

- Lựa chọn hình ảnh nội dung các câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng dao…
vẽ, cắt dán. Sau đó, dán vào những chiếc mẹt để treo ở góc sách chuyện, treo
trên các mảng tường ngoài hành lang của lớp. Ngồi những câu chuyện trong
chương trình độ tuổi 3 – 4 tuổi tơi cịn sưu tầm thêm một số bộ tranh chuyện
ngồi chương trình để trẻ được làm quen.
- Với mơi trường ngồi lớp học tơi cịn cho trẻ làm quen văn học ở mọi
lúc, mọi nơi như: Ngoài cầu thang và các mảng tường lớn trong trường đã được
vẽ nội dung câu chuyện cổ tích quen thuộc tơi cho trẻ dạo chơi và giới thiệu cho
các con biết tên câu chuyện, hỏi trẻ tên của các nhân vật trong câu chuyện (nếu
trẻ biết) và kể chuyện cho trẻ nghe.
VD: Câu chuyện “Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn” – tôi dẫn dắt giới thiệu
về các nhân vật trước khi kể chuyện: Đây là nàng Bạch Tuyết, các chú Lùn, cịn
ai đây nữa nhỉ?... Chúng mình có biết tên câu chuyện này khơng? Có muốn nghe
cơ kể về các nhân vật đáng yêu này không? Cùng lắng nghe cô kể nhé! Khi cô
kể chuyện và trẻ sẽ rất hứng thú khi vừa được nghe kể vừa được ngắm nhìn các
nhân vật và diễn biến của câu chuyện. Trẻ dễ dàng khắc sâu nội dung câu
chuyện.


Tranh tường câu chuyện “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú Lùn”
- Khu vườn cổ tích cũng là nơi giúp trẻ làm quen văn học: Các nhân vật
cổ tích được tái hiện lại trong vườn cổ tích. Hàng ngày trong giờ vui chơi tôi cho
trẻ dạo chơi và làm quen với các nhân vật trong các câu chuyện cổ tích như:
Thánh Gióng, cơ Tấm, nàng Bạch Tuyết, bảy chú Lùn, Dê Đen, Dê Trắng… Từ


8

đó trẻ có thể hình dung lại các nhân vật khi tôi kể chuyện trong lớp cho trẻ nghe.
Trẻ mường tượng trong đầu các nhân vật đã được quan sát.
- Thư viện thân thiện trên sân trường được đặt trong vườn cổ tích với
nhiều gốc cây bóng mát. Đây cũng là nơi tơi đặc biệt quan tâm cùng với các
nhóm lớp trong trường trang trí đẹp mắt, bổ sung nhiều đầu sách truyện mới,
thay đổi đầu sách hàng tuần để giúp trẻ làm quen nhiều hơn với các thể loại sách
truyện khác nhau. Trẻ có thể ra đọc sách ở giờ chơi ngoài trời, đọc sách cùng
cha mẹ. Qua quan sát tôi nhận thấy thư viện thân thiện là nơi u thích của trẻ
khi cùng cha mẹ, ơng bà, anh chị ngồi đọc sách sau giờ trả trẻ.
2.2. Biện pháp 2: Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động dạy
trẻ làm quen với các tác phẩm văn học:
Hiểu được sự cần thiết của đồ dùng trực quan trong quá trình dạy trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học. Tơi đã tìm tịi, học hỏi và suy nghĩ để sáng tạo
ra một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ hoạt động làm quen văn học. Để làm được
đồ dùng có tính thẩm mĩ cao, tạo được sự hứng thú cho trẻ khi tham gia giờ học.
Tơi đã có một số đề xuất trong tổ chuyên môn, cụ thể:
- Đưa nội dung làm đồ dùng đồ chơi vào một số buổi sinh hoạt chuyên
môn trong tháng để cùng các thành viên trong tổ tham gia thảo luận, đóng góp ý
kiến: Dựa vào từng chủ đề sẽ học trong tháng, lựa chọn các câu chuyện, bài thơ,
dự kiến bộ tranh chuyện, rối sẽ làm, số bộ đồ dùng sẽ làm trong tháng, thảo luận

các cách thức làm đồ dùng, nguyên liệu dùng để làm, thời gian làm…
- Học hỏi trên các kênh youtube, các video của các nghệ nhân làm rối
hướng dẫn kỹ thuật làm rối tay, rối dẹt….. Từ đó tơi áp dụng để làm đồ dùng,
đồ chơi là những con rối với các nguyên vật liệu dễ tìm kiếm, nguyên liệu rẻ
tiền. Sản phẩm lại có giá trị sử dụng lâu dài.
- Trong tuần tôi cùng với các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn 3 tuổi tập
trung làm đồ dùng vào sáng thứ 7. Để phục vụ cho các giờ hoạt động làm quen
văn học sẽ làm đồ dùng: Vẽ tranh, làm sân khấu kể chuyện, mơ hình rối dẹt, làm
tranh nổi 3D, khâu rối tay... nguyên liệu để làm từ các phế phẩm trong gia đình
như: Lõi giấy, vải, len, hộp bánh kẹo, báo cũ, chai lọ, xốp, vải dạ nỉ…


9

VD: Với câu truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” tôi đã làm được bộ rối
tay sau:
Tôi đã dùng xốp dày (xốp ở các thùng đựng tủ lạnh, ti vi), dùng dao cắt tỉa
để tạo thành đầu nhân vật và dùng giấy nhám đánh nhẵn. Sau đó dùng keo dính
bồi 2 - 3 lớp giấy báo lên xốp và dùng keo để dán mặt nhân vật vào xốp (nếu
dán trực tiếp mặt lên xốp thì keo nóng và làm hỏng xốp), lần lượt cắt tỉa để làm
thành các nhân vật: Bác Gấu, thỏ Trắng, thỏ Nâu,…
+ Lấy dao nhọn khoét lỗ và dùng bìa cứng cuốn lại cắm vào để làm cổ.
+ Dùng vải từ áo cũ cắt và khâu thành áo rối (áo rối có 2 mảnh); áo rối dài
rộng tùy thuộc vào đầu của rối và tùy thuộc vào nhân vật trong truyện.
+ Dùng nến dính để dán áo rối vào cổ.
+ Dùng khuy, xốp để làm mắt, mũi, mồm của nhân vật.
+ Cắt tai nhân vật bằng vải dạ nỉ.
VD: Bài thơ “Đàn gà con” tôi sử dụng bao tay vải, quả bóng bàn để làm
đầu con gà, dùng vải dạ nỉ cắt mắt, mũi miệng và dùng sung bắn keo để dính tạo
thành bộ rối tay với các chú gà con. Ngồi ra, có thể dùng vỏ quả trứng, xốp,

len…để làm gà mẹ.
2.3. Biện pháp 3: Công tác tuyên truyền tới các bậc phụ huynh.
Để thực hiện tốt việc cho trẻ làm quen với văn học thì việc tuyên truyền
đến các bậc phụ huynh là việc làm hết sức cần thiết. Với mong muốn phụ huynh
hiểu được sự cần thiết, tầm quan trọng của hoạt động làm quen văn học đối với
sự phát triển toàn diện của trẻ. tôi đã lựa chọn một số biện pháp tuyên truyền
sau:
- Ngay từ đầu năm học, trong buổi họp phụ huynh tôi đã tuyên truyền tới
cha mẹ trẻ nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ. Trước khi họp tơi có sự tơi chuẩn bị
chu đáo về nội dung muốn truyền đạt tới phụ huynh, chuẩn bị những đồ dùng
cân thiết cho một giờ hoạt động làm quen văn học như: Đĩa truyện, thơ, tranh
truyện, các nhân vật rời, rối tay, ti vi, đầu đĩa, máy vi tính, và các đồ dùng thủ
công khác.


10

- Tuyên truyền tới các bậc phụ huynh ủng hộ sách, truyện, thơ làm phong
phú thêm tủ sách của lớp.

Hình ảnh phụ huynh tặng sách, truyện cho lớp
- Xây dựng nhóm zalo riêng của nhóm lớp. Với các giờ hoạt động làm
quen văn học nổi bật, các giờ hội giảng tôi quay video mà trẻ được tham gia và
gởi lên nhóm lớp như: Trẻ đọc thơ, kể chuyện, diễn rối, đóng kịch…việc gởi
thơng tin để phụ huynh thấy được sự tiến bộ từng ngày của con em mình, sự tự
tin của trẻ khi đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch…..Qua đó, tơi có thể tun truyền
về các bài thơ, câu chuyện hôm nay các con đã được học trên lớp, phụ huynh
cịn có thể dạy thêm con ở nhà, luyện cho trẻ đọc thơ diễn cảm, thể hiện điệu bộ
nhân vật.
- Giới thiệu với phụ huynh về góc thư viện trong nhóm lớp, giới thiệu góc

thư viện xanh trên sân trường, phát động phụ huynh tham gia phong trào: “Đọc
sách cùng con” để phụ huynh có thể cùng con đọc sách vào giờ đưa con đi học,
giờ đón con.

Một góc

“Thư viện
xanh” trên sân trường


11

- Vận động phụ huynh ủng hộ các nguyên vật liệu sẵn có, nguyên vật liệu
phế thải để làm đồ chơi phục vụ hoạt động. Ngồi ra, tơi cịn nhờ một số phụ
huynh làm nghề thợ may, đưa những con rối đã làm được cho phụ huynh xem và
trao đổi với phụ huynh về cách làm rối, phụ huynh đóng góp ý kiến, giúp đỡ
thêm các nguyên liệu để làm rối, phụ huynh may tặng cho lớp những bộ trang
phục vừa với trẻ để trẻ sử dụng trong các tiết học và để tập kịch như: Quần áo
Gấu, Thỏ, Dê, Sói…. Những trang phục đó có thể sử dụng được nhiều trong các
thể loại truyện, thơ, đóng kịch khác nhau.
- Vào những ngày lễ hội như ngày 20/11, ngày 22/12, ngày 8/3,.. tôi mời
phụ huynh đến tham dự các hoạt động văn nghệ của nhóm lớp, nhà trường: Đọc
thơ, thưởng thức những tiết mục do các “Nghệ sĩ tí hon” thể hiện trên sân khấu,
từ đó, các bậc phụ huynh thêm tin tưởng, yên tâm về sự chăm sóc, giáo dục của
các cơ giáo.
Bằng các hình thức trên thì đa số các bậc phụ huynh và cộng đồng đã hiểu
được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của của việc cho trẻ làm quen văn học
nên đã nhiệt tình ủng hộ để lớp thực hiện tốt hoạt động này.
2.4. Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động làm
quen văn học.

Để giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dù là thơ ca hay truyện kể, ca
dao, hị vè. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị tốt
giáo cụ trực quan, hình ảnh đẹp sẽ hấp dẫn, thu hút sự chú ý của trẻ.
Hiện nay, công nghệ thông tin được ứng dụng ngày càng nhiều trong giáo
dục mầm non. Với cơng nghệ thơng tin chúng ta có thể sử dụng các phần mềm
có sẵn hoặc sử dụng chương trình powerpoint để soạn các hoạt động cho trẻ chơi
và học. Đây là một biện pháp mang lại kết quả cao, gây được hứng thú cho trẻ
khi bài dạy có hình ảnh, màu sắc, âm thanh sinh động tươi vui. Luôn gây sự chú
ý cho trẻ. Vì vậy tơi đã đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy trong các giờ
làm quen văn học ở lớp sẽ mang lại kết quả cao:
- Sử dụng các phần mềm Adobe Auditions CS 6, photoshop…để xử lý
hình ảnh, cắt ghép nhạc thêm sinh động.


12

- Thiết kế bài giảng điện tử powerpoint, lựa chọn các hình ảnh đưa vào bài
giảng, sử dụng các hiệu ứng, màu sắc phù hợp nhằm gây sự chú ý của trẻ. Có
thể chuyển các bức tranh có sẵn của bài thơ, câu chuyện thành đoạn phim hoạt
hình, hay có thể đưa đoạn phim quay sẵn phù hợp với nội dung, như thế rất thu
hút và gây hứng thú cho trẻ.

Giờ hoạt động làm quen văn học ứng dụng công nghệ thông tin
VD: Với câu chuyện “Gà trống choai và hạt đậu” tơi đã xây dựng đoạn
phim hoạt hình về nội dung câu chuyện. Ngồi ra tơi cịn kết hợp với nhạc đệm
phù hợp, trẻ rất hứng thú và dễ nhớ nội dung truyện. Trẻ thấy được nét đặc trưng
nổi bật của các nhân vật.
2.2. Biện pháp 5: Cho trẻ làm quen các tác phẩm văn học trong các
hoạt động học.
- Để lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động học một cách nhẹ nhàng, hứng

thú trước hết người giáo viên cần tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp
mới để tổ chức tiết học một cách linh hoạt, sinh động nhằm thu hút sự chú ý của
trẻ.
Ví dụ: Trong giờ Làm quen văn học, chủ đề “Những con vật u thích”,
đề tài “Sáo học nói”, giọng đọc thơ của cơ giáo phải diễn cảm, rõ ràng, khơng
sai lỗi chính tả, khơng nói ngọng. Cơ lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy trẻ
phù hợp với đối tượng trẻ. Cô chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, lôi cuốn, thu hút
và tạo sự hứng thú cho trẻ, dạy trẻ đọc thơ dưới nhiều hình thức như đọc thơ
theo tranh minh họa, đọc kết hợp hình ảnh trên màn hình. Trị chơi củng cố cho
trẻ cần nhẹ nhàng, linh hoạt nhưng không kém sự lôi cuốn trẻ, đảm bảo tất cả
trong lớp đều được tham gia.


13

Khi thực hiện hoạt động này tôi thấy một số trẻ đặc biệt hứng thú: Đức
Minh, Thanh Mai, Tuấn Khang, Bảo Trâm... trẻ đọc thơ diễn cảm, đọc thể hiện
điệu bộ minh họa phù hợp.
- Đối với tiết kể truyện giáo viên dẫn dắt vào truyện nhẹ nhàng, linh hoạt
giọng kể cần phải rõ ràng thể hiện tính cách của từng nhân vật. Bên cạnh đó là
việc sử dụng đồ dùng một cách linh hoạt, sáng tạo, nhằm tạo cho trẻ sự hứng thú
khi tham gia hoạt động.
Mỗi bài dạy tôi cố gắng dùng các cách thu hút khác nhau để dẫn dắt vào
bài dạy tạo cho trẻ sự hứng khởi ngay từ đầu giờ học.
Ví dụ: Tơi vào vai bác sĩ với áo blu trắng, ống nghe khám bệnh cho trẻ
sau đó dẫn dắt trẻ làm quen bài thơ “Thỏ bơng bị ốm”.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen bài thơ “Mưa” – chủ đề “Nước và mùa hè” mà
ngoài trời cũng đang mưa, tơi có thể tận dụng ln tình huống đó cho trẻ quan
sát trời mưa và giới thiệu tác phẩm tới trẻ. Tận dụng những tình huống bất ngờ
xảy ra thì hiệu quả của việc tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ đạt hiệu quả cao.

Đặc biệt, với những trẻ chưa tập trung trong giờ học, việc sử dụng tình
huống này cũng đã giúp trẻ có hứng thú, tích cực tham gia hoạt động: Nhật
Minh, Quang Hào, Minh Anh.
- Với phương trâm “Lấy trẻ làm trung tâm” tôi rất chú ý đến hệ thống câu
hỏi trong q trình đàm thoại. Các câu hỏi mang tính gợi mở đòi hỏi trẻ phải suy
nghĩ, phát huy năng lực tư duy. Khi trẻ trả lời tôi yêu cầu trẻ nói đủ câu, rõ ràng
mạch lạc nhằm phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Ngồi ra, tơi đưa ra những câu hỏi giúp trẻ suy nghĩ về nội dung của tác
phẩm bằng cách hướng trẻ vào nhân vật chính với những hành động của nhân
vật, phát hiện ra phẩm chất, đưa ra nhận xét về nhân vật và xác định thái độ của
mình với nhân vật.
Ví dụ: Bài thơ “Cơ giáo của con” tôi đặt ra các câu hỏi:
- Cô giáo làm gì cho chúng mình?
- Bạn nhỏ đã thể hiện tình u thương của mình với cơ giáo như thế nào?


14

Ở trẻ 3 - 4 tuổi vốn từ của trẻ chưa được phong phú. Những từ mới, từ
khó nếu khơng được giải thích sẽ cản trở việc hiểu tác phẩm của trẻ. Giải thích
từ khó phải ngắn gọn, dễ hiểu. Để giải thích từ khó giáo viên phải chọn từ, hiểu
đúng từ và giải thích phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Khi giải thích từ
mới, từ khó cần kết hợp hình ảnh và lời giải thích.
2.6. Biện pháp 6: Công tác tự học, tự bồi dưỡng
Đi đôi với cơng tác giảng dạy thì cơng tác tự học, tự bồi dưỡng là hết sức
cần thiết:
- Tham gia đầy đủ các buổi học bồi dưỡng do nhà trường và Phòng
GD&ĐT tổ chức và tự học tự nghiên cứu sau học bồi dưỡng.
- Tham gia dự giờ để học hỏi đồng nghiệp, thường xuyên trao đổi trong
các buổi sinh hoạt chuyên môn do nhà trường và cụm tổ chức. Qua đó rút kinh

nghiệm cho từng tiết dạy về phương pháp hình thức tổ chức dạy học. Rút kinh
nghiệm về giọng đọc và giọng kể…trên cơ sở đó bản thân tơi cũng lựa chọn
những phương pháp phù hợp với đặc điểm của lớp, hình thức tổ chức tiết dạy
cho trẻ lớp mình đang dạy.
- Tự xây dựng cho mình giáo án phù hợp với đặc điểm của lớp, những tiết
tập cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Tích cực trao đổi với đồng nghiệp về phương
pháp và hình thức tổ chức, tự rèn luyện về giọng đọc, giọng kể cho diễn cảm.
- Tự học hỏi, tìm tịi, truy cập mạng internet khai thác tối đa tài liệu tranh
minh họa. Ngoài ra từ tranh ảnh khai thác được, tơi có thể làm thành phim ngắn
được lồng tiếng tạo cho câu chuyện bài thơ thêm sinh động, hấp dẫn hơn nhằm
phục vụ tiết học tốt gây hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động làm quen văn
học.
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
Sau khi thực hiện các biện pháp trên tôi nhận thấy kết quả trong hoạt động
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đã được nâng cao lên rõ rệt, cụ thể là:
1. Hiệu quả kinh tế:
( Khơng có)


15

2. Hiệu quả về mặt xã hội
2.1. Về phía giáo viên:
- Sau khi áp dụng phương pháp giảng dạy phù hợp vào thực tiễn tôi thấy:
+ Giọng đọc, giọng kể diễn cảm phù hợp với tính cách của từng nhân vật
thu hút được sự chú ý của trẻ, giúp trẻ hào hứng với các diễn biến của câu
chuyện.
+ Biết cách lấy hình ảnh minh họa lồng ghép giọng đọc và kể thành đoạn
phim. Biết sử dụng công nghệ thông tin một cách thành thạo hỗ trợ tiết dạy sinh
động, hấp dẫn, sáng tạo trong quá trình dạy.

- Nâng cao khả năng sử dụng linh hoạt, đa dạng hoá các hoạt động cho trẻ
không bị nhàm chán và làm tăng sự tích cực hoạt động của trẻ.
2.2. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh hiểu được lợi ích của việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm
văn học ngay từ đội tuổi mầm non giúp các con phát triển ngôn ngữ, trau dồi
tình cảm,đạo đức, kĩ năng .
- Cha mẹ thấy được kết quả của con mình đạt được khi trẻ đọc thuộc bài
thơ, có thể kể lại đoạn chuyện ngắn...và đã ủng hộ cho lớp những nguyên vật
liệu để giáo viên và trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp: tranh chuyện,
họa báo, len vải sợi...
2.3. Về phía trẻ:
- Sau khi áp dụng một số biện pháp cho trẻ làm quen văn học trong năm
học đã cho thấy:
+ Vốn ngôn ngữ của trẻ phát triển hơn.
+ Trẻ thông minh sáng tạo hơn khi tham gia hoạt động làm quen văn học.
+ Trẻ thích được đóng kịch.
+ Trẻ thích đọc thơ kể truyện.
+ Trẻ ghi nhớ thuộc thơ truyện lâu hơn.
+ Biết thích sáng tạo, kể theo trí tưởng tượng một cách phong phú và đa
dạng.
+ Chất lượng khảo sát trẻ:


16

Nội dung

Thơ

Truyện


Khảo sát đầu năm
- Hứng thú: 55%

Khảo sát cuối năm
- Hứng thú: 95%

So sánh
- Tăng 40%

- Hiểu nội dung: 60%

- Hiểu nội dung: 90%

- Tăng 30%

- Thuộc tác phẩm: 60%

- Thuộc tác phẩm: 90%

- Tăng 30%

- Đọc diễn cảm: 50%
- Hứng thú: 65%

- Đọc diễn cảm: 85%
- Hứng thú: 90%

- Tăng 35%
- Tăng 25%


- Hiểu nội dung: 40%

- Hiểu nội dung:80%

- Tăng 40%

- Kể diễn cảm: 20%
- Kể diễn cảm: 55%
3. Khả năng áp dụng và nhân rộng

- Tăng 35%

Phạm vi ứng dụng và triển vọng của đề tài: Với kết quả đạt được của lớp
3 tuổi C - Trường mầm non xã Nghĩa Minh đã cho thấy tính khả thi của đề tài,
tính hiệu quả của các giải pháp giáo dục khả năng cảm thụ văn học cho trẻ với
bậc học mầm non, đáp ứng được xu hướng đổi mới trong giáo dục mầm non; vì
vậy tơi thấy những giải pháp nêu trên có thể phổ biến tới toàn bộ lớp học trong
trường mầm non Nghĩa Minh, các trường mầm non trong cụm chuyên môn số 1;
Các trường mầm non trong huyện Nghĩa Hưng nhằm thực hiện tốt việc giáo dục
tồn diện cho trẻ.
IV. CAM KẾT KHƠNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN.

Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này là sản phẩm của cá nhân tơi.
Nếu có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản
phẩm sáng kiến kinh nghiệm, tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn
vị, Phịng GD&ĐT, Sở GD&ĐT về tính trung thực của bản cam kết này.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN


ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

………………………………………
………………………………………
………………………………………
……………………………………………
………………………………………

Dương Thị Hiền

CÁC PHỤ LỤC KÈM
THEO BÁO CÁO

1. Bản vẽ mô tả chi tiết giải pháp kỹ thuật của sáng kiến (khơng có)


17
2. Ảnh minh họa sáng kiến được áp dụng trong thực tế
3. Sản phẩm khác kèm theo (khơng có)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách “Giáo trình văn học trẻ em” – NXB Đại học sư phạm


18

2. Sách " Văn học thiếu nhi” – Tác giả Đào Thiên An – NXB thông tin và
truyền thông.

3. Sách “Bài giảng văn học thiếu nhi” – Tác giả Lê Thị Hồng Thắm.



×